2020
Tại sao người ta thường chắp tay khi cầu nguyện?
Tại sao người ta thường chắp tay khi cầu nguyện?
Liệu có tồn tại quy tắc nào yêu cầu tín hữu nên chắp tay, dang tay mắt ngước lên trời hay dang hai tay ngang khi cầu nguyện không? Và các tư thế đó có quan trọng không? Có thể câu hỏi khá kỳ lạ, nhưng là một điều quan trọng nên biết. Thực tế, tư thế có thể là khía cạnh quan trọng khi cầu nguyện, có truyền thống lâu đời và đáng kính.
Có nhiều người kể rằng các nữ tu đạo đức khi dạy giáo lý đã nói về ý nghĩa của tư thế tay khi cầu nguyện như sau: “Cầu nguyện khi hai tay chắp lại thì lời nguyện sẽ bay thẳng tới thiên đàng. Nếu cầu nguyện mà tay chỉ xuống đất thì lời cầu sẽ đi xuống hoả ngục. Và nếu tay để mở rộng ra hai bên, lời cầu nguyện sẽ bao phủ khắp căn phòng.”
Có lẽ những hướng dẫn ấy khá ngây thơ, và đã được diễn dịch cho trẻ em dễ hiểu. Thực chất, lý do cốt lõi của việc người tín hữu chắp tay khi cầu nguyện có một ý nghĩa biểu tượng sâu xa. Trong Kitô Giáo, truyền thống đóng một vai trò quan trọng, dựa trên các thói quen của các tín hữu thời đầu.
Trong truyền thống Do Thái, có nhiều bằng chứng trong Ngũ Thư về việc người Do Thái đã chắp tay cầu nguyện khi họ được giải thoát khỏi Ai Cập và truyền thống ấy kéo dài đến thời Chúa Giêsu, được người Kitô Giáo tiếp nối và duy trì. Nhiều nhà sử đồng ý rằng các Kitô hữu Do Thái thời đầu đã tiếp thu tập quán chắp tay cầu nguyện từ truyền thống tôn giáo cha ông của họ.
Nhiều người khác lại cho là tư thế chắp tay xuất phát từ văn hoá La Mã cổ. Theo đó, người La Mã thường trói các tù nhân của họ bằng dây cây nho hoặc dây thừng trong tư thế chắp tay: hai tay chắp lại nói lên sự tùng phục. Nếu ngày nay, trong chiến đấu, người ta giơ cờ trắng để biểu thị việc đầu hàng, thì thời xưa, những người lính La Mã chắp hai tay lại để nhận mình đầu hàng và tránh khỏi bị giết ngay lập tức. Thời ấy, người dân biểu thị sự trung thành và kính trọng với các lãnh tụ của họ cũng bằng cách chắp tay. Thật vậy, hành động chắp hai tay lại với nhau biểu lộ sự nhìn nhận quyền bính cũng như tùng phục quyền bính của một người nào đó.
Ngày nay, ý niệm chắp tay để tỏ bày trung thành vẫn được duy trì trong phụng vụ Công Giáo. Trong nghi lễ truyền chức linh mục, vị Giám Mục sẽ chắp hai tay của tân linh mục lại và nói “Con có hứa tôn trọng và vâng phục cha cũng như các đấng kế vị hợp pháp không?”
Một khía cạnh quan trọng khác khi chắp tay là đan chéo hai ngón cái theo dạng hình Thánh Giá. Tất cả các tư thế và hành vi đều nhằm thể hiện sự trung thành với Thiên Chúa, hướng lời cầu nguyện về trời và nhắc lại về Thánh Giá Chúa Kitô.
Thực chất thì không có một quy tắc nào bắt buộc tư thế của người Công Giáo khi cầu nguyện, nhưng chắp tay là một lựa chọn rất ý nghĩa, có truyền thống lâu đời và ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Theo Philip Kosloski, Aleteia
Gioakim Nguyễn biên dịch
2020
7 thái độ của phụ nữ trong Kinh Thánh mà mọi Kitô hữu nên bắt chước
7 thái độ của phụ nữ trong Kinh Thánh mà mọi Kitô hữu nên bắt chước
Gặp gỡ một số phụ nữ trong Kinh thánh và lấy cảm hứng.
Các nghiên cứu ngày nay khẳng định rằng phụ nữ không còn chiếm đa số trong Hội thánh. Họ đã từng là phúc lành tuyệt vời trong Hội thánh của Chúa Giêsu. Mặc dù não trạng trọng nam khinh nữ còn tồn tại trong các nền văn hóa được nói đến nhiều trong Kinh thánh, chúng tôi tìm thấy ở đây những người phụ nữ tuyệt vời, họ có rất nhiều điều để dạy chúng ta.
Để tỏ lòng kính trọng đối với phụ nữ, tôi muốn nêu lên đây 7 thái độ của người nữ trong Kinh thánh mà mọi người nên bắt chước.
SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA ĐỨC MARIA, MẸ CHÚA GIÊSU
Đức Maria được chọn trong số các thiếu nữ khác nhau để làm mẹ Đấng Cứu Chuộc. Điều đó có thể đem lại niềm tự hào nhất định, một sự kiêu căng trong tâm hồn mẹ. Thế nhưng, Mẹ đã nói một điều mà tất cả chúng ta cần phải thưa với Chúa mỗi ngày: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi thời sẽ khen tôi có phúc” (lc 1,46-48).
Sự khiêm nhường của Đức Maria khi đặt cuộc đời vào bàn tay quan phòng của Chúa và cộng tác với Chúa trong sứ mệnh cao cả của mình là điều thực sự hấp dẫn mà mọi Kitô hữu nên bắt chước.
SỰ KIÊN TRÌ TRONG LỜI CẦU NGUYỆN CỦA BÀ ANNA
Bà Anna đã có một cuộc sống không thực sự dễ dàng. Chồng bà là Encana đã lợi dụng truyền thống để có hai vợ (1Sam 1,2). Ngoài ra, Anna là người nữ vô sinh, thứ mà thời đại của bà coi là bị nguyền rủa. Bà bị người vợ kia của chồng coi thường và mang trong mình một nỗi buồn khôn tả vì chuyện này (1Sam 1,6). Nhưng bà không từ bỏ mục tiêu sinh con và không quan tâm đến những lời đàm tiếu, trái lại, bà vẫn kiên trì cầu nguyện, “ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuen, vì bà nói: “Tôi đã xin ĐỨC CHÚA được nó.” (1 Sam 1,20).
SỰ CAN ĐẢM CỦA MARIA MAĐALÊNA ĐỂ VƯỢT QUA QUÁ KHỨ
Kinh thánh kể rằng Maria Mađalêna bị quỉ ám. Chúa Giêsu đã đuổi bảy quỉ ra khỏi bà (Lc 8,2). Chúng ta không có nhiều chi tiết về quá của của người phụ nữ đó, tuy nhiên, chắc chắn đó là một quá khứ không đẹp lòng Chúa. Thế nhưng bà đã can đảm vượt qua quá khứ đen tối của mình và trở thành người tôi tớ trung thành tuyệt vời của Chúa Giêsu. Bà luôn được nhắc đến trong đội ngũ các môn đệ, và là người đầu tiên biết và tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô (Mt 28,1). Bà là người phụ nữ đã thể hiện một sự vượt qua không thể sánh, một bức chân dung về sự biến đổi mà Thiên Chúa hành động trong đời sống của mọi người.
SỰ KHÔN NGOAN CỦA MIRIAM ĐỂ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG
Pharaon ra lệnh cho toàn dân của mình: “Mọi con trai người Aicập sinh ra, hãy ném xuống sông Nin; mọi con gái thì để cho sống” (Xh 1,22).
Mệnh lệnh đó khiến cho cuộc sống của Môsê, khi còn là trẻ thơ, gặp nguy hiểm. Nhưng chiến lược của người mẹ và Miriam, chị của ông, đã cứu mạng ông. Thật không dễ tí nào. Miriam đã thể hiện sự khôn khéo tuyệt vời khi dõi mắt theo cậu bé được đặt trong một chiếc thúng trôi trên sông, rồi thuyết phục cô công chúa của vua Pharaon giao cậu bé cho mẹ của mình để bà ta chăm sóc cho cậu một thời gian (Xh 2,7). Cô đã cứu mạng Môsê qua cách xử lý cách khôn ngoan trước những tình huống thật sự bất lợi.
LÒNG KÍNH SỢ CHÚA CỦA CÔ GÁI ĐIẾM RAKHÁP
Rakháp được nhắc đến trong Kinh thánh như một cô điếm. Kinh thánh không che giấu sự gì về cô ta. Kinh thánh cũng không che giấu sự thay đổi đang diễn ra trong lòng của cô ấy. Trong cuộc đối thoại với những người do thám của Israel, những người mà cô giấu trong nhà với mục đích bảo vệ họ, cô cho chúng ta thấy nỗi sợ hãi Thiên Chúa của mình: “Khi chúng tôi nghe đồn, thì tâm thần chúng tôi sợ hãi như muốn chảy tan ra, không ai còn nhuệ khí trước mặt các ông, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ông, là Thiên Chúa ngự chốn trời cao cũng như nơi đất thấp” (Gs 2.11). Một lời thú nhận về lòng kính sợ Thiên Chúa rất tuyệt vời. Xét thấy rằng, Rakháp sống giữa những người ngoại giáo cho nên lời nói của cô cho thấy được nỗi sợ Thiên Chúa của cô to lớn đến mức nào. Thái độ của cô dành cho Thiên Chúa rất tuyệt vời, để rồi cô được trở nên một phần trong gia phả của Chúa Giêsu Kitô (Mt 1,5).
SỰ NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI
Như chúng ta đã biết, người phụ nữ Samaria đã có cuộc gặp gỡ tuyệt vời với Chúa Giêsu cạnh một cái giếng nơi cô đến lấy nước (Ga 4,9). Chúa Giêsu đã tỏ cho cô thấy những lỗi lầm mà cô ta đã phạm trong quá khứ và hiện tại. Những lời nói mạnh mẽ của Chúa đã đánh động con tim của người phụ nữ đó. Kết quả thế nào? Lòng nhiệt thành truyền giáo đã xâm chiếm tâm hồn người phụ nữ ấy, cô đã đem những lời của Chúa Giêsu đã nói đến cho dân làng của mình dù chưa biết Chúa là ai: “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao? ” Họ ra khỏi thành và đến gặp Người” (Ga 4,28-30).
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ ĐỨC HẠNH VÔ DANH TRONG SÁCH CHÂM NGÔN
Những câu cuối cùng của sách Châm ngôn được dành để ca ngợi đức tính của người phụ nữ vô danh, nhưng cũng có thể họ là những người phụ nữ vĩ đại của Thiên Chúa, đang tồn tại và có thực trong thời đại của chúng ta. Những người phụ nữ này đã sống các nhân đức trong việc chăm sóc gia đình, chồng con; trung thực và tận tâm trong công việc của mình. Bản văn này trình bày cho chúng ta như một bản tóm tắt về phẩm chất của người phụ nữ của Thiên Chúa và cho thấy họ quan trọng biết là dường nào.
- NGƯỜI VỢ ĐẢM ĐANG
Tìm đâu ra một người vợ đảm đang ?
Nàng quý giá vượt xa châu ngọc.
Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng,
chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc.
Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc
chứ không gây tai hoạ cho chồng.
Nàng tìm kiếm len và vải gai,
rồi vui vẻ ra tay làm việc.
Giống như những thương thuyền,
nàng đem lương thực về từ tận phương xa.
Nàng thức dậy khi trời còn tối,
cung cấp phần ăn cho cả nhà, và sai bảo con ăn đứa ở.
Nàng để mắt đến một thửa ruộng và tậu lấy ;
nàng dùng huê lợi đôi tay mình làm ra
mà canh tác một vườn nho.
Nàng thắt lưng cho chặt,
luyện cánh tay cho mạnh mẽ dẻo dai.
Nàng thấy công việc sinh nhiều lợi nhuận,
đèn trong nhà thắp sáng thâu đêm.
Nàng tra tay vào guồng kéo sợi,
và cầm chắc suốt chỉ trong tay.
Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ
và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
Nàng không sợ người nhà bị lạnh vì tuyết sương,
bởi cả nhà đều được mặc hai áo.
Nàng tự tay làm lấy chăn mền,
nàng mặc toàn vải gai, vải tía.
Chồng nàng được tiếng thơm nơi cổng thành
khi ngồi chung với hàng kỳ mục trong dân.
Nàng dệt vải đem bán,
cung cấp dây lưng cho nhà buôn.
Trang phục của nàng là quyền uy danh giá,
nàng mỉm cười khi nghĩ đến tương lai.
Nàng khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói
và dịu hiền khi dạy dỗ bảo ban.
Nàng để mắt trông nom mọi việc trong nhà,
bánh nàng ăn là do mồ hôi nước mắt nàng làm ra,
con nàng đứng lên ca tụng nàng có phúc,
chồng nàng cũng tấm tắc ngợi khen :
“Có nhiều cô đảm đang,
nhưng em còn trổi trang gấp bội.”
Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.
Người phụ nữ kính sợ ĐỨC CHÚA
mới đáng cho người đời ca tụng.
Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra.
Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng
do những việc nàng làm.
(Cn 31,10-31)
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2020
Kinh Thánh được hình thành như thế nào?
Chắc chắn Kinh Thánh không phải một quyển sách rơi từ trời xuống. Thật khó mà tưởng tượng Kitô Giáo lại không có Kinh Thánh. Tuy nhiên thực tế là trong gần 400 năm đầu tiên Giáo Hội mới được thành lập, Kinh Thánh không tồn tại, ít nhất là cách đầy đủ.
Việc tập hợp và thành lập Kinh Thánh là một quá trình dài. Trong quá trình ấy, các nhà lãnh đạo của Giáo Hội sơ khai đã phải xem xét tỉ mỉ vô số các bản thảo và nhận định, dựa trên các tiêu chí về sử học, tín lý và thần học, để nhận ra sách nào nên được giữ lại và sách nào không phải là linh hứng.
Quá trình hình thành Cựu Ước
Tuyển tập các sách ngày nay ta gọi là “Cựu Ước” bản chất là các bản thảo Thánh Kinh Do Thái cổ, tên chuyên môn là “Tanakh”, và các sách Kinh Hípri. Các sách thánh này đầu tiên được kể và truyền miệng qua nhiều đời, cho đến khi được viết ra giấy.
Khoảng 200 năm trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, xuất hiện một bản dịch các sách thánh Do Thái sang tiếng Hy Lạp và được công nhận rộng rãi là bản dịch được linh hứng. Truyền thống kể lại rằng vua Ptolemy II của Ai Cập muốn có một bản dịch Kinh Thánh Do Thái, nên đã mời các trưởng lão Do Thái từ Giêrusalem đến để dịch sách. Tổng cộng 72 trưởng lão, 6 vị từ mỗi chi tộc Israen, đến Ai Cập để dịch sách. Các vị được bố trí thành các nhóm riêng và cho ở các phòng khác nhau để dịch. Khi hoàn tất, các bản dịch được tổng hợp lại, và thật bất ngờ là tất cả các bản đều được dịch bằng câu từ y như nhau, dù không ai bảo ai.
Bản dịch này được gọi tên là Bản Bảy Mươi và trở nên phổ thông trong cộng đồng người Do Thái biết tiếng Hy Lạp. Chính các tác giả Tin Mừng cũng đã sử dụng Bản Bảy Mươi này để làm nguồn trích Cựu Ước cho tác phẩm của các ngài.
Các giáo phụ Kitô Giáo đã đọc Bản Bảy Mươi và suy tư sách nào được linh hứng thật. Quy điển Công Giáo thêm vào một số sách vốn được viết bằng tiếng Hy Lạp, không có bản gốc tiếng Do Thái và không có trong Bản Bảy Mươi, nhưng được tôn kính và đọc phổ biến giữa người Do Thái thời điểm đó, như sách Giuđitha, Tôbia, Khôn Ngoan, Huấn Ca…
Quá trình hình thành Tân Ước
Hồi ấy, nhiều bản viết tay về cuộc đời Chúa Giêsu và cái chết của Người được lưu truyền. Tác giả các bản thảo này có thể là chính các Tông Đồ, môn đệ của các Tông Đồ hoặc các tín hữu khác. Hoặc họ đã tận mắt chứng kiến, hoặc đã nghe người chứng kiến kể lại về cuộc đời Chúa Giêsu, và viết ra để truyền cho người khác.
Thời gian trôi qua, bản sao các tác phẩm không hoàn chỉnh này phát tán khắp cộng đồng Kitô hữu, và một vài cộng đồng Kitô hữu cố tập hợp lại để đọc vào các Lễ bẻ bánh ngày Chúa Nhật. Song song với các tác phẩm kể về cuộc đời Chúa Giêsu, người ta cũng truyền tay và đọc các thư của các Tông Đồ, trong đó nổi bật nhất là các thư của Thánh Phaolô, và cũng xem đó là linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Hiến chế Dei Verbum của công đồng Vaticanô II nói rõ: “Các tác giả thánh viết 4 Tin Mừng đã lựa chọn một số trong nhiều điều được truyền miệng hoặc lưu truyền bằng văn bản, giảm thiểu vài điều thành các bản tổng hợp, giải thích những điều khác theo hoàn cảnh của Giáo Hội các ngài, lưu giữ nguyên dạng các tuyên bố, nhưng trong bất kỳ cách nào các ngài cũng luôn nói cho chúng ta sự thật về Chúa Giêsu. Các ý trong các tác phẩm hoặc được lấy từ chính ký ức của tác giả, hoặc nghe từ các nhân chứng “ngay từ lúc khởi đầu đã thấy tận mắt và đã phục vụ Lời” để chúng ta được biết “sự thật”…”
Vào thời Thánh Irênê, Giáo Hội đã bắt đầu nói về Tin Mừng “tứ dạng” (quadriform), tức là 4 quyển Tin Mừng của Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan.
Từ những năm 300, nhu cầu về việc có một quyển Kinh Thánh thống nhất chính thức ngày càng tăng cao. Các nhà sử học tin rằng nhu cầu có quyển Kinh Thánh quy đến đến chính yếu là từ việc vua Constantinô yêu cầu 50 bản sao Kinh Thánh cho Giám Mục của Constantinople. Mọi sự khởi đầu từ công đồng Laodicea năm 363. Kế đó, Đức Giáo Hoàng Đamasô I yêu cầu Thánh Giêrônimô dịch Kinh Thánh sang tiếng Latinh vào năm 382. Cuối cùng, Thượng hội đồng Hippo (393) và Carthage (397) đã quyết định dứt khoát sách nào được giữ.
Mục đích của việc quy điển hoá Kinh Thánh là nhằm loại bỏ mọi tác phẩm sai trái cũng đang được lan truyền phổ biến lúc bấy giờ, và có quy chuẩn rõ ràng để hướng dẫn các nhà thờ sách nào được đọc trong Thánh lễ, sách nào không.
Hội Thánh tin xác quyết rằng quá trình tập hợp Sách Thánh này thật sự được hướng dẫn bởi chính Chúa Thánh Thần. Hội Thánh xem Kinh Thánh như tác phẩm của chính Thiên Chúa, được Chúa ban cho Hội Thánh.
Theo Philip Kosloski, Aleteia
Gioakim Nguyễn dịch
2020
Một người có thể được lãnh bí tích xức dầu bao nhiêu lần?
Một người có thể được lãnh bí tích xức dầu bao nhiêu lần?
Một người có thể lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân nhiều lần trong suốt cuộc đời. Trong lúc tuổi già hoặc bất cứ khi nào trải qua một cuộc phẫu thuật, có bạo bệnh đe dọa tính mạng hoặc trong tình trạng nghiêm trọng, người đó thích hợp để lãnh nhận bí tích Xức Dầu. Về phương diện mục vụ, đối với người đau yếu hoặc không đi lại được, bí tích nên cử hành cho họ sáu tháng một lần. Nhiều người Công Giáo đau bệnh phải nằm nhà có một bộ “chăm sóc kẻ liệt”. Bộ đồ này gồm có một cây thánh giá, một cây nến, khăn trải bàn thờ và nước phép. Khi linh mục đến thăm kẻ liệt trong nhà, những vật dụng này sẽ được đặt trên bàn để chuẩn bị cho việc Rước Lễ và Xức Dầu, thường là vào ngày thứ Sáu đầu tháng.
Truyền thống rước lễ vào ngày thứ Sáu đầu tháng bắt nguồn từ mặc khải tư về Thánh Tâm Chúa Giêsu cho thánh nữ Margaret Mary, một nữ tu dòng Thăm Viếng hồi thế kỷ mười bảy. Một phần của mặc khải này yêu cầu phải rước lễ vào chín thứ Sáu đầu tháng liên tiếp. Việc linh mục mang dầu thánh và bí tích Thánh Thể cho người đau ốm là một cử hành rất truyền thống. Linh mục sẽ thắp nến, vì bất cứ khi nào có Thánh Thể Chúa hiện diện thì nên có ít là một ngọn nến được thắp lên trong khi cử hành. Nước phép được rảy để nhắc nhở người đó rằng họ được mời gọi để nên thánh trong bí tích Rửa Tội. Cuối cùng, khăn thánh được sử dụng để đặt hộp đựng Mình Thánh, trong đó có Thánh Thể Chúa. Sau đó, vị linh mục có thể nghe người đó xưng tội, cử hành bí tích Xức Dầu và trao Mình Thánh Chúa cho họ. Cách chung, người bệnh cảm nhận được sự nâng đỡ của Chúa Giêsu và Giáo Hội, nhiệm thể Chúa Kitô qua các cuộc thăm viếng như vậy.
Các cử hành chung của bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân diễn ra trong nhà thờ giáo xứ, thường là một hoặc hai lần một năm. Những cử hành này rất quan trọng vì đó có thể là lần duy nhất mà những người đau ốm (hay kẻ liệt) có thể đến với Giáo Hội. Một chăm sóc đặc biệt luôn được thực hiện với các y bác sĩ của giáo xứ và những thành viên của một nhóm sẵn sàng trong trường hợp khẩn cấp. Cử hành bí tích Xức Dầu chung là một cách thế tuyệt vời để nâng đỡ người già, người đau yếu và cho họ biết rằng không chỉ có Thiên Chúa mà còn cả cộng đoàn, là nhiệm thể Chúa Kitô, chăm sóc họ.
Thánh Phaolô nhấn mạnh một hình ảnh loại suy rất đẹp về Giáo Hội như là nhiệm thể mà Chúa Kitô là đầu, và những người được rửa tội là thân thể. Khi một trong các thành viên của cơ thể bị bệnh, thì toàn bộ cơ thể bệnh. Đây là lý do tại sao Giáo Hội quan tâm chăm sóc người già và người đau bệnh. Việc xức dầu bệnh nhân trong thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ nhấn mạnh đến trách nhiệm của cộng đoàn và đến việc thiêng liêng của lòng thương xót để cầu nguyện cho người đau bệnh. st