2020
Ý nghĩa tên & các tước hiệu của Chúa Giêsu
a- Vì sao Thiên Chúa Cứu rỗi?
Trong Kinh Thánh, tên gọi thường liên hệ với lai lịch của một người.
Sự kiện đầu tiên nói về lai lịch của Đức Giê-su đó là tên gọi mà thiên sứ bảo ông Giu-se phải đặt cho Ngài: “Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Như vậy thiên sứ đã cho thấy Đức Giê-su là Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Nguồn gốc: Nhìn lại từ Khởi nguyên, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Ông Adam và bà Eva là tổ phụ của loài người, không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của “cây biết điều thiện điều ác” (trái cấm), nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vườn địa đàng. Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người mang tội, Đức Giêsu (vị Thiên Chúa Cứu rỗi) vì yêu thương nhân loại, nên đã giáng trần để loài người được hòa giải với Thiên Chúa.
Minh định: Ngày đó Đức Giê-su gặp một phụ nữ cạnh bờ giếng bên ngoài một ngôi làng. Ngài đã làm cho bà hết sức ngạc nhiên đến nỗi bà chạy về làng và nói với dân làng: “Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Họ kéo đến và xin Ngài dạy dỗ họ. Sau khi nghe giảng xong, dân làng nói với nhau: “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42). Lại nữa sau khi Đức Giê-su trở về với Chúa Cha, thánh Gio-an viết cho các Ki-tô hữu sơ khai như sau: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa… Đó là Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga 1,3 ; 4,14).
– trước hết, chính trong bối cảnh tội lỗi mà Chúa Giê-su cứu chúng ta khỏi họa bị hủy diệt. Ngài cứu chúng ta khỏi sự chết: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết… Cho nên, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,12.18). Vậy Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế vì Ngài cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết.
b- Chúng ta được cứu rỗi để làm gì?
Được rửa tội trong Đức Ki-tô, chúng ta trở nên chi thể của Nhiệm Thể Ngài và được ban sự sống mới trong Ngài. Điều này đưa chúng ta sang khía cạnh thứ hai của sứ mệnh cứu chuộc của Đức Giê-su: Ngài cứu chuộc chúng ta để làm gì?
– Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được củng cố để tiếp tục công cuộc cứu chuộc mà Đức Giê-su đã khởi sự. Chúng ta đã được cứu khỏi tội lỗi để làm công việc tái tạo trần gian mà tội lỗi đã phá hủy, để hoàn tất triều đại của Thiên Chúa. Những ai nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế thì đều trở nên phần tử trong công cuộc làm thay đổi trần gian. Do đó trách nhiệm của chúng ta lúc này là hãy đem Nước Chúa đến cho mọi người.
2. danh hiệu: Chúa & Con Thiên Chúa.
a- Đức Giê-su là Chúa.
Sau khi nghe Chúa nói “Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Lập tức Tô-ma quỳ sụp xuống và nói: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 27-28). Kể từ giây phút đó cho đến nay, từ ngữ Chúa trở thành một danh hiệu dành riêng để gọi Đức Giê-su. Trong bài giảng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Phê-rô nói về Đức Giê-su như sau: “Thiên Chúa đã đặt Người (Đức Giê-su) làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2,36). Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Rô-ma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 9).
b- danh hiệu Con Thiên Chúa.
Danh hiệu thứ hai họ gọi Đức Giê-su để biểu lộ đức tin vào thiên tính của Ngài, đó là
Chúa Con, hay con Thiên Chúa. Mác-cô mở đầu sách Tin Mừng bằng câu: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa”. Và cũng để kết thúc sách Tin Mừng, Mác-cô ghi lại việc viên đội trưởng Rô-ma sau khi chứng kiến cuộc tử hình của Đức Giê-su đã phải thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15, 39).
Học hỏi kỹ những sách Tin Mừng, chúng ta thấy các tác giả dùng danh hiệu Con Thiên Chúa với ý nghĩa khác hẳn các tác giả Cựu Ước. Danh hiệu Con Thiên Chúa được dùng để gọi Đức Giê-su hiểu theo nghĩa rõ ràng, đích thực, chứ không phải theo nghĩa ám chỉ như thời Cựu Ước.
3. Đức Giê-su là Ngôi Lời.
Tựa mở đầu sách Tin Mừng thánh Gioan viết: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1, 1-14).
Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác con người và sống giữa chúng ta. Ngôi Lời hiện diện, giảng dậy, yêu thương và mạc khải: Tỏ lộ cho chúng ta những điều chúng ta chưa bao giờ biết. Ngài mạc khải không những qua những gì Ngài nói, mà còn qua những gì Ngài thể hiện. Thư gửi tín hữu Do-thái nói về Đức Giê-su như sau: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3). Chính Đức Giê-su cũng nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Cho nên, điều mà không thể có trong lịch sử nhân loại là Ngài đã làm cho Thiên Chúa hiện diện trong thân xác con người cách sống động như thánh Gioan viết: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng … để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (Ga 1,1-4).
* Cùng trong ý nghĩa ấy, chta lại còn có thể hiểu Ngôi Lời chính là Lời của Thiên Chúa vì Ngài mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Ngài còn làm cho chúng ta nhận thức được chính chúng ta một cách rõ ràng hơn. Ngài là hình ảnh toàn hảo của một con người mà mỗi người chúng ta phải cố gắng đạt tới. Qua Ngài, chúng ta thấy rằng với bản năng của một con người, chúng ta có thể vượt thắng mọi khó khăn để trở nên hoàn hảo. Nhân tính của Đức Giê-su đã chứng minh điều đó. Tất cả những gì Ngài đã làm, chúng ta đều có thể học và làm theo Ngài, chẳng hạn như yêu thương kẻ thù, tha thứ cho kẻ bách hại ta, làm bạn với kẻ bị ruồng bỏ, và có khả năng thay đổi người khác bằng ánh mắt hay lời nói.
Tóm lại: Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa theo hai ý nghĩa. Qua bản tính Thiên Chúa, Ngài hé mở cho chúng ta hiểu được Thiên Chúa. Qua bản tính loài người, Ngài thể hiện mức độ hoàn hảo của con người mà chúng ta đều có thể trở thành – nếu chúng ta mở lòng đón nhận lời giảng dạy của Ngài và nhờ ơn Thánh Thần của Ngài biến đổi cuộc sống mỗi ngày của chta.
4. Đức Kitô (từ ngữ Hy Lạp) hay Đấng Messiah (Mê-si-a).
Vào một thời điểm quan trọng trong Tin Mừng, đó là biến cố tại Xê-da-rê Phi-líp-phê khi Đức Giê-su hỏi Phê-rô “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” và Phê-rô đã trả lời “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8,29). Ki-tô nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Từ “Kitô” xuất phát từ chữ Khristos trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là “Đấng được xức dầu”, dịch từ chữ Messiah trong tiếng Hebrew (Híp-ri – Do Thái cổ ngữ). Từ ngữ này dùng để chỉ về một người được Thiên Chúa tuyển chọn và giao phó cho một sứ mệnh.
*Lần đầu tiên Đức Giê-su nói về chính Ngài là Đấng được xức dầu là khi Ngài ở trong hội đường Na-da-rét. Ngài đọc đoạn Kinh Thánh trích sách ngôn sứ I-sai-a:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Rồi Đức Giê-su đã thốt lên những lời đáng nhớ sau đây: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Đức Giê-su đã coi mình như người được Thiên Chúa trao cho sứ vụ “cứu chuộc” đặc biệt.
*Việc Đức Giê-su được “xức dầu” đã xảy ra trong dịp Ngài chịu phép rửa, khi ấy tầng trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Sau này, khi nói với dân chúng về biến cố ấy, ông Phê-rô giảng rằng: “Quý vị biết rõ… Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,36-38).
– Vậy: Danh hiệu Mê-si-a chỉ về Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để thi hành sứ vụ cứu chuộc họ.
Từ này được thấy lần nữa trong Cựu-ước (Đn 9:25-26) ám chỉ một vị được uỷ nhiệm bằng việc xức dầu thánh hiến, do Thiên Chúa sai đến (Đấng Thiên Sai) tạo hạnh phúc cho dân Ngài hay là để cứu rỗi dân Ngài.
– Cũng từ đó ta có từ “Kitô hữu” có nghĩa là “người có Chúa Kitô hiện hữu (ở trong)”, hay “người thuộc về Chúa Kitô”.
5. Emmanuel (Em-ma-nu-ên) hay Immanuel.
Là một trong những danh hiệu của Chúa Jesus. Trong tiếng Anh, chữ này được viết là Immanuel. Danh hiệu Em-ma-nu-ên có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Danh hiệu Em-ma-nu-ên xuất hiện ba lần trong Thánh Kinh: hai lần trong Cựu Ước (Is 7:14, 8:8) và một lần trong Tân Ước (Mt 1:23). Vua Đa-vít đã chia sẻ kinh nghiệm được Chúa ở cùng như sau: Khi có Chúa bên cạnh, ông không phải lo lắng gì; thậm chí có lúc ông đang đi giữa hiểm nguy có thể mất mạng, Đa-vít không sợ hãi vì Chúa bảo vệ ông (Tv 23:1-4).
Người Do Thái tự hào họ là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Họ có Chúa ở cùng. Lịch sử Do Thái ghi lại những kinh nghiệm thắng trận nhờ Chúa ở với họ.
*Đức Giêsu Kitô: Đấng Em-ma-nu-en: Ngài là Thiên Chúa hiện thân làm người. Ngài đến thế gian sống giữa loài người và ở với loài người, như Tiên tri Isaia đã dự báo trong Cựu Ước. Ngài không chỉ cứu loài người ra khỏi cảnh cơ hàn, nhưng đến thế gian để cứu loài người ra khỏi quyền lực của tội lỗi. Thánh Matthêu đã giải thích danh hiệu Em-ma-nu-ên trong ý nghĩa Thiên Chúa ở cùng chúng ta chỉ về Đức Giêsu: “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn xứ: Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:22-23).
2020
Bữa ăn và sự gặp gỡ
Là nguồn cần thiết bổ sung năng lượng, là thời khắc thụ hưởng vui tươi, bữa ăn còn là dịp để đối thoại, trao đổi và chia sẻ. Một tình cảm hiệp thông rất đặc biệt nối kết những người đồng bàn.
Trong thế giới Kinh Thánh và ngoài xã hội nữa, bữa ăn đánh dấu những biến cố lớn trong đời sống gia đình và cộng đoàn: tiệc thôi nôi, đám cưới, những cam kết xã hội và chính trị. Người ta mời khách dùng bữa. Ý nghĩa biểu trưng vẫn luôn là: nối kết những khách mời, khơi dậy sự hiệp thông tinh thần và hòa hợp tâm hồn.
Ăn bánh
Ăn bánh là “nuôi sống mình”. Trong một xã hội nông nghiệp như xã hội của Kinh Thánh thì ngũ cốc là lương thực cơ bản. Hình thức của chiếc bánh có khác nhau. Đó là tấm bánh hay ổ bánh: bằng lúa mạch, lúa mì, hạt kê hay lúa mì nâu. Đôi khi, bột bánh được làm cho mềm đi bằng mật ong hay dầu. Hạt ngũ cốc không thôi cũng là lương thực cơ bản. Cách đơn giản nhất để chuẩn bị bữa ăn bằng ngũ cốc là rang hay nướng.
Quạ phục vụ bữa ăn
Ngôn sứ Êlia gặp khó khăn khi thi hành nhiệm vụ. Trốn cuộc truy sát của vua Akháp, ông chạy vào sa mạc, nơi không mấy hiếu khách mà ta có thể chết đói ở đấy. Nhưng Thiên Chúa lo lắng và bảo đảm cho sự sống còn của ông. Cứ đến trưa, một con quạ mang bánh và thịt đến. Trước khi đêm xuống, cũng con quạ ấy (hay một con khác?) lại xuất hiện. Và sự việc cứ tiếp tục như thế cho đến khi vị ngôn sứ không còn ở trong tình trạng nguy hiểm nữa. Như thế, Êlia có thể lên đường đi Sarépta (ngôi làng mà Thiên Chúa muốn ông đến), nhờ những bữa ăn mà quạ phục vụ trưa tối. Bản văn này cho ta biết về các giờ ăn. Người Israel cổ ăn bữa trưa và bữa tối, ngồi trên đất. Họ cũng dùng những bữa ăn dặm nhẹ gồm: trái cây khô (chà là, vả, nho), hạt đào lạc (pistaches), quả hạnh (amandes), quả óc chó (noix).
Khi đậu lăng thành giấm chua
Một câu chuyện khác về bữa ăn. Hai anh em sinh đôi: Êsau và Giacóp. Êsau là đứa con yêu của cha; Giacóp là đứa con yêu của mẹ. Một ngày kia, Êsau đi săn như thường lệ. Anh tìm con mồi để chuẩn bị món ăn mà cha anh yêu thích. Đấy là ngày Isaác chúc lành đặc biệt cho người con trưởng. Biết được chuyện, bà mẹ bảo Giacóp bắt hai con dê non trong đàn để bà làm món mà ông Isaác yêu thích. Đánh lừa người cha mù lòa, Giacóp được lầm tưởng là Êsau và chiếm lấy sự chúc lành dành cho anh mình. Hiển nhiên, Êsau đến sau với bữa ăn đã “biến thành giấm”!
Rõ ràng, bữa ăn không đem lại cơ hội cho Êsau, người mà trước đó cũng vừa mới “nhường” quyền trưởng nam cho Giacóp để đổi lấy một tô cháo đậu lăng. Chắc chắn, đậu lăng là họ đậu được biết đến nhiều nhất, nhưng người Israel cổ cũng ăn cả đậu gà (pois chiches) và rau quả như: dưa chuột, hành tây, tỏi…
Và thức uống?
Người ta uống rượu nho, hoặc là nước nho ép có đường hoặc là nước ép cho lên men. Đôi khi được cho thêm hương vị, rượu nho được pha loãng nếu quá đậm. Hơn nữa, rượu nho không phải là thức uống có cồn duy nhất được biết đến. Chekhar, nghĩa là thức uống làm cho say, hoặc chỉ một loại rượu làm từ quả cây cọ, chà là, một loại bia làm từ lúa mạch, hoặc một thức uống lên men khác. Kinh Thánh còn nói đến một loại hèm làm từ quả lựu. Để giải khát khi làm việc đồng áng, người ta uống một loại giấm pha với nước.
Gia vị và biểu tượng
Trong thế giới Kinh Thánh, những giao ước đôi khi được gọi là “giao ước muối” (tiếng Hípri là berith mélah), bởi vì muối thêm vị cho món ăn nhưng nhất là vì nó bảo quản tránh khỏi hư hoại. Muối trở thành biểu tượng của sự trường tồn và trung tín của giao ước được ký kết. Những tập quán của người Ả Rập ở đầu thế kỷ giúp ta hiểu rõ hơn về biểu tượng này. Để kết thúc một hiệp ước hay làm cho tình bạn bất phân ly, người Ả Rập cùng nhau nhúng hai miếng bánh của cùng một chiếc bánh vào trong muối và ăn chúng. Họ tuyên thệ rằng: “Hãy làm điều này nhờ bánh và muối ở giữa chúng ta”. Từ đó có thành ngữ Ả Rập “traître jusqu’au sel” (phản bội đến cả muối, nghĩa là, phá hủy giao ước). Và thành ngữ “avoir mangé un boisseau de sel” (ăn một vốc muối) có nghĩa là “bạn vong niên”.
Ngồi bàn ăn
Phục vụ bàn ăn thay đổi tùy theo giai cấp xã hội. Người nghèo ngồi quanh một mâm ăn sâu lòng mà mỗi người lấy thức ăn bằng tay. Trong những gia đình có điều kiện, người ta đặt những ghế và bàn riêng (những chân ghế mà người ta đặt mâm ăn trên đó). Từ thế kỷ V trước Công nguyên, người ta mới thấy các vua chúa, và những nhân vật đặc biệt (nhất là trong những đại tiệc) nằm dài ra ăn trong khi các bà vẫn ngồi.
Sách Châm Ngôn 23,1-3,6-8 và Huấn Ca 31,12-24 cho chúng ta những mẫu “quy chuẩn” khi ngồi bàn ăn: “Khi con ngồi ăn với kẻ có chức quyền, hãy để ý kỹ người đối diện. Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao kề cổ. Đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn, vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt. […] Chớ ăn bánh của quân xấu bụng, đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn. Vì lòng hắn nghĩ sao, con người hắn như vậy. Hắn mời con: “Ăn uống đi nào!” Nhưng đâu phải hắn có lòng với con. Mẩu bánh vừa nuốt vào, con đã phải thổ ra. Mất công toi bao nhiêu lời tốt đẹp” (Cn 23, 1-3,6-8)
“Khi ngồi trước mâm cao cỗ đầy, đừng hả họng thốt lên: “Chà! Thịnh soạn quá!” Hãy nhớ rằng: mắt hau háu là điều chẳng hay. Có thụ tạo nào tệ hơn con mắt? Gặp chi nó cũng phát khóc (vì thèm). Miếng người khác đã nhằm, con đừng đưa tay tới, đừng giành với họ trên cùng một đĩa. Hãy suy bụng ta mà nghĩ ra bụng người, làm việc gì cũng phải đắn đo cân nhắc. Những món đã dọn ra, hãy ăn làm sao cho xứng một con người, đừng nhai nhồm nhoàm kẻo bị khinh chê. Hãy tỏ ra có giáo dục mà buông đũa trước. Đừng háu ăn kẻo người ta bực mình. Chung mâm với nhiều người, con đừng cầm đũa trước. Người có giáo dục thì chút ít cũng vừa, trên giường nằm sẽ không tức bụng. Ăn chừng mực sẽ ngủ thoải mái, thức dậy sớm, tâm hồn được thảnh thơi; kẻ ăn uống quá độ thì mất ngủ đã đành, mà còn bị thượng thổ hạ tả. Nếu đã bị ép phải ăn, hãy đứng lên ra ngoài mà ói, con sẽ thấy dễ chịu. Con ơi, hãy nghe ta, chớ có khinh thường, sau này con sẽ thấy là ta nói đúng: Trong mọi việc con làm, hãy giữ chừng giữ mực, thì chẳng bệnh tật nào chạm tới con. Chủ nhà hào hoa, người người ca tụng, thiên hạ còn kể mãi về lòng tốt của ông. Chủ nhà sẻn so, cả làng đàm tiếu, thiên hạ có kể về sự hẹp hòi đó thì cũng phải thôi” (Hc 31,12-24)
Bữa tiệc Thánh Thể
Có những lời nói và hành động của Đức Giêsu liên quan đến tính chất xã hội của bữa ăn. Vì thế, khi Đức Giêsu phân phát bánh cho đám đông, Ngài không làm theo kiểu mạnh ai nấy tự phục vụ; Ngài bảo mọi người “quy tụ lại thành những nhóm 100 hay 50 người”, như thế là làm thành những bàn ăn. Và chỉ khi đó thì bữa ăn chính thức mới bắt đầu. Cùng nhau ăn, trao đổi với nhau những lời nói, tăng thêm giá trị thiêng liêng cho thú vui yến tiệc. Trong Kinh Thánh, bữa ăn là nơi khơi gợi lên sự hòa giải, tái lập những giao ước đã bị phá vỡ. Đàng khác, phản bội đang khi người ta tin tưởng cùng ngồi ăn với nhau, đó sẽ là sự phản bội tệ hại nhất trong mọi sự phản bội.
Theo các Tin Mừng, chính quanh một bàn ăn mà Đức Giêsu đã quy tụ các môn đệ với nhau lại lần cuối cùng. Chia sẻ bánh và rượu trở nên biểu tượng của quà tặng mà Chúa đã làm bằng chính con người mình dành cho số đông người, là giao ước mà Ngài thiết lập với mỗi người. Nhất là nó tượng trưng cho sự kết hiệp từ nay ngự trị giữa những ai “ăn bánh và uống chén này” trong khi chờ đợi bữa đại yến tiệc cùng với Ngài trong Nước Trời.
Aldina da Silva
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ từ Parabole
2020
Có phải sách Khải Huyền không được đọc trong các Thánh lễ?
Dưới đây là trả lời của cha Cido Pereia dành cho độc giả Regina Célia trên tuần báo São Paulo thuộc tổng giáo phận Brasil.
“Regina thân mến, tôi nghĩ rằng bạn không nhận ra sách Khải huyền đã được dùng, và thường dùng trong thánh lễ. Ví dụ, Khải huyền đã được dùng trong các bài đọc Năm C ở tuần thứ 4, 5 và 6 mùa Phục sinh, và những ngày trong tuần 33 và 34 mùa Thường niên. Các bài đọc Khải huyền cũng được dùng trong các Thánh lễ Cung hiến nhà thờ, lễ về Đức Mẹ, các Thánh Tử đạo và các Thánh. Nó cũng thường được dùng trong lễ cầu cho người đã qua đời.
Đó là một cuốn sách rất đặc biệt. Sách được thánh Gioan viết trong giai đoạn đau khổ lớn lao vì những cuộc bách hại đang nhắm vào Giáo hội. Thánh Gioan đã viết bằng một ngôn ngữ đầy biểu tượng để duy chỉ các Kitô hữu mới hiểu được nó. Cuốn sách miêu tả cách tượng trưng cuộc đấu tranh của quyền lực sự dữ chống lại các môn đệ của Chúa Giêsu, cho đến khi Người trở lại. Cuối cùng họ sẽ chiến thắng và thành Giêrusalem trên trời cũng sẽ xuất hiện.
Tôi nghĩ về những đau khổ của các Kitô hữu tiên khởi, họ phải đối diện với những cuộc bách hại và hiểu lầm. Họ bị cám dỗ để nản lòng, từ bỏ niềm tin vào Chúa Giêsu. Khải huyền là một cuốn sách tràn đầy hy vọng. Qua sách này, thánh Gioan hô lên rằng chỉ những ai kiên trì đến cùng mới được cứu rỗi. Vì thế, cuốn sách diễn tả bữa đại tiệc sau cùng, khi Chúa Giêsu là tất cả trong mọi sự.
Sách Khải Huyền được chia thành hai phần chính: phần đầu tiên đề cập đến kinh nghiệm hiện tại nơi các cộng đoàn Kitô giáo. Giáo hội phải đối mặt với nhiều cuộc đấu tranh, nhưng trong tương lai, Giáo hội và Chúa Kitô sẽ chiến thắng. Vì vậy, tôi nhắc lại, Khải huyền là một cuốn sách đầy tràn hy vọng”.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho bạn và gia đình.
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2020
Bàn thờ hình tròn có được không?
Viếng thăm nhiều nhà thờ, chúng ta nhận ra rằng hầu hết các bàn thờ trong cung thánh có bề mặt là hình chữ nhật. Nhưng thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy bàn thờ có bề mặt là hình vuông, hình tròn hay hình đa giác. Để xác định bàn thờ trong cung thánh nhà thờ có thể làm theo hình tròn hay không, thiết tưởng chúng ta cần tìm hiểu các hình dáng của bàn thờ đã từng xuất hiện và tồn tại trong lịch sử Hội Thánh cũng như duyệt lại luật phụng vụ hiện hành quy định về hình dáng của bàn thờ như thế nào.
Phương diện lịch sử
Thực sự, Tân Ước không nói nhiều đến bàn thờ. Chúng ta có thể biết tới bàn thờ trong thị kiến được nêu ra trong sách Khải huyền. Khi các sách Tân Ước đang được viết, thì cái bàn cộng đoàn sử dụng để cử hành Bữa tiệc của Chúa không phải là bàn thờ thực sự, mà chỉ là cái bàn nhỏ, đơn giản và bằng gỗ với chức năng nguyên thủy, theo như Josef Jungmann cho biết, là để đặt bánh và rượu trên đó, nhưng khía cạnh bàn tiệc của bí tích vẫn sáng tỏ.[1] Nhận định này trùng với ý kiến cho rằng thời các tông đồ, bàn thờ chỉ là một cái bàn ăn (mensa) và được gọi là bàn ăn của Chúa Kitô (mensa Christi) vì Bữa ăn Huynh đệ (Agape) liên kết với lễ Nghi lễ Bẻ bánh (Eucharistia) giữa cộng đoàn[2]. Lúc bấy giờ, Agape đi chung với Eucharistia, bàn có hình chữ C. Nhưng từ khi Agape bị tách ra khỏi Eucharistia vì sự lạm dụng như được mô tả trong 1Cr 11,17-34, thì chỉ còn một cái bàn cho cả cộng đoàn. Căn cứ vào hình ảnh trên các vòm hang toại đạo thì bàn này hình tròn, có ba chân, thường làm bằng gỗ. Mọi người tham dự Nghi lễ Bẻ bánh đứng chung quanh bàn và tiến đến bàn khi hiệp lễ. Do nguồn gốc này mà trong Lễ quy Rôma, dân chúng được gọi là CIRCUMSTANTES, nghĩa đen là những người đứng chung quanh.[3] Trong GH đã từng tồn tại bàn thờ hình bán nguyệt từ thập kỷ đầu của thế kỷ thứ hai. Cổ xưa nhất, cũng như đáng chú ý nhất là bức bích họa về cử hành Thánh Thể được tìm thấy ở nhà nguyện Greca với hình ảnh có bảy người ngồi trên một ghế dài hình bán nguyệt trước một cái bàn cùng hình bán nguyệt.[4]
Ngoài các hình dáng trên đây, hầu như mọi bàn thờ trong nhà thờ/nhà nguyện vào thời kỳ trước Công đồng Vatican II và ngay cả hiện nay đều có hình dáng là chữ nhật hoặc ít là mặt bàn thờ với phiến đá là hình chữ nhật vì bàn thờ được thiết kế như một: ngôi mộ; bàn thờ hy tế; và bàn ăn/ bàn tiệc của Chúa (Mediator Dei, 62; QCSL 73, 296; GLCG 1181; LNGM 945)[5] vì chiều kích hy tế của bí tích Thánh Thể hay chiều dọc của việc thờ phượng trong Thánh lễ được nhấn mạnh nhiều hơn.[6] Bàn thờ này không chỉ là bàn tiệc Thánh Thể mà theo thánh Tôma Aquinô, còn là Thánh giá Chúa Kitô, trên đó Chúa Giêsu chịu sát tế, Ngài “lấy máu mình mà thánh hoá toàn dân” (Hr 13, 10-12).[7]
Sau thời cấm đạo ở Rôma (thế kỷ IV-V), những bàn thờ bằng đá sớm nhất chính là ngôi mộ của các vị tử đạo được chôn cất trong hang toại đạo ở Rôma. Việc cử hành Thánh Thể trên mộ của các vị tử đạo có dấu vết từ thế kỷ thứ hai nhằm tưởng niệm và vinh danh những người sẵn sàng chịu chết vì đức tin. Dưới triều đại của ĐGH Damasus (366-384), các nhà thờ và nhà nguyện được dựng lên ở Rôma và những nơi khác để vinh danh các vị tử đạo nổi tiếng nhất, và các bàn thờ, khi có thể, được đặt ngay phía trên ngôi mộ của họ vì muốn liên kết hài cốt các vị tử đạo với bàn thờ (nơi cử hành Thánh lễ).[8] Điều này thích ứng với những gì sách Khải huyền mô tả: “Khi Con Chiên mở ấn thứ năm, thì tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng”(Kh 6,9). Nó còn nhằm nhấn mạnh ý nghĩa: Hy lễ của các chi thể bắt nguồn từ hy lễ của Đấng là Đầu và là Thủ Lãnh. Vào khoảng thời gian này (thế kỷ IV –VI), người ta cũng có thói quen chôn các linh mục và giám mục dưới bàn thờ. Nhưng ĐGH Félix I tuyên bố chỉ mộ huyệt của các thánh tử đạo mới xứng đáng là nơi để dâng lễ, nên không cho cử hành Thánh lễ trên bất cứ mộ phần nào khác. Đây là lý do mà trong quá khứ, các nhà kiến trúc đã từng thiết kế bàn thờ như một ngôi mộ, đôi khi có cả thi thể của một vị thánh nằm trong đó. Nhất là từ thế kỷ thứ X, người ta đẩy lùi bàn thờ vào cuối cung thánh, linh mục quay mặt vào bàn thờ [sát tường/hậu bầu của cung thánh] để cử hành Thánh Thể, giáo dân nhìn vào lưng của ngài. Còn thầy phó tế, lúc trước đứng đối diện với chủ tế trong suốt Thánh lễ, nay đứng sau lưng của ngài, đương nhiên hình dáng của bàn thờ là hình chữ nhật/ngôi mộ.[9]
Từ sau Công đồng Vatican II, khi chiều kích hiệp thông huynh đệ/bàn tiệc Thánh Thể được nhấn mạnh nhiều hơn hầu giúp toàn thể cộng đoàn có thể tham gia nhiều hơn vào nghi thức Thánh lễ thì mới nảy sinh các thiết kế và xây dựng sau:[10] [i] Thứ nhất, mặt sàn nhà thờ có thể không còn theo kiểu mẫu hình thánh giá của các basilica xưa kia nữa (chẳng hạn như sàn của các nhà thờ chính tòa kiểu Gôtic tại Âu châu, tại Mỹ, các nhà thờ cổ tại Việt Nam hay đa số các nhà thờ tại miền Bắc nước ta). Thay vào đó, sàn nhà thờ của một số thánh đường thời kỳ hậu Vatican II có hình thức gần giống như sàn của một “nhà hát”/ “sân vận động”, nghĩa là chúng được thiết kế và xây dựng theo hình vuông, bán nguyệt, lục giác, bát giác, tròn hay bầu dục. Cung thánh sẽ ở trung tâm hoặc được đặt ở góc của hình vuông hay dựa sát vào tường nếu mẫu nhà thờ có sàn hình bán nguyệt, lục giác hay bát giác; [ii] Thứ hai, một loại bàn thờ chưa bao giờ được biết đến ở tầm mức hoàn vũ và đáng ao ước ở mọi nhà thờ mới. Đó chính là bàn thờ để cử hành Thánh lễ đối diện với dân chúng (versus populum) như đã từng thực hành hồi thế kỷ IV-VI trong những ngôi đại thánh đường, hoặc nơi tư gia, hay thậm chí trong các hang toại đạo.[11] Như vậy, với bàn thờ mới, cộng đoàn dễ dàng tham dự phụng vụ cách tích cực hơn,[12] cho thấy sự hợp nhất giữa chủ tế và dân chúng trong một cử hành.[13] Thêm nữa, vị tư tế có thể cử hành Thánh lễ theo cả hai cách: đối diện với dân chúng hay đối diện với bàn thờ và sẽ phải có một khoảng không gian thềm cung thánh rộng rãi ở cả hai phía của bàn thờ cho chủ tế đứng và bái quỳ cũng như để ngài có thể thuận tiện đi xung quanh bàn thờ mà xông hương (QCSL 299; DX 64).
Hậu nhiên là do những thay đổi trên đây mà người ta bắt đầu thấy xuất hiện trở lại, tuy không nhiều lắm, bàn thờ theo hình tròn/bát giác/bầu dục. Đồng thời người ta còn mô tả bàn thờ là “bàn của cộng đoàn”.[14] J. Gélineau đặt vấn đề như sau:
Vậy cái bàn này phải có hình dáng thế nào để ta thấy đó là nơi Chúa Kitô mời ta đến cùng đồng bàn với Ngài, và để nó nhắc ta nhớ đến các bữa ăn của ta, các cuộc chung vui của ta? Ta phải tỏ dấu kính trọng bàn thờ thế nào? Trang hoàng các bông hoa, ánh sáng…? …Rồi còn những khi người ta chất lên bàn thờ đủ thứ, nào là máy ghi âm, các thứ dây điện chằng chịt, từng chồng sách, cả những máy am-pli, máy thâu băng… Như vậy không phải làm mất hình ảnh bàn thờ đó sao?”[15]
Quy định phụng vụ
Bộ Giáo Luật (1983), khi bàn về “bàn thờ” từ điều 1235-1239, tuyệt nhiên không nói gì đến hình dáng bàn thờ mà chỉ đề cập đến những vấn đề sau: số bàn thờ trong nhà thờ; bàn thờ cố định và bàn thờ lưu động; chất liệu làm bàn thờ (bằng đá, tảng đá tự nhiên duy nhất, hoặc bằng chất liệu khác, xứng đáng và vững chắc…); cung hiến và làm phép; lưu giữ hài cốt các vị tử đạo hay các thánh khác dưới bàn thờ cố định; bàn thờ chỉ được dành riêng cho việc phụng tự, tuyệt đối phải loại trừ mọi sử dụng phàm tục; không chôn táng xác chết dưới bàn thờ và không được phép cử hành Thánh lễ trên bàn thờ ấy.
Toàn bộ Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL] (2002) đề cập đến hạn từ “bàn thờ” ở 213 chỗ, đặc biệt tại mục “Bàn thờ và cách trang trí”, QCSL cho chúng ta biết rất chi tiết về bản chất, chức năng và cách sắp xếp bàn thờ: bàn thờ cố định, bàn thờ di động, việc xây bàn thờ cách vách tường để có thể dễ dàng đi chung quanh và có thể cử hành Thánh lễ quay mặt xuống tín hữu, bàn thờ phải làm bằng chất liệu xứng hợp, quý giá, bền chắc như đá tự nhiên, gỗ quý… (các số 296-308). Tuy nhiên, bộ Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) không xác định bàn thờ làm theo theo hình dáng nào.
Tài liệu Dựng Xây Từ Những Viên Đá Sống Động [DX] (2006) của UBGM về Nghệ Thuật Thánh (trực thuộc HĐGM Việt Nam) hầu như chỉ lập lại, khai triển và cụ thể hóa những gì đã được nói đến trong Bộ Giáo Luật (1983) và Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) tại các số 63-67. Cách riêng tại số 63, tài liệu hướng dẫn: “Dù không nói rõ kích thước và hình dáng, nhưng bàn thờ cần phải cân đối với nhà thờ. Hình dáng và kích thước cần phản ánh bản chất của bàn thờ là nơi tế lễ và là bàn, nơi mà Chúa Kitô tụ họp cộng đoàn xung quanh để nuôi dưỡng họ…”. Như vậy, Dựng Xây Từ Những Viên Đá Sống Động cũng không xác định bàn thờ làm theo theo hình dáng nào.
Cử hành Thánh lễ bên ngoài nhà thờ/nguyện
Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) số 297 nói rằng: “Trong nơi thánh, Thánh lễ phải được cử hành trên một bàn thờ. Ngoài nơi thánh thì có thể cử hành trên một bàn thích hợp, nhưng bao giờ cũng phải có khăn phủ bàn và khăn thánh, thánh giá và nến.” Trong nơi thánh, tuyệt đối Thánh lễ luôn luôn phải cử hành trên bàn thờ và bàn thờ này phải đáp ứng các quy định về luật phụng vụ như vừa nhắc lại trên đây nhưng không nhất thiết là phải có hình vuông, hình chữ nhật hay hình tròn. Còn “cái bàn” bên ngoài nhà thờ dùng để cử hành Thánh lễ được hiểu là một cái bàn thích hợp tại các đền thánh, tư gia hay nơi hành hương trong tâm tình và nhận thức rằng tình yêu của Chúa Kitô lan tràn khắp mặt đất và Hội Thánh tìm thấy nhà của mình không chỉ ở những nơi thánh được dành riêng để tôn thờ Chúa mà còn ở nơi khác nữa.[16] Chính vì vậy, cái bàn này sẽ có những hình dáng khác nhau. Liên quan đến vấn đề này, có thể nói lại ở đây kinh nghiệm của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Tôi đã được cử hành Thánh lễ trong nhà nguyện trên triền núi, trên bờ hồ, trên bãi biển, tôi đã dâng Thánh lễ trên bàn thờ dựng ngay trong sân vận động, trên công trường các thành phố?”[17]
Kết luận
Tóm lại, sự đa dạng của các hình dáng bàn thờ và luật phụng vụ không quy định hình dáng của bàn thờ sẽ dễ dàng dẫn người ta tới chỗ tùy nghi chọn lựa thiết kế bàn thờ hoặc theo hình chữ nhật, hoặc theo hình vuông, hình bầu dục, hay hình tròn phù hợp với kích cỡ cộng đoàn của họ cũng như có tương quan mỹ học với giảng đài, ghế chủ tọa và môi trường phụng vụ nói chung ở đó. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng với những nhà thờ nhỏ, thì bàn thờ nên có hình vuông hay hình chữ nhật; còn với những thánh đường lớn, bàn thờ có thể thiết kế theo hình chữ nhật hay hình tròn vì như vậy bàn thờ mở ra cho 4 phương của thế giới. Dù vậy, phương án tốt nhất là chúng ta nên chọn bàn thờ có hình chữ nhật, vì những lý do sau: [i] Thứ nhất, sự chọn lựa này tiếp tục truyền thống và thực hành phổ biến nhất từ xưa tới nay về hình dáng của bàn thờ; [ii] Thứ hai, hình dáng này thuận lợi nhất cho việc bày trí các vật dụng phụng vụ trên bàn thờ; [iii] Thứ ba, khi nói đến “cạnh bàn thờ”/ “góc bàn thờ” (latus altaris/the side of the altar) đi kèm với hành động của chủ tế/các vị đồng tế như trong Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) tại các số 76, 142, 144-145, 163, 248, 270 và trong Nghi thức Thánh lễ (2002) tại số 28 cũng như tại số 17 của Nghi thức Thánh lễ (2002) [khi chỉ có một thừa tác viên tham dự], rõ ràng chúng ta liền nghĩ ngay, hiểu ngay đến bàn thờ hình chữ nhật hơn bất cứ một hình nào khác và hình tròn thì chắc chắn chẳng có “góc” hay “cạnh” gì cả.
______________
[1] Xc. Dennis McNally, SJ, “Altar”, trong Fink E. Peter, SJ (ed.), The New Dictionary of Sacramental Worship (Collegeville, Minnesota: A. Michael Glazier Book/ The Liturgical Press, 1990)43-45.
[2] J. Jungmann, The Early Liturgy: To the Time of Gregory the Great, tr. Brunner Francis (Indiana: University of Notre Dame Press, 1959), 254.
[3] Charles E. Miller, CM, The Celebration of The Eucharist (Newyork: St Paul’s, Alba House, 2010), 49.
[4] Maurice M. Hassett, “History of the Christian Altar”, trong The Catholic Encyclopedia, copyright © 1913 by the Encyclopedia Press, Inc. Electronic version copyright © 1996 by New Advent, Inc., P.O. Box 281096, Denver, Colorado, USA, 80228. ([email protected]) Taken from the New Advent Web Page (www.knight.org/advent).
[5] Xc. Duncan G. Stroik, The Church Building as a Sacred Place (Chicago/Mundelein, IL: Hillenbrand Books, 2012), 96; Richard Taylor, Làm thế nào để hiểu một thánh đường, dg, Nguyễn Văn Huy (Nxb. Tôn Giáo, 2014),60-61.
[6] Joseph M. Champlin, Bên trong Nhà thờ Công giáo (Nxb. Tôn Giáo, 2015), 64.
[7] Thomae Aquinatis, “In Epistolam ad Hebraeos”, trong Divi Thomae Aquinatis Doctoris Angelici Ordinis Praedicatorum. Opera VII-VIII (Venetiis, 1747), 407-584, 579.
[8] Cuốn “Liber Pontificalis” vốn được gán cho ĐGH Felix I (269-274) chứa một sắc lệnh cho biết Thánh lễ nên được cử hành trên các ngôi mộ của các vị tử đạo (constituit supra memorias martyrum missas celebrare, “Lib. Pont.”, ed. Duchesne, I, 158); Xc. J. B. O’Connell, Church Building and Furnishing (London: Burns & Oates, 1955), 127.
[9] J. B. O’Connell, Church Building and Furnishing, 129; Nguyễn Văn Trinh, Thánh lễ 2 (Lớp BDTH Liên Dòng. Knxb), 148-149; Duncan G. Stroik, The Church Building as a Sacred Place (Chicago/Mundelein, IL: Hillenbrand Books, 2012), 132.
[10] Mark G. Boyer, The Liturgical Environment, 2nd edition (Collegeville, Minnesota: Liturgical Press, 2004), 8-10.
[11] Consilium, “Letter Le renouveau liturgique of Cardinal G. Lercaro to presidents of the conference of bishops, on furthering liturgical reform (30 June 1965)”, trong Documents on the Liturgy 1963 – 1979, Conciliar, Papal, and Curial Texts (Minnesota: The Liturgical Press, 1982), 117-122; J. B. O’Connell, Church Building and Furnishing, 153-154.
[12] Sacra Congregatio Rituum, Instructio, ad exsecutionem constitutionis de sacra liturgia recte ordinandam, AAS 56 (1964) 877-900.
[13] C. Napier, “Altar in Contemporary Church”, trong The Clergy Review 57 (1972/8) 628.
[14] Dennis R. McNamara, Catholic Church Architecture and the Spirit of the Liturgy ((Chicago/Mundelein, IL: Hillenbrand Books, 2009), 219.
[15] J. Gélineau, Họp Nhau Cử Hành Phụng Vụ, tập I (Nxb Đồng Nai, 1992), 217.
[16] Xc. Mary Schaefer – Joanne M. Pierce, “Some General Norms for All Forms of Mass”, eds. Edward Foley, et al., A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Collegeville, Minnesota: A Pueblo Book/ The Liturgical Press, 2007), 361.
[17] ĐGH Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, 8. Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS