2020
Điều Gì Làm Cho Một Cuộc Hôn Nhân Thành Sự?
Điều Gì Làm Cho Một Cuộc Hôn Nhân Thành Sự?
Để hôn nhân trở thành bí tích thành sự (valid), theo nghĩa Công Giáo, hôn nhân đó phải là hôn nhân giữa hai người Kitô hữu (Nam và Nữ) đã được rửa tội và chưa từng kết hôn (một cách thành sự) trước đó, ngoại trừ trường hợp người phối ngẫu (vợ hoặc chồng) đã chết. Có những miễn trừ hoặc chuẩn nhận chính đáng có thể làm cho hôn nhân thành sự trong các trường hợp khác. Chẳng hạn, một người Công Giáo có thể kết hôn với một người theo đạo Tin Lành đã được rửa tội và hôn nhân đó vẫn thành sự như thường với điều kiện là cặp vợ chồng đó được Giáo Hội Công Giáo chuẩn bị, người Công Giáo hứa sẽ giáo dục con cái từ cuộc hôn nhân này theo đạo Công Giáo, và có phép chuẩn từ Tòa Giám Mục giáo phận. Khi hoàn tất các thủ tục này, hôn nhân đó có thể được cử hành trước sự chứng kiến của Giáo Hội Công Giáo và thành sự.
Trong hôn nhân Công Giáo luôn có hai điều cần xem xét: một là phía dân sự, giấy đăng ký kết hôn; và hai là bí tích, hay giao ước. Hôn nhân Công Giáo, khi được vị đại diện hữu hiệu của Giáo Hội chuẩn bị, chẳng hạn linh mục hoặc phó tế, phải bao gồm cả hai khía cạnh này của hôn nhân. Một cuộc điều tra hôn phối bao gồm lý lịch của cả hai ứng cử viên bí tích hôn phối được thực hiện. Ở bên Mỹ, đôi bạn thường phải làm một bài trắc nghiệm điều tra, được gọi là FOCCUS. Trắc nghiệm khách quan này sẽ giúp thừa tác viên tư vấn cho đôi bạn về một số khía cạnh quan trọng trước khi kết hôn. Nó cũng đánh giá mức độ hòa hợp của họ. Tiếp theo, đôi bạn có thể tham dự một khóa tĩnh tâm cuối tuần dành cho người chuẩn bị kết hôn (tiền hôn nhân). Các chương trình chuẩn bị hôn nhân này giúp cho đôi bạn thêm hiệp thông và hiểu biết lẫn nhau.
Cuối cùng, linh mục hoặc phó tế hoàn tất thủ tục điều tra và thu thập tất cả các tài liệu quan trọng theo yêu cầu của Giáo Luật, chẳng hạn, giấy chứng nhận Rửa Tội, Thêm Sức, và nếu cần, giấy miễn chuẩn ngăn trở hoặc giấy phép kết hôn cần thiết từ Đức Giám Mục cho ứng viên hôn phối ngoài Công Giáo hoặc một người đã kết hôn trước đó. Các giấy chứng nhận này phải được cấp trong khoảng một năm trở lại đây. Giấy chứng nhận Rửa Tội mà mẹ bạn cất giữ lâu nay không được tính, ít nhất là theo quan điểm của Giáo Luật. Mỗi khi người Công Giáo lãnh nhận một bí tích, giáo xứ mà họ được rửa tội trước đây sẽ được thông báo. Khi liên hệ với giáo xứ nơi họ được rửa tội, họ nhận được giấy chứng nhận không chỉ có thông tin ở mặt trước như trong hồ sơ gốc (tên của người rửa tội, tên của cha mẹ ruột và cha mẹ đỡ đầu, ngày sinh, ngày rửa tội ) mà mặt sau còn liệt kê tất cả các bí tích mà họ nhận được cho đến trước khi giấy chứng nhận được cấp. Vì hầu hết người Công Giáo được rửa tội từ nhỏ, nên bạn sẽ không thấy bất kỳ ghi chú nào ở mặt sau của giấy chứng nhận rửa tội gốc của họ đề cập đến bí tích Hôn Phối hoặc Truyền Chức Thánh. Nếu một người nam hoặc nữ đã kết hôn trước đó, giáo xứ mà họ được rửa tội sẽ được thông báo, và thông tin đó sẽ xuất hiện trên tất cả giấy chứng nhận rửa tội được cấp kể từ thời điểm đó. Đó là lý do tại sao các tài liệu này không thể quá hạn một năm.
Hôn nhân Kitô giáo không chỉ là bí tích, mà còn là một hợp đồng pháp lý trong luật dân sự. Hợp đồng hoặc giấy đăng ký kết hôn được chứng nhận từ phía nhà nước hoặc địa phương nơi cô dâu hoặc chú rể sinh sống. Cô dâu và chú rể, cùng với một người làm chứng, chỉ cần điền đầy đủ thông tin vào mẫu đăng ký thích hợp tại các ủy ban nhân dân xã, phường, hoặc thị trấn cứ trú của một trong hai bên.
2020
Chúa Giêsu hiện diện bao lâu trong Bánh Thánh sau khi ta rước lễ?
Chúa Giêsu hiện diện bao lâu trong Bánh Thánh sau khi ta rước lễ?
Gia sản quý báu nhất mà Giáo Hội Công Giáo có được chính là bí tích Thánh Thể – là chính Chúa Giêsu ẩn mình trong chất thể bánh rượu. Chúng ta xác tín, “Trong bí tích Thánh Thể cực trọng hiện diện “mình và máu, cùng với linh hồn và thần tính, của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và vì vậy, Đức Kitô được ẩn chứa cách đúng đắn, chân thật và bản thể.” (Giáo lý điều 1374)
Sự hiện diện này của Chúa Kitô không chấm dứt ngay lập tức khi ta rước lễ. Giáo lý dạy thêm rằng “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể bắt đầu vào thời điểm truyền phép và kéo dài bao lâu chất thể Bánh Rượu còn tồn tại.” (Giáo lý điều 1377)
Vậy điều đó có ý nghĩa thế nào với chuyện ta rước Người vào miệng? Sự hiện diện thật sự của Người trong cơ thể ta sẽ kéo dài bao lâu?
Có một câu chuyện nổi tiếng trong cuộc đời của Thánh Philipphê Nêri có thể giúp ta trả lời thắc mắc trên. Một ngày kia, khi Thánh Philipphê Nêri cử hành Thánh lễ, có một người đàn ông rước lễ và rời khỏi nhà thờ sớm. Người đàn ông có vẻ không quan tâm gì đến Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, nên Thánh Philipphê quyết định sử dụng cơ hội này để dạy một bài học. Ngài sai hai cậu giúp lễ cầm hai cây nến cháy đi theo người đàn ông kia ra khỏi nhà thờ. Sau khi đi qua vài con đường của thành Rôma, người đàn ông phát hiện hai cậu giúp lễ cứ tò tò đi theo mình. Bối rối quá, ông ta bèn quay lại nhà thờ và hỏi Thánh Philipphê Nêri cho rõ lý do của chuyện đó. Thánh nhân đáp: “Chúng tôi phải tôn kính đúng mức đối với Chúa chúng ta, Đấng mà ông đang mang trong mình ông. Bởi ông xao lãng việc tôn thờ Người, tôi phải gửi hai cậu lễ sinh này đi để làm điều đó thay ông.” Người đàn ông kinh ngạc với lý do này, và từ đó về sau nhất quyết tôn kính Chúa Thánh Thể cho xứng đáng sau khi rước lễ.
Có thể tin rằng chất thể Bánh Thánh Thể tồn tại trong 15 phút sau khi vào miệng ta. Đó là theo sinh lý tự nhiên, và căn cứ vào giáo lý điều 1377, sự hiện diện của Chúa kéo dài bao lâu Bánh còn tồn tại nguyên hình dạng.
Do đó, nhiều vị Thánh khuyên ta nên dành trung bình 15 phút cầu nguyện sau khi rước Thánh Thể để tạ ơn Chúa. Điều này giúp linh hồn cảm nếm trọn vẹn sự hiện diện của Chúa và có một quan hệ “tim cạnh tim” thật sự với Chúa Giêsu.
Trong thế giới bộn bề ngày nay, xem ra khá khó khăn để ở lại cầu nguyện lâu sau Thánh lễ, nhưng chắc chắn không có nghĩa là chúng ta không thể cầu nguyện một lát. Điều cực kỳ quan trọng là ta ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Bánh Thánh mà ta ăn vào miệng, tồn tại trong lòng ta nhiều phút, và ban cho ta khoảnh khắc đặc biệt là ta có thể giao tiếp với Chúa và cảm nghiệm tình yêu của Người.
Nếu có ngày nào bạn quên Chúa hiện diện trong bạn mà bỏ khỏi nhà thờ sớm, đừng ngạc nhiên nếu thấy cha xứ cho vài người giúp lễ tò tò đi theo bạn ra xe về nhà nhé.
Theo Aleteia
Gioakim Nguyễn chuyển dịch
2020
Một số vấn đề cần lưu ý liên quan đến Phụng vụ Thánh lễ
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, đã nhắc nhở về tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể như là trung tâm và tột đỉnh của đời sống Giáo Hội.[1] Chính vì tầm quan trọng này, cũng như vị trí và vai trò của bí tích Thánh Thể trong đời sống của Giáo Hội, trong Thông điệp của ngài, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II thấy là cần phải lưu ý mọi thành phần của Dân Chúa về những tiêu cực và lạm dụng có thể là nhân danh chính tinh thần cởi mở của Công đồng Vatican II, trong việc cử hành thánh lễ[2]: “cần phải lên tiếng một cách cương quyết, để trong cử hành thánh lễ, những quy luật phụng vụ luôn được tuân giữ một cách đúng đắn.”[3]
Thật vậy, các quy tắc phụng vụ vốn là những yếu tố rất quan trọng và cần thiết, bởi vì các quy tắc ấy sẽ bảo đảm cho sự linh thánh trổi vượt của các cử hành phụng vụ, vốn dĩ không một hành vi nào của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét về danh hiệu lẫn đẳng cấp.[4] Phụng vụ, nhất là thánh lễ, không thuộc cá nhân, nhưng là của toàn thể Giáo Hội. Các quy tắc phụng vụ được soạn thảo liên quan đến việc cử hành thánh lễ đều nhằm mục đích diễn đạt và bảo vệ mầu nhiệm Thánh Thể.[5] Kết quả là “Linh mục nào và cộng đoàn nào trung thành cử hành thánh lễ theo quy luật phụng vụ chứng tỏ tình yêu của họ đối với Giáo Hội một cách âm thầm nhưng rõ rệt”[6].
Bài viết này – chủ yếu dựa trên Huấn thị Redemptionis Sacramentum, Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma ấn bản 2002, Bộ Giáo luật 1983 và một số tài liệu khác – nhằm trình bày về một số vấn đề cần lưu ý liên quan đến phụng vụ thánh lễ, để nói lên tầm quan trọng của việc cử hành thánh lễ sao cho đúng với các quy tắc được Giáo Hội quy định. Một cách tổng quát, các quy tắc này liên quan đến:
– Nơi chốn và vật dụng của việc cử hành thánh lễ
– Việc cử hành thánh lễ
– Phụng vụ Lời Chúa
– Phụng vụ Thánh Thể
– Việc rước lễ
– Việc cho rước lễ
– Việc rước lễ dưới hai hình
– Lễ phục của các thừa tác viên trong thánh lễ.
- NƠI CHỐN VÀ VẬT DỤNG CỦA VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
- Nơi chốn
Linh mục phải cử hành thánh lễ trong một nơi thánh, trong trường hợp đặc biệt, không thể cử hành trong nơi thánh, thì cũng phải cử hành ở một nơi tôn nghiêm. Thánh Thể phải được cử hành trên bàn thờ đã được cung hiến hoặc đã được làm phép. Nếu thánh lễ được cử hành ngoài nơi thánh, có thể sử dụng một bàn xứng đáng, nhưng luôn luôn phải có trải khăn bàn thờ và khăn thánh.[7]
Linh mục không bao giờ được phép cử hành thánh lễ tại một đền thờ hoặc một nơi tôn nghiêm của một tôn giáo không phải là Kitô giáo, nếu không có phép minh nhiên của Đấng bản quyền địa phương.[8]
Không được cử hành thánh lễ trên bàn ăn, tại nhà cơm, hay những nơi dành cho việc ăn uống hay bất cứ nơi nào có thức ăn, trừ những trường hợp cần thiết hay đặc biệt. Nếu phải cử hành trong nhà ăn, thì phải giữ một khoảng thời gian tách biệt sau hoặc trước bữa ăn. Cũng không dọn thức ăn ra khi đang cử hành thánh lễ.[9]
Không được dâng thánh lễ riêng cùng lúc với thánh lễ đồng tế đang được cử hành trong cùng một nhà thờ hay nhà nguyện.[10]
Không được đồng tế thánh lễ với các tư tế hay thừa tác viên thuộc các Giáo Hội hay các cộng đoàn Giáo Hội không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo.[11]
- Vật dụng
Các mục tử phải bảo đảm các khăn thánh của bàn thánh phải luôn luôn sạch sẽ, đặc biệt những khăn có chạm đến Mình Máu Thánh Chúa. Các khăn này phải được giặt rất thường xuyên.[12]
Cần phải chuẩn bị chu đáo để thánh lễ được diễn ra một cách sốt sắng: âm nhạc, trang trí hoa đèn, khăn thánh, bàn thờ… phải đẹp đẽ và sạch sẽ xứng đáng với việc cử hành nghi lễ cực thánh.[13] Việc cử hành thánh lễ cũng cần phải được chuẩn bị kỹ càng và cẩn thận: nghi thức, bản văn phụng vụ, bản văn thánh kinh, bài diễn giải… nhằm gìn giữ và nuôi dưỡng đức tin các tín hữu.[14]
Đĩa thánh, các bình thánh, dùng để đựng Mình và Máu Thánh Chúa, phải được làm hoàn toàn đúng với các quy tắc của truyền thống và của các sách phụng vụ. Các vật dụng này phải được làm với những chất liệu quý giá, chắc chắn và có tính nghệ thuật để bày tỏ sự tôn kính Chúa, và tránh nguy cơ làm giảm lòng tôn kính và lòng tin đối với sự hiện diện thực sự của Đức Kitô dưới hình bánh và hình rượu. Do đó, phải loại bỏ những đồ vật không có chút nào là nghệ thuật, hay chỉ là những cái giỏ thường, hay những đồ đựng bằng thuỷ tinh, đất sét, đất nung hay bằng những chất liệu khác dễ bể, dễ hỏng.[15]
Trước khi sử dụng, các bình thánh phải được linh mục làm phép, theo các nghi lễ được các Sách phụng vụ ấn định.[16] Tốt hơn nữa là để chính giám mục giáo phận làm phép, qua đó, ngài có thể đánh giá coi các bình thánh có thật đúng với công dụng dành cho chúng không.[17]
- VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
Không được thay đổi hay biến đổi các bản văn phụng vụ thánh, vì việc thay đổi này sẽ gây hậu quả nghiêm trọng là làm mất tính ổn định trong việc cử hành phụng vụ thánh, làm biến mất ý nghĩa đích thực của phụng vụ.[18]
Chủ tế chỉ đọc các lời nguyện nhập lễ, tiến lễ, và hiệp lễ của thánh lễ đó mà thôi, không được đọc ghép các lời nguyện của các thánh lễ khác nhau lại với nhau.[19] Không được thay thế các bài hát trong Lễ quy bằng các bài hát khác.[20]
Không được tách rời phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, cũng như tách các phần khác nhau của thánh lễ để cử hành trong những thời gian và địa điểm khác nhau, cho dù trong cùng một ngày.[21]
Không được cử hành thánh lễ chung với bí tích giao hòa như một phụng vụ duy nhất. Tuy nhiên, một linh mục không đồng tế có thể ngồi tòa giải tội trong khi thánh lễ đang được cử hành. Nhưng cũng cần tiến hành việc này một cách thích hợp.[22]
Không được cử hành thánh lễ đi liền với việc cử hành các bí tích và phụ tích trong các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục Sinh, các lễ trọng, các ngày trong tuần Bát Nhật Phục Sinh, lễ Cầu cho các tín hữu qua đời, thứ Tư lễ Tro và các ngày trong Tuần thánh.[23]
Các thông báo hay trình bầy do giáo dân thực hiện phải được thực hiện ngoài thánh lễ, hoặc nếu vì lý do nghiêm trọng, thì có thể làm sau lời nguyện hiệp lễ. Không để điều này trở thành thói quen, cũng như tránh gây lầm lẫn với bài giảng hoặc làm nguyên nhân để bỏ bài giảng.[24]
Không được dâng thánh lễ theo kiểu trình diễn. Tuyệt đối không được đưa vào thánh lễ những nghi thức vay mượn từ các tôn giáo khác.[25]
Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho một linh mục lạ cử hành hay đồng tế thánh lễ, miễn là linh mục này xuất trình chứng thư (hay celebret) của Tông Toà, hay của Đấng bản quyền, hay bề trên của mình, được cấp trong năm, hoặc vị chịu trách nhiệm có thể nhận định cách khôn ngoan rằng không có gì ngăn trở vị linh mục ấy được dâng lễ.[26]
Thánh lễ được cử hành bằng tiếng La tinh hay bằng một ngôn ngữ khác, với điều kiện phải sử dụng những bản văn phụng vụ đã được phê chuẩn theo quy tắc luật định. Ngoại trừ các thánh lễ phải cử hành theo ngôn ngữ của dân chúng, theo thời khóa biểu và theo thời gian do giáo quyền ấn định, các linh mục được phép cử hành thánh lễ bằng tiếng La tinh, ở mọi nơi và mọi lúc.[27]
Khi thánh lễ được nhiều linh mục đồng tế, kinh nguyện Thánh Thể phải được đọc trong ngôn ngữ mà tất cả các linh mục và dân chúng hiện diện trong buổi cử hành đều biết. Có thể xảy ra trường hợp, trong số các linh mục hiện diện, có vị không biết ngôn ngữ được dùng khi cử hành và không thể đọc các phần kinh nguyện Thánh Thể dành riêng cho mình. Trong trường hợp này, các ngài không đồng tế, nhưng tốt hơn các ngài chỉ tham dự cử hành và mặc áo dành riêng, ở trong cung thánh, theo quy định.[28]
Trong các thánh lễ đồng tế, không được phép thay đổi vị chủ tế, trừ hai trường hợp ngoại lệ: Trường hợp thứ nhất, khi vị giám mục chủ tọa việc cử hành trong y phục kinh hội, nghĩa là ngài tham dự thánh lễ nhưng không cử hành thánh lễ, điều này xảy ra khi vị giám mục đến tham dự lễ ngân khánh của một linh mục. Khi đó, vị giám mục có thể giảng và ban phép lành cuối lễ. Trường hợp thứ hai xảy ra trong lễ tấn phong giám mục, sau khi được tấn phong, vị tân giám mục sẽ chủ tế thánh lễ. Những điều này liên quan đến bản chất của tác vụ giám mục.[29]
Phải dứt khoát bài trừ sự lạm dụng tùy tiện của các linh mục trong việc đình chỉ cử hành thánh lễ cho dân chúng, trái quy tắc của Sách lễ Rôma và truyền thống đúng đắn của Nghi lễ Rôma, viện cớ để khuyến khích “chay tịnh Thánh Thể”.[30]
Không được tăng số lượng thánh lễ trái với quy tắc giáo luật. Những gì liên quan đến bổng lễ, phải tuân thủ tất cả các quy tắc của giáo luật hiện hành.[31]
- PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Phải cử hành phụng vụ Lời Chúa thế nào để tạo thuận lợi cho việc suy gẫm, vì thế tuyệt đối tránh mọi hình thức vội vã, ngăn trở việc hồi tâm. Nên có những giây phút thinh lặng ngắn, tùy theo cộng đoàn tụ họp, để nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa được tiếp nhận trong tâm hồn và lời đáp trả qua kinh nguyện. Những lúc nên giữ thinh lặng đó là sau bài đọc thứ nhất và thứ hai, cũng như sau bài giảng.[32]
Cần phải đọc đúng bản văn Thánh Kinh theo quy tắc có sẵn trong sách phụng vụ. Không được phép bỏ hay thay đổi một cách tùy tiện, nhất là không được thay thế bằng các bản văn không phải là Thánh Kinh.[33]
Không một giáo dân hay tu sĩ nào được phép công bố bài Tin Mừng trong thánh lễ.[34]
Bài giảng là một thành phần quan trọng trong phụng vụ thánh lễ, do đó, buộc phải có và không được bỏ, trừ khi có lý do quan trọng, vào các ngày Chúa nhật và lễ buộc trong mọi thánh lễ cử hành có đông giáo dân tham dự.[35]
Tuyệt đối cấm giáo dân hay chủng sinh, sinh viên thần học hoặc bất cứ ai không có chức thánh giảng trong thánh lễ.[36]
Giám mục là người có trách nhiệm chăm chú theo dõi bài giảng của các thừa tác viên có chức thánh, chia sẻ cho họ những quy tắc, phương hướng cũng như những giúp đỡ khác cho việc soạn bài giảng.[37]
Không được thay thế kinh Tin Kính hoặc Tuyên xưng Đức tin bằng các bản văn khác không có trong sách phụng vụ được phê chuẩn hợp lệ.[38]
- PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
Bánh dùng trong thánh lễ phải là bánh được làm bằng bột lúa mì nguyên chất và mới làm để tránh nguy cơ hư hại.[39] Những thứ bánh làm bằng các chất liệu khác hoặc bánh được làm từ bột mì có pha các chất khác không được xem là chất thể thành sự cho việc cử hành thánh lễ.[40] Ngoài ra phải biết chắc là bánh được làm ra bởi những người đứng đắn, biết cách làm và làm với dụng cụ thích hợp.
Rượu nho phải là rượu tự nhiên từ trái nho, không bị hư, không được pha thêm những chất khác.[41] Trong lúc cử hành thánh lễ, người ta thêm vào rượu nho một chút nước. Tuyệt đối cấm sử dụng rượu không rõ hoặc nghi ngờ về tính xác thực và nguồn gốc. Và chắc chắn không được sử dụng một thức uống nào khác thay thế rượu nho trong thánh lễ.[42]
Việc dâng lễ vật không nhất thiết chỉ là bánh rượu, ngoài bánh rượu ra còn có thể dâng những tặng vật khác, do các tín hữu mang đến hoặc chuẩn bị sẵn, có thể là tiền bạc, nhằm mục đích thi hành bác ái dành cho người nghèo. Những tặng vật này phải để ở nơi xứng hợp ngoài bàn tiệc Thánh Thể.[43]
Không được truyền phép một chất thể mà không có chất thể kia, hoặc truyền phép cả hai chất thể ngoài lúc cử hành thánh lễ, cho dù trong trường hợp khẩn cấp và hết sức cần thiết.[44]
Không được tự biên soạn kinh nguyện Thánh Thể hoặc tự ý sửa đổi bản văn kinh nguyện Thánh Thể đã được phê chuẩn.[45]
Kinh nguyện Thánh thể phải được đọc hoàn toàn bởi linh mục, và chỉ bởi ngài mà thôi. Như vậy, thừa tác viên giáo dân hoặc một tín hữu hoặc toàn thể tín hữu, thậm chí phó tế cũng không được đọc bất cứ phần nào của kinh nguyện Thánh Thể.[46]
Khi đọc kinh nguyện Thánh Thể, không được đàn hát hay đọc kinh gì, ngoại trừ những lời tung hô, đối đáp như được ghi trong Sách lễ Rôma, hoặc đã được Hội đồng Giám mục phê chuẩn và Tòa Thánh xác nhận.[47]
Không được bỏ sót tên Đức giáo hoàng và giám mục giáo phận, để bày tỏ sự hiệp thông với giám mục của mình và với giám mục Rôma.[48]
Không được bẻ bánh khi đọc lời truyền phép.[49] Việc bẻ bánh được thực hiện sau khi chúc bình an, trong khi hát hoặc đọc kinh Agnus Dei. Chỉ có vị chủ tế bẻ bánh, hoặc nếu cần, với sự trợ giúp của phó tế hay vị đồng tế. Giáo dân không được bẻ bánh. Cần thực hiện việc này với một tấm lòng hết sức tôn kính, nhưng đơn giản, và ngắn gọn, tránh những nghi thức kéo dài không cần thiết.[50]
Bánh sau nghi thức bẻ bánh, nên được trao cho ít là một vài tín hữu rước lễ, để diễn đạt ý nghĩa “ăn chung một bánh”. Dĩ nhiên, người ta được dùng bánh nhỏ để khỏi phải bẻ ra, đáp ứng được số lượng người rước lễ đông.[51]
- VIỆC RƯỚC LỄ
- Việc rước lễ của linh mục
Mỗi khi linh mục cử hành thánh lễ, ngài sẽ rước lễ tại bàn thờ, vào lúc do Sách Lễ ấn định. Bên cạnh đó, các vị đồng tế sẽ rước lễ trước khi đi trao Mình Thánh Chúa. Linh mục chủ tế hay đồng tế không bao giờ đợi dân chúng rước lễ xong rồi mới rước lễ.[52]
Các linh mục đồng tế rước lễ bằng bánh đã được truyền phép trong chính thánh lễ cử hành[53]; vả lại, tất cả các vị đồng tế phải luôn luôn rước lễ dưới hai hình. Phải lưu ý rằng, khi linh mục hoặc phó tế trao mình thánh hay chén thánh cho các vị đồng tế, ngài không nói gì, nghĩa là không có đọc những lời: “Mình Thánh Chúa Kitô” hay “Máu Thánh Chúa Kitô”.[54]
Các linh mục không thể cử hành hay đồng tế luôn luôn được phép rước lễ dưới hai hình.[55]
- Việc rước lễ của giáo dân
Cần nhắc nhở cho giáo dân chuẩn bị tâm hồn xứng hợp khi lên rước lễ. Đặc biệt, trong những ngày lễ lớn với số đông người tham dự, cần lưu ý đừng để những người không phải Công giáo lên rước lễ, và cần tuân thủ điều này một cách chặt chẽ.[56]
Các vị mục tử phải khẩn khoản thúc giục các tín hữu lãnh bí tích giao hòa ngoài thánh lễ, nhất là vào những giờ ấn định, để họ được xưng tội một cách êm thắm và thực sự có ích cho họ, mà họ cũng không bị ngăn trở tham dự thánh lễ cách tích cực. Phải nhắc nhở những ai có thói quen rước lễ hằng ngày hoặc rất thường, sự quan trọng của việc lãnh bí tích sám hối một cách đều đặn, theo khả năng của mỗi người.[57]
Trước khi cho trẻ em rước lễ lần đầu, luôn luôn phải cho chúng lãnh nhận bí tích sám hối và lời xá giải.[58] Hơn nữa, việc cho rước lễ lần đầu luôn luôn phải do một linh mục cử hành và không bao giờ được làm ngoài thánh lễ. Cần chọn ngày thích hợp như các Chúa nhật sau lễ Phục Sinh (từ Chúa nhật thứ 2 đến thứ 6) hay lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hay các Chúa nhật “quanh năm”, vì ngày Chúa nhật được kể một cách hợp lý là ngày của phép Thánh Thể.[59]
Khi cho rước lễ xong, linh mục hoặc phó tế lau sạch đĩa thánh, chén thánh và bình thánh. Khi có nhiều bình, có thể phủ kín chúng kỹ càng, linh mục hoặc phó tế sẽ làm sạch chúng ngay sau thánh lễ, khi dân chúng đã ra về. Thầy giúp lễ có thể giúp linh mục hoặc phó tế làm sạch các bình thánh trước khi xếp gọn chúng vào chỗ đã ấn định.[60]
- VIỆC CHO RƯỚC LỄ
Linh mục chủ tế có nhiệm vụ cho rước lễ, các linh mục đồng tế và các phó tế khác phụ giúp ngài. Các tín hữu rước lễ liền sau khi linh mục chủ tế rước lễ.[61] Khi nào các tín hữu rước lễ xong, thánh lễ mới được tiếp diễn.[62]
Cần nhớ rằng thừa tác viên thông thường cho rước lễ là giám mục, linh mục và phó tế, vì các ngài đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh[63]; do đó, việc cho giáo dân rước lễ khi cử hành thánh lễ là thuộc quyền của các ngài.[64]
Khi số các thừa tác viên có chức thánh hiện diện trong cử hành thánh lễ là đủ cho việc rước lễ, thì không được phép cử các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ. Trong những trường hợp này, những ai được cử cho một thừa tác vụ như thế, thì không được thi hành tác vụ ấy. Vậy, phải dứt khoát bài trừ thái độ của các linh mục tuy có mặt ở buổi cử hành lại không cho rước lễ, mà để cho giáo dân đảm nhận công việc này. Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ chỉ có thể cho rước lễ trong trường hợp không có linh mục hay phó tế, khi linh mục bị ngăn trở vì bệnh tật, vì lớn tuổi hay vì một lý do khác nghiêm trọng, hay nữa khi số tín hữu đến rước lễ quá đông, có thể kéo dài quá đáng việc cử hành thánh lễ.[65]
Nên cho các tín hữu rước lễ với những bánh đã được truyền phép trong thánh lễ ấy, để việc rước lễ tỏ ra rõ ràng hơn là một sự tham dự vào hy tế đang cử hành.[66] Cần phải nhắc nhở người tín hữu có thái độ tôn kính khi rước lễ, nhất là theo đúng cách thức mà Hội đồng Giám mục quy định.[67]
Không được từ chối không cho một người tín hữu rước lễ khi người này đã được chuẩn bị một cách hợp lệ và không bị giáo luật cấm nhận lãnh bí tích.[68] Như vậy, tất cả các người Công giáo đã chịu phép rửa, mà không bị ngăn trở bởi giáo luật, thì phải được cho rước lễ. Do đó không được phép từ chối không cho một tín hữu rước lễ, chỉ vì, như ví dụ, người ấy muốn rước lễ quỳ gối hay đứng.[69]
Khi cho rước lễ bằng tay, thừa tác viên cần bảo đảm người tín hữu rước lễ tại chỗ, không được đem về chỗ ngồi để tránh dịp gây xúc phạm.[70] Phải duy trì việc dùng đĩa hứng khi cho các tín hữu rước lễ, để tránh bánh thánh, hay một mảnh bánh thánh, rơi xuống đất.[71]
Các tín hữu không được phép tự tay cầm lấy bánh đã được truyền phép hay chén thánh, lại cũng không được để họ chuyền tay nhau.[72] Vả lại, về vấn đề này, phải chấm dứt sự lạm dụng sau đây: trong thánh lễ hôn phối, đã xảy ra trường hợp đôi tân hôn cho nhau rước lễ.[73]
Người giáo dân đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong cùng ngày đó, nhưng chỉ ở trong cử hành thánh lễ mà họ tham dự, ngoại trừ quy định ở điều 921 §2 của giáo luật.[74]
Cần phải dứt khoát bài trừ việc phân phát những bánh chưa truyền phép hay những đồ vật khác có thể ăn được hay không ăn được giống như khi rước lễ, xảy ra trong hoặc trước khi cử hành thánh lễ. Quả nhiên, điều đó không hợp với truyền thống của nghi lễ Rôma, và có nguy cơ làm tâm trí các tín hữu lẫn lộn về giáo lý về bí tích Thánh Thể của Giáo Hội.[75]
- VIỆC RƯỚC LỄ DƯỚI HAI HÌNH
Để biểu lộ rõ ràng hơn cho các tín hữu về tính viên mãn của dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể, giáo dân cũng được rước lễ dưới hai hình trong những trường hợp mà các sách phụng vụ đã dự liệu, với điều kiện trước đó phải luôn luôn giảng dạy cách thích hợp về các nguyên tắc tín lý đã được Công đồng chung Trentô ấn định trong lãnh vực này.[76]
Để cho giáo dân rước lễ hai hình, phải để ý một cách thích hợp đến các hoàn cảnh, mà việc đánh giá trước tiên là thuộc quyền Giám mục giáo phận. Phải tuyệt đối loại bỏ việc này khi có một nguy cơ, dù là rất nhỏ, xúc phạm đến Mình Máu Thánh Chúa.[77]
Khi cho giáo dân rước Máu Thánh với chén thánh, cần tránh nguy cơ còn lại quá nhiều cần phải rước cuối buổi cử hành.[78] Ngoài việc phải biết rõ nguồn gốc và phẩm chất của rượu, việc cho giáo dân rước lễ hai hình còn cần phải có những thừa tác viên cho rước lễ được huấn luyện đầy đủ, cũng như tránh tình trạng có nhiều giáo dân từ chối rước Máu Chúa với chén thánh, vì như vậy sẽ làm mờ nhạt dấu chỉ hiệp nhất.[79]
Trong những cách thức được cho phép khi rước lễ hai hình, có thể rước Máu Chúa Kitô hoặc bằng cách uống trực tiếp với chén thánh, hoặc bằng cách chấm Mình Thánh vào Máu Thánh, hoặc dùng ống hút hay một cái muỗng,[80] luôn duy trì cách cho rước lễ bằng cách chấm. Tuy nhiên, cần lưu ý phải dùng những bánh lễ không được quá mỏng, cũng không quá nhỏ, và người rước lễ phải nhận Thánh Thể do vị linh mục trao trực tiếp vào miệng.[81]
Nếu dùng nhiều chén thánh, thì cần có một chén thánh chính lớn hơn, nổi bật hơn so với những chén phụ. Khi đã truyền phép, không được sang Máu thánh từ chén này qua chén khác.[82]
Cần tôn trọng Mình Máu Thánh Chúa. Khi cử hành thánh lễ, Máu Thánh Chúa Kitô có thể còn lại phải được chính linh mục hay, theo quy tắc, một thừa tác viên khác rước ngay lúc ấy. Cũng vậy, Mình Thánh Chúa có thể còn lại, phải được linh mục rước tại bàn thờ, hay được đem cất vào một nơi dành để lưu giữ Mình Thánh Chúa.[83]
- LỄ PHỤC CỦA CÁC THỪA TÁC VIÊN TRONG THÁNH LỄ
Cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định liên quan đến lễ phục, nhằm diễn tả cách hiệu quả và rõ ràng đặc tính của các mầu nhiệm đức tin được cử hành, và, do đó, ý nghĩa của đời sống Kitô giáo đang tiến triển qua tiến trình của năm phụng vụ.[84] Mặc đúng lễ phục còn góp phần làm tăng vẻ đẹp của hành động phụng vụ.[85] Lễ phục chung cho các thừa tác viên là áo trắng dài (alba) được sợi dây nhỏ buộc ôm sát vào thắt lưng, trừ khi nó được may vừa vặn với thân hình mà không cần có dây buộc. Phải quàng khăn vai trước khi mặc áo alba nếu áo này không hoàn toàn phủ kín áo thường quanh cổ.[86]
Ngoài ra, linh mục chủ tế, để cử hành thánh lễ hay các hành động thánh khác liên quan trực tiếp với thánh lễ, mặc áo lễ (casula), trừ trường hợp có dự trù một lễ phục khác mặc trên chồng lên áo alba và dây stola.[87] Cũng thế, khi linh mục mặc áo lễ, ngài đừng bỏ không mang dây stola.[88]
Ngoại trừ vị chủ tế phải luôn luôn mặc áo lễ theo màu ấn định, Sách lễ Rôma cho quyền các linh mục đồng tế trong thánh lễ khỏi mặc áo lễ, mà chỉ mang dây stola trên áo alba,[89] ví dụ như trong trường hợp các vị đồng tế quá đông và không có đủ lễ phục. Nhưng nếu có thể tiên liệu một trường hợp như thế, phải cố gắng hết sức cho có đủ lễ phục. Ngoại trừ vị chủ tế, các vị đồng tế có thể, khi cần, mặc áo lễ màu trắng. Về phần còn lại, các ngài phải tuân thủ các quy tắc khác của các sách phụng vụ.[90]
Lễ phục phụng vụ riêng của phó tế là áo dalmatica mặc ngoài áo alba và dây stola. Để tôn trọng một truyền thống cao quý của Giáo Hội, việc không dùng quyền khỏi mặc áo dalmatica là điều đáng làm.[91]
Không được cử hành thánh lễ mà không mặc lễ phục phụng vụ, hay chỉ mang dây stola trên áo thụng của tu viện, hay trên áo tu sĩ thường, hay nữa trên áo thường.[92]
Thông thường “các linh mục hiện diện trong cử hành thánh lễ nên thi hành chức vụ thuộc Chức Thánh của mình, ngoại trừ những khi có một lý do chính đáng miễn cho họ làm thế, và do đó họ nên mặc y phục phụng vụ mà đồng tế. Nếu không, họ mang áo surplis trên áo soutane.”[93] Ngoại trừ những trường hợp rất đặc biệt khi có lý do chính đáng, không cho phép họ tham dự thánh lễ, mà vẻ bề ngoài như giáo dân.[94]
KẾT LUẬN
Nếu không quan tâm chú ý tuân thủ theo các quy tắc phụng vụ, người mục tử lẫn giáo dân rất dễ đi đến những lạm dụng. Những lạm dụng trong các cử hành phụng vụ nói chung và thánh lễ nói riêng là điều rất nghiêm trọng, bởi vì chúng vi phạm đến bản tính của phụng vụ và của các bí tích, và đồng thời cũng vi phạm đến truyền thống và uy quyền của Giáo Hội. Việc làm dụng như vậy còn có thể dẫn đến những sai lạc liên quan đến đức tin và giáo lý, bởi vì mối liên lạc mật thiết giữa lex orandi, lex credendi. Thậm chí, nguy hiểm hơn, khi ở trong một vài nơi, những việc làm sai trái trong lãnh vực phụng vụ đã trở nên một tập quán quen thuộc.[95] Chúng thường thường được dán những nhãn mác là canh tân, đại kết, thích nghi… một cách thiếu hiểu biết,[96] hoặc người ta cho rằng những điều đó mang lại lợi ích cho dân chúng. Nhưng thật ra, mầu nhiệm Thánh Thể quá cao trọng, “đến nỗi không ai được cảm thấy tự do hành động cách tuỳ tiện và xem nhẹ tính chất thiêng thánh và chiều kích phổ quát của mầu nhiệm này.”[97]
Thật vậy, những việc làm sai trái trong cử hành phụng vụ không giúp ích gì trong việc canh tân phụng vụ, hay đáp ứng lòng đói khát Thiên Chúa của dân chúng. Nhưng trái lại, chúng làm tổn hại “tính cách duy nhất thuộc về bản chất của nghi chế Rôma,[98] gây chia rẽ trong việc cử hành, gây ra sự bấp bênh về mặt giáo lý, sự nghi ngờ và gương mù trong dân Thiên Chúa, đồng thời cũng gây ra nhiều sự chống đối mãnh liệt gây xáo trộn và làm buồn lòng rất nhiều tín hữu.[99] Do đó, rõ ràng rằng những việc làm sai trái này chủ yếu phát xuất từ sự thiếu hiểu biết lẫn thái độ xem thường, là những điều không thể nào được chấp nhận, và chúng cần phải được chấm dứt. Thay vào đó, người mục tử lẫn người giáo dân cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của Giáo Hội liên quan đến thánh lễ, nhờ đó, thánh lễ thực sự trở thành bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc vượt qua, để người lãnh nhận Đức Kitô được tràn đầy vinh quang và đón nhận bảo chứng cho vinh quang đời sau.[100]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu của Huấn quyền
– Công đồng Vatican II. Bản dịch của Ủy ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhà xuất bản Tôn giáo. Hà Nội 2012.
– Bộ Giáo luật 1983. Bản dịch của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhà xuất bản Tôn giáo. Hà Nội 2007.
– BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT bí tích. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, về một số điều phải tuân thủ hay phải xa lánh liên quan đến phép Thánh Thể Chí Thánh (25.3.2004). Bản dịch Việt Ngữ của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Third Instruction on the Correct Implementation of the Constitution on the Sacred Liturgy. Truy cập ngày 22.9.2015; http://www.catholicliturgy. com/index.cfm/FuseAction/documentText/Index/2/SubIndex/16/ ContentIndex/376/Start/375
– GIOAN PHAOLÔ II. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia. Truy cập ngày 2.11.2015; http://www.giaoly.org/vn/tai–lieu/thong– diep–ecclesia–de–eucharistia/
– General Instruction Of The Roman Missal (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma), ấn bản 2002. Truy cập ngày 2.11.2015; http:// www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/ rc_con_ccdds_doc_20030317_ordinamento–messale_en.html
Sách tham khảo
– MCNAMARA, EDWARD. Giải đáp thắc mắc phụng vụ. Tập 1. Nguyễn Trọng Đa dịch. Nhà xuất bản Phương Đông 2013. Giải đáp thắc mắc phụng vụ. Tập 2. Nguyễn Trọng Đa dịch. Nhà xuất bản Phương Đông 2015.
Tuấn Việt
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 95 (tháng 7 & 8 năm 2016)
[1] x. GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, các số 3, 8, 9.
[2] x. ibidem, số 10.
[3] Ibidem, số 52.
[4] Công đồng VATICAN II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 7.
[5] x. GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 52.
[6] Ibidem.
[7] Bộ Giáo luật, điều 932; x. Bộ Phụng Tự, Huấn thị Liturgicae instaurationes, số 9.
[8] x. Bộ Giáo luật, điều 932; x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 108–109.
[9] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 77.
[10] Bộ Giáo luật, điều 902.
[11] Ibid., điều 908.
[12] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 120.
[13] x. Ibid., số 57.
[14] x. Ibid., số 58.
[15] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 327–333; Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 117.
[16] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 333.
[17] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 118.
[18] x. Ibid., số 59.
[19] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 363.
[20] Ibid., số 366.
[21] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 60.
[22] x. Ibid., số 76.
[23] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 372.
[24] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 74.
[25] x. Ibid., số 79.
[26] x. Bộ Giáo luật, điều 903.
[27] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 36, § 1; Bộ Giáo luật, điều 928.
[28] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 114.
[29] x. BỘ PHỤNG TỰ, Thư riêng liên quan đến việc thay đổi chủ tế, trích lại trong EDWARD MCNAMARA, Giải đáp thắc mắc phụng vụ, tập 1, Nguyễn Trọng Đa dịch, Nhà xuất bản Phương Đông 2013, trang 130–131.
[30] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 115.
[31] x. Bộ Giáo luật, điều 905, 945–958.
[32] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 56.
[33] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 61–62; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 57.
[34] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 63.
[35] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 65 – 66.
[36] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 64–66.
[37] x. Ibid., số 68.
[38] x. Ibid., số 69.
[39] x. Ibid., số 48, đồng thời x. Bộ Giáo luật, điều 924 § 2.
[40] x. Bộ Kỷ luật bí tích, Huấn thị Dominus Salvator noster, số 1.
[41] x. Bộ Giáo luật, điều 924, §3.
[42] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 50.
[43] x. Ibid., số 70.
[44] Bộ Giáo luật, điều 927.
[45] Bộ Bí tích và Phụng tự, Huấn thị Inaestimabile donum, số 5, trích trong Huấn thị Redemptoris Sacramentum, số 51.
[46] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 52.
[47] x. Ibid., các số 53–54.
[48] x. Ibid., số 56; GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 39.
[49] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 55.
[50] x. Ibid., số 73.
[51] x. Ibid., số 49.
[52] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 55; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 158–160, 243–244, 246.
[53] x. Ibid., các số 237–249, 85, 157.
[54] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 98.
[55] x. Hội đồng Giáo hoàng về Giải thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 3/7/1999. Trích lại trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 99.
[56] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 83–84.
[57] x. Thánh Bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, số 35, được trích lại trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 86.
[58] x. Bộ Giáo luật, điều 914.
[59] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 87.
[60] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 163, 183, 192; số 119.
[61] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ Sacrosanctum Concilium, số 55.
[62] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 88.
[63] x. Bộ Giáo luật, điều 910, § 1.
[64] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 154.
[65] 72 (1980) p. 336; Hội đồng Giáo hoàng về Giải thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 11.7.1984, trích lại trong số 157–158.
[66] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 55; Thánh Bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, số 31; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 85, 157, 243.
[67] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 160.
[68] Bộ Giáo luật, điều 843 § 1; x. điều 915.
[69] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 91.
[70] x. Ibid., số 92.
[71] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 118; x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 93.
[72] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 160.
[73] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 94.
[74] Bộ Giáo luật, điều 917; Đồng thời x. Hội đồng Giáo hoàng về Giải thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 11.7.1984 (trích lại trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 95).
[75] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 96.
[76] x. Công đồng VATICAN II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 55; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 282–283.
[77] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 283.
[78] x. Ibid., số 285a.
[79] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 102.
[80] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 245.
[81] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 103–104.
[82] x. Ibid., các số 105–106.
[83] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 163, 284.
[84] x. Ibid., số 345.
[85] x. Ibid., số 335.
[86] x. Ibid., số 336.
[87] x. Ibid., số 337.
[88] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 123.
[89] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 209.
[90] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 214.
[91] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 338.
[92] x. Bộ Phụng tự, Huấn thị Liturgicae instaurationes, số 8c , trích lại trong số 126.
[93] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 114, 116–117.
[94] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 217.
[95] x. Ibid., các số 4, 6, 10.
[96] x. Ibid., các số 7–9.
[97] GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 52.
[98] Công đồng VATICAN, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 38.
[99] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 11.
[100] Công đồng VATICAN, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 47.
2020
Các bí tích của Giáo Hội Công Giáo có nguồn gốc Kinh Thánh không?
Xin cha giải thích giúp những thắc mắc sau đây :
1- Các bí tích của Giáo Hội Công Giáo có nguồn gốc Kinh Thánh không?
2- Anh em Tin Lành chỉ tin có Kinh Thánh thôi. Như vậy, nếu chỉ nghe lời Chúa trong Kinh Thánh thôi thì có đủ để được cứu rỗi hay không?
Trả lời :
- Như tôi đã nhiều lần giải thích là không phải bất cứ điều gì Giáo Hội dạy đều có ghi trong Kinh Thánh.
Thí dụ các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai, (Immaculate Conception) Đức Mẹ Lên Trời cả hồn xác (Assumption) Ơn bất khả ngộ (Ìnfallibility) của Đức Thánh Cha và của các Giám mục hiệp thông, Lễ kính các Thánh Nam nữ, Thánh Cả Giuse , các ân xá (Indulgences)… đều không có ghi trong Kinh Thánh.
Chính vì chỉ tin có Kinh Thánh (Sola Scriptura), nên anh em Tin Lành, nói chung, đã phê bình Giáo Hội Công Giáo về nhiều điều họ cho là thiếu căn bản Kinh Thánh. Họ phê bình như vậy là vì họ không biết rằng Giáo Hội Công Giáo, ngoài Kinh Thánh, Scriptures ) còn có Thánh Truyền, (Sacred Tradition) Mặc Khải (Revelation) và Quyền Giáo Huấn (Magisterium) là những nguồn chân lý mà Giáo Hội khai thác để dạy những điều mọi tín hữu phải tin và sống cho được lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa Cứu Thế Giêsu.
Sau đây là bằng chứng về Thánh Truyền và Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội đã được ghi lại trong Kinh Thánh Tân Ước:
Thứ nhất về Quyền Giáo Huấn, Chúa Kitô đã trao cho các Tông Đồ trước khi Người về trời như sau :
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hay đi… và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em…” (Mt 28: 20)
Về Thánh Truyền, Thánh Phaolô đã truyền cho môn đệ ngài là Timôthê như sau:
“anh Timôthê, hãy bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho anh, tránh những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, và những vấn đề tri thức giả hiệu. Có những kẻ, vì chủ trương cái trí thức đó, nên đã lạc mất đức tin. Chúc anh em được ân sủng.” (1 Tm 6: 20-21)
Hay rõ hơn nữa:
“Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Kitô-Giêsu, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã trao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.” (2 Tm 1: 13-14)
Như thế đủ cho thấy là các Thánh Tông Đồ đã truyền lại cho các thế hệ nối tiếp cho đến ngày nay những giáo lý tinh tuyền của Kitô-Giáo, tức là của chính Chúa Kitô đã giảng dạy cho các Tông Đồ và cho dân chúng thời đó và được truyền lại cho chúng ta ngày nay qua Giáo Hội, là Thân Thể Nhiệm Mầu (Mystical Body) của Chúa Kitô trong trần thế.
Riêng về các bí tích, thì Giáo Lý của Giáo Hội đã nói rõ bảy Bí Tích mà Chúa Kitô đã ban cho Giáo Hội như phương tiện cứu rỗi cần thiết mà mọi tín hữu được mong đợi đón nhận với đức tin vững chắc và lòng mến nhiệt thành về những lợi ích thiêng liêng lớn lao của các bí tích này.(x SGLGHCG số 1210-1620)
Tất cả bẩy bí tích này đều có nguồn gốc Kinh Thánh như sau:
1-Bí Tích Thánh Tẩy (rửa tội)
Trước hết, Chúa Giê su đã nói với một thủ lãnh Biệt phái tên là Ni-cô-đê-mô
đến thăm Chúa một đêm kia như sau:
Tôi bảo thật ông:
Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa
Nếu không được sinh ra bởi nước và thần khí.” ( Ga 3:5)
Trước khi về Trời, sau khi hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại qua khổ hình thập giá, chết,sống lại và lên Trời, Chúa Kitô cũng truyền cho các Tông Đồ những điều quan trọng sau đây:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa Cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần..” (Mt 28:19)
Hoặc :
“Ai tin và chịu hép Rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin sẽ bị luận phạt.” (Mc16:16)
2- Bí Tích Thêm Sức (confirmation)
Khi hiện ra với các Tông Đồ sau khi Người sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần,” (Ga 20:22)
Lại nữa, hai Tông Đồ Phê rô và Gioan được cử đến miền Samari để gặp dân mới theo Đạo ở đây. Khi đến nơi, “ hai ông cầu nguyện cho họ, đặt tay trên họ và họ nhận được Thánh Thần.” (Cv 8 : 17)
3-Bí Tích Hòa Giải ( penance, reconciliation)
Sau khi thổi hơi để ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, Chúa Giêsu đã long trọng truyền cho họ thi hành mệnh lệnh sau đây:
Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha
Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” ( Ga 20: 23)
Lại nữa, trước khi chiu khổ hình thập giá chết và sống lại, Chúa Giê-su cũng đã trao cho Phêrô chiều khóa Nước Trời và quyền cầm buộc hay tháo gỡ như sau:
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo gỡ điều gì trên trời cũng sẽ thao gỡ như vậy.” ( Mt 16: 19)
Quyền đó đã được trao lại cho các vị kế tục Phêrô cho đến ngày nay. Vì thế, Giáo Hội – qua Đức Thánh Cha là người kế vị Thánh Phê rô trong nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa, có quyền ra vạ tuyệt thông = Anathema = Excomunication)
Và giải vạ này cho những ại bị vạ; cũng như ban ân xá (indulgences) để tha hình phạt hữu hạn (temporal punishment) cho người còn sống hay cho các linh hồn đang được thanh luyện nơi Luyện tội (purgatory).
Đây là điều các giáo phái Tin Lành không tin nên đã đả kích Giáo Hội Công Giáo cách vô căn cớ.
4- Bí tích Thánh Thể
Bí Tích quan trọng này đã được Chúa Giê su thiết lập trong Bữa ăn sau cùng với Mười hai Tông Đồ khi Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng rồi bẻ ra trao cho các ông và nói: “anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.Rồi Người cầm chến rượu, tạ ơn, trao cho các ông và nói : “ Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội.” ( Mt 26: 26-28; Mc 14: 22-24; Lc 22:19-20; Ga 6; 1Cor 11: 23- 25)
Qua Bí Tích Thánh Thể, Giáo Hội tin có sự hiện diện thực sự (real presence) của Chúa Kitô dưới hai chất thể là bánh và rượu nho.Đây là điều anh em Tin Lành không tin. Vã lại, vì họ không có Chức Linh Mục (Priesthood) hữu hiệu nên họ không thể có Bí Tích Thánh Thể (The Eucharist) và các Bí Tích Hòa Giải (Reconciliation), Xức dầu bệnh nhân (Anointing of the sick) và Bí Tích Truyền Chức Thánh (Holy Orders ) là những Bí Tích chỉ có trong Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) mà thôi; ngoài bí tích Rửa Tội mà đa số các giáo phái khác như Tin Lành và Anh Giáo (Anglican) đều có.
Nhưng nếu nhóm nào –như giáo pháí Bahai Hullad), không làm Phép Rửa với nước và Công Thức Chúa Ba Ngôi ( The Trinitarian Formula) thì bí tích không thành sự ( invalidly) nên nếu giáo hữu của họ muốn gia nhập Giáo Hội Công Giáo thì phải được rửa tội lại.
5-Bí tích Xức dầu ( Anointing)
Bí Tích này được ghi trong Thư Thánh Gia-cô-bê như sau:
“ Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi sức dầu nhân danh Chúa.” (Gc 5: 14)
6- Bí Tích Truyền Chức Thánh ( Hoy Orders)
Trong thư gửi cho môn đệ ngài là Timô-thê, Thánh Phaolô đã căn dặn như sau:
“ Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, Đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh.” ( 2 Tm 1: 6)
Như thế việc đặt tay để xin ơn Chúa Thánh Thần là điểm chính yếu trong Nghi thức Truyền Chức Thánh Phó tê, Linh mục và Giám mục trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Đông Phương.
7- Bí Tích Hôn Phối ( Matrimony)
Chính Chúa Giê su đã nhắc lại cho các Tông Đồ – và đặc biệt- là nhóm Biệt phái như sau về bí tích này:
“Các ông không đọc thấy điều này sao: thủơ ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: “vì thế người ta sẽ lìa Cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt 19: 4-6)
Thánh Phaolô cũng nhắc cho tín hữu Ê-phê-sô về bí tích hôn phối như sau:
“Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế , người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thực là cao cả.Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.” ( Ep 5: 31-33)
Tóm lại, tất cả bảy Bí Tích đều có nguồn gốc Kinh Thánh, tức là đều bắt nguồn từ ý muốn của Thiên Chúa cho con người thi hành để cộng tác với Chúa trong Chương Trình sáng tạo và cứu độ con người nhờ Chúa Kitô cho đến ngày mãn thời gian.
II- Chỉ nghe Lời Chúa không thôi có đủ cho con người được cứu độ không?
Nghe lời Chúa qua Kinh Thánh là điều rất quan trọng và cần thiết cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội, vì “ người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn sống nhờ mọi lời từ miệng ĐỨC CHÚA phán ra.” (Mt 4: 4 ; Lc 4: 4; Đnl 7: 3;)
Lời Chúa không những là thần lương nuôi sống linh hồn ta mà còn là đuốc sáng soi dẫn ta đi trên đường tìm kiếm Chúa và Vương Quốc bình an, hạnh phúc của Người, đúng như Phêrô đã tuyên xưng một ngày kia:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 68)
Thánh Vinh 119, cũng ca tụng lời Chúa như sau:
“ Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv 119: 105)
Như thế đủ cho thấy là việc nghe lời Chúa qua Kinh Thánh, qua Giáo Hội và trong chính lương tâm con người, là điều vô cùng cần thiết cho những ai muốn đi theo Chúa, muốn yêu mến Người và muốn được cứu rỗi để sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau: .
Tuy nhiên, chỉ nghe lời Chúa như anh em Tin Lành tin và quảng bá (Sola Scriptura) thì chưa đủ để lãnh ơn cứu chuộc của Chúa Kitô..Muốn đầy đủ hơn thì cần thiết cho ta phải lãnh nhận các Bí Tích rất quan trọng như Thánh Thể, Hòa Giái và Xức Dầu bệnh nhân … là những phương tiện thông ban ơn Chúa dồi dào cho những ai muốn lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô nhờ Hy Tế đền tội mà Chúa đã dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa và nay còn tiếp tục dâng trên bàn thờ mỗi khi Thánh Lễ được cử hành.
Vì thế, khi tham dự Thánh lễ, chúng ta được lãnh ơn cứu chuộc của Chúa Kitô như Giáo Hội dạy trong Hiến Chế Lumen Gentium (Ánh Sáng muôn dân ) sau đây:
“Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (1 Cor 5, 7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( LG 3)
Đó cũng là lý do tại sao Thánh Lễ được coi là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô Giáo”.Nghĩa là không thể sống trọn vẹn đời sống Kitô Giáo mà không tham dự Thánh Lễ để vừa được nghe lời Chúa và nhất là được ăn thịt và uống máu Chúa Kitô là bảo chứng cho ta được sống đời đời như Chúa đã hứa:
“Ai ăn thịt và uống máu Ta
Thì được sống muôn đời
Và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” ( Ga 6: 54)
Mặt khác, là con người sống trên trần gian này, không ai có thể tránh được nguy cơ của tội lỗi đến từ ma quỉ, thế gian và xác thịt. Do đó, nếu không siêng năng chạy đến với Chúa qua bí tích hòa giải (xưng tội) thì làm sao nối lại được tình thân với Chúa, sau khi lỡ sa ngã vì yêu đuối con người, vì ma quỷ và thế gian luôn cám dỗ với mọi dịp tội và gương xấu để lôi kéo ta ra khỏi thân tình với Chúa để làm nô lệ cho chúng và mất hy vọng được cứu rỗi?
Chính vì biết con người còn yếu đuối và dễ sa ngã, nên Chúa Kitô đã dự trù sẵn phương thế hữu hiệu là ban cho chúng ta bí tích hòa giải để giúp ta trỗi dậy và lấy lại thân tình với Chúa mỗi khi lỡ sa phạm tội vì yếu đuối trong bản tính con người, và nhất là vì ma quỷ cám dỗ cho ta phạm tội khiến mất tình thân với Chúa và mất hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Cứu Thế Giêsu .
Thật vậy, ai dám nói là mình không bao giờ phạm tội để không cần phải xưng tội để được tha thứ?
Cũng không thể trực tiếp xưng tội với Chúa không cần qua trung gian của ai ( linh mục) như anh em Tin Lành giảng dạy, vì Chúa Kitô đã trao quyền tha tội này cho các Tông Đồ mà người kế vị các ngài là các Giám mục và phụ tá của Giám mục là các linh mục trong toàn Giáo Hội.( Ga 20:23)
Do đó không thể cứ hát Alleluia và nghe lời Chúa không thôi như anh em Tin lành quảng bá thì sẽ thiếu đi phần quan trọng nữa là lãnh nhận các ơn ích thiêng liêng qua các bí tích mà Chúa Kitô đã thiết lập và ban cho Giáo Hội xử dụng để thánh hóa và ban ơn cứu rỗi cho con người cho đến ngày mãn thời gian.
Anh em Tin Lành không biết các Bí Tích quan trọng như Thêm Sức, (Confirmation) Thánh Thể (Eucharist) , Hòa Giải (reconciliation) Xức Dầu bệnh nhân (Anointing of the sick)..nên không biết những lợi ích thiêng liêng lớn lao của các Bí Tịch này.
Kinh nghiệm thiêng liêng cho mọi người tín hữu chúng ta biết rằng: phải siêng năng cầu nguyện, nghe lời Chúa và luôn chạy đến với hai bí tích rất quan trọng và cần thiết là Thánh Thể và Hòa giải để được ăn uống Mình Máu Chúa, là linh dược nuôi sống linh hồn và cho ta sức mạnh cần thiết để đứng vững trong ơn nghĩa với Chúa cũng như lấy lại ơn nghĩa này sau khi lỡ sa phạm tội nặng hay nhẹ , vì yếu đuối của bản năng, nhất là vì ma quỷ – ví như “ sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé” để mong sát hại linh hồn chúng ta, như Thánh Phê rô đã lưu ý. (1 Pr 5: 8)
Tóm lai, muốn thăng tiến trong đời sống thiêng liêng, muốn lớn lên trong tình yêu Chúa, và muốn được cứu rỗi thì phải sử dụng mọi phương tiện cần thiết nói trên, như nghe lời Chúa, cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải là những phương tiện cứu rỗi vô cùng cần thiết mà Chúa Kitô đã ban cho chúng ta qua Giáo Hội, là Thân Thể Nhiệm Mầu của Chúa trong trần gian, có mặt và hoạt động cho đến ngày mãn thời gian, tức là ngày cánh chung hay tận thế. Amen
Ước mong những giải đáp trên thả mãn các câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô .Xaviê Ngô Tôn Huấn.