2020
Lời Chúa trong Kinh Mân Côi
LỜI CHÚA TRONG KINH MÂN CÔI
Tháng 10, tháng Mân Côi lại về. Tôi muốn viết một chút về Kinh Mân Côi dưới góc độ Lời Chúa trong Kinh Mân Côi.
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân ở miền Bắc, công giáo “đạo gốc” [không phải theo nghĩa của một số người trẻ ngày nay ở Sàigòn, ngồi trên xe gắn máy dưới “gốc cây” ngoài sân nhà thờ để dự lễ…]. Ở quê tôi, trẻ bắt đầu tập nói thì đã học chắp tay “ạ!” trước tượng Chúa, tượng Đức Mẹ, rồi học làm dấu Thánh Giá, học kinh Kính Mừng… Tối nào gia đình cũng tụ họp trước bàn thờ lần chuỗi “năm chục”. Còn bé thì làm dấu thánh giá rồi đi ngủ. Thước đo độ lớn là kinh Kính Mừng, một, rồi ba, rồi một chục kinh chung với cả gia đình… tới tuổi lãnh phép Thêm Sức thì ngồi đọc năm chục kinh chung với cả nhà.
Tôi 6, 7 tuổi thì bà nội tôi mắt đã lòa, trời mưa thì bà ngồi ở nhà lần chuỗi đủ 15 ngắm, trời nắng thì bà bảo dắt bà qua nhà một người bà con ở gần nhà, bị liệt hai chân, hai bà lần chuỗi với nhau, như một niềm vui, niềm an ủi. Tôi ngồi với bà một chục kinh, rồi bà cho tôi đi chơi. Bà lần chuỗi xong thì gọi dắt bà về. Nhà tôi ở cách nhà thờ giáo xứ cũng khá xa. Ngày Chúa nhật đi lễ thì bọn trẻ rủ nhau vừa vui đùa vừa đi lễ, người lớn thì vừa đi vừa lần chuỗi, khoảng năm chục kinh thì tới nhà thờ. Tôi lớn lên dưới bầu trời ven sông Hồng, mỗi buổi tối, trên thì sao lấp lánh gọi nhau, dưới là lời Kinh Mân Côi vọng từ nhà này qua nhà khác.
Nay tôi là ông lão 80, từng sống 9 năm “hơn hẳn thầy tu một dấu huyền”, chẳng được phép mang đồ đạo nào trên mình. Hết 6 tháng “làm việc” đến những tháng nhàn rỗi: “Một mình một cỗ thảnh thơi ngồi”, cơm bưng nước rót, một mình một cõi, chẳng có gì để làm, chẳng có gì để đọc, chỉ có bốn bức tường để ngắm và thiên thần bổn mạng làm bạn… thì mười đốt ngón tay là xâu chuỗi, ngày ngày đếm thời giờ bằng chuỗi Mân Côi.
Hai chục năm sau đó thì ngược lại, sáu năm trời được Bề Trên Dòng sai đi khắp năm châu bốn bể vì nhiệm vụ trong Dòng, trước khi “định cư định canh” từ mười hai năm nay tại miền đất mà Chúa đã chọn làm quê hương khi từ trời xuống thế, chờ ngày song ca với ông già Si-mê-ôn.
Tại miền đất này, Tổng Lãnh Thiên Thần Gáp-ri-en đã xướng phần đầu kinh Kính Mừng và lời xin vâng của Trinh Nữ làng Na-da-rét mở ra Tin Mừng do các Tông Đồ rao giảng, nay được tóm tắt trong 20 mầu nhiệm Kinh Mân Côi. Rồi bà Y-sa-ve được đầy Thánh Thần, tiếp lời Thiên Sứ Gáp-ri-en cho trọn kinh Kính Mừng, các thiên thần đồng ca lời “Sáng Danh” và sau đó Con Thiên Chúa đích thân dạy kinh Lạy Cha. Tất cả nội dung Kinh Mân Côi xảy ra ở miền đất này.
Các nhà thờ chánh tòa lớn và cổ kính bên Tây thì dùng tượng đá, bên trong bên ngoài, không phải chỉ để trang trí, nhưng là “sách giáo lý” và Kinh Thánh cho mọi người. Bên Đông thì dùng nghệ thuật “tranh thánh”, tiếng Hy-lạp gọi là “i-kôn”, dùng nhiều biểu tượng và có thể gom nhiều chi tiết trên cùng một mặt phẳng để giúp người xem đi sâu vào từng mầu nhiệm. Người ta không nói là “vẽ i-kôn”, nhưng là “viết i-kôn”, vì mỗi “i-kôn” giống như cả một chương sách thần học kinh thánh, tín lý và thiêng liêng, giải nghĩa một mầu nhiệm. Người “viết i-kôn” xuất phát từ một kinh nghiệm chiêm niệm mầu nhiệm và “viết” ra để giúp cho người nhìn ngắm i-kôn đi vào cảm nghiệm thiêng liêng mà chính mình đã được trong chiêm niệm. Vì thế từ màu sắc tới các đường nét, cách bố cục đều có những “qui ước”, giống như viết văn vậy. Bức “i-kôn” nhiều người biết là bức của Rublev, diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, gợi hứng từ câu chuyện “Ba Vị Khách tới viếng ông Áp-ra-ham” (St 18)
Bức “i-kôn” của Rublev
Có lẽ Kinh Mân Côi khởi sự từ cách cầu nguyện bên phương Đông với những lời vắn tắt được lặp đi lặp lại, dấu vết rõ nhất là câu “Kyrie eleison”, “xin Chúa thương xót”, và lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giê-su dạy. Chúa Giê-su căn dặn: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mt 26, 41). Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu “cầu nguyện không ngừng” (1Tx 5,17). Sau này trong các tu viện, các tu sĩ cầu nguyện theo sát lời chỉ dẫn của thánh Phao-lô: với các thánh vịnh (của Cựu Ước), thánh ca được Thánh Thần linh hứng mà chúng ta còn gặp thấy trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca và các thư của thánh Phao-lô:
Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. 20Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha. (Ep 5,19-20; x. Cl 3,16-17).
Rồi đến thời phần đông giáo dân và cả những tu sĩ không biết đọc, họ đọc 150 lần kinh Lạy Cha thay cho 150 thánh vịnh. Dần dần lời Thiên Sứ truyền tin cho Đức Ma-ri-a và lời bà chào của bà Y-sa-ve được dùng, sau này thêm phần thứ hai của kinh Kính Mừng… Cứ như thế mà Kinh Mân Côi thành hình như chúng ta đọc ngày nay vào thế kỷ 15.
Hai mươi mầu nhiệm trong Kinh Mân Côi giống như tựa đề của hai mươi bức “tranh thánh” diễn tả từng mầu nhiệm trong các sách Tin Mừng và tín lý của Hội Thánh, xướng lên để chúng ta tự hình dung theo Tin Mừng, chiêm ngắm trong khi nhẩm đi nhẩm lại những lời kinh rút ra từ sách Tin Mừng và phụng vụ, cũng là những lời gợi lên khởi đầu (Sứ Thần truyền tin) và kết quả của ơn cứu độ trong Đức Giê-su, là chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, và được trực tiếp thân thưa với Cha chúng ta ở trên trời, ngợi khen và giãi bày những tâm tình và những nhu cầu của chúng ta trong đời sống làm người và làm con Thiên Chúa, được hiệp với thần thánh trên trời và Hội Thánh trên trần gian tung hô Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ (kinh Sáng Danh), cầu xin với Đức Ma-ri-a, Đấng vừa là Mẹ của Đấng Cứu Chuộc vừa là Mẹ chúng ta, những kẻ được hưởng ơn cứu chuộc.
Trẻ thơ nào cũng cần nghe và cảm nghiệm những lời, những cử chỉ âu yếm. Có gì ngọt ngào âu yếm cho trẻ thơ hơn là hai tiếng “Ba”, “Má”. Vui, buồn, khổ, đau, hay sung sướng thì “Ba”, “Má”, cũng là lời diễn tả đầu tiên ở sẵn ngay đầu môi. Có bàn tay nào êm ái bằng bàn tay của mẹ; bàn tay nào chở che mạnh mẽ hơn bàn tay của cha… Kinh Mân Côi cho chúng lặp đi lặp lại tiếng kêu “Cha”, và “Mẹ”…
Những lời kinh và các mầu nhiệm trong Kinh Mân Côi giúp chúng ta cảm nghiệm Tình Thương của Thiên Chúa là Cha. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, thân thưa với Cha. Nhớ đến, ôn lại những gì Cha đã làm cho chúng ta trong mầu nhiệm cứu độ, như thánh Gio-an diễn tả:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3,16-17).
Và Thánh Phao-lô cảm nghiệm: “Người đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20).
Tình Thương ấy là nguồn sức mạnh và cậy trông của chúng ta trong mọi hoàn cảnh:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? 36Như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. 37Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. 38Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Và khi chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc ấy thì chúng ta cũng được thôi thúc yêu mến đồng loại và có gương mẫu để biết yêu mến như Chúa Giê-su dạy:
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau. (Ga 13,34-35)
Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 10Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 11Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
12Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (Ga 15, 9-13)
Chúng ta được gọi Thân Mẫu của Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng là Mẹ của mình, được cảm nghiệm Tình Thương của Mẹ suốt từ khi Mẹ nhận sứ mạng làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc cho đến khi Mẹ đứng gần thập giá như Người Đàn Bà Mới, nghe Chúa Giê-su từ trên thập giá trao chúng ta – qua đại diện là người môn đệ Chúa yêu mến – cho Thân Mẫu của Người, để chúng ta thành con của Bà, và Bà làm Mẹ của chúng ta, “Mẹ của kẻ sống”, thay cho người Đàn Bà đầu tiên đã đem cái chết vào trước khi thành mẹ của chúng ta. Rồi để kết thúc, chúng ta chiêm ngắm cuộc khải hoàn của Mẹ, Mẹ được tham dự hoàn toàn vào cuộc khải hoàn của Đấng Cứu Chuộc do Mẹ sinh ra.
Mẹ trở thành nguồn cậy trông, bảo chứng cho chúng ta về quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta được tin tưởng thân thưa với Mẹ mọi nhu cầu của chúng “khi nay và trong giờ lâm tử”.
Kinh Mân Côi đưa chúng ta vào trong đại dương của Tình Yêu Thiên Chúa qua các mầu nhiệm chúng ta chiêm ngắm và lời kinh chúng ta lặp đi lặp lại. Kinh Mân Côi là nguồn an ủi, nguồn sức mạnh trong mọi hoàn cảnh của đời người tín hữu.
Tôi xin kết thúc bằng kinh nghiệm của “người tù xuyên thế kỷ” 38 năm, với hai năm ngồi trong khám tử hình bị vợ bỏ, con trai con gái còn nhỏ, lớn lên thì nghèo nên chẳng ai có điều kiện đi thăm cha.
Là sĩ quan đi cải tạo, bị bắt lại một lần, với tội danh tuyên truyền phản cách mạng, bị bắt lại lần nữa và lãnh án tử hình. Hai lần trước anh đã được bạn tù người công giáo dạy giáo lý, thuộc Kinh Mân Côi và ngắm Đàng Thánh Giá, nhưng chưa chịu phép rửa. Trong khám tử hình, hai chân cột vào một dây xích sắt dài. Anh nảy ra sáng kiến tự chế xâu chuỗi để đọc Kinh Mân Côi: đếm mười mắt xích, xé áo lấy vải đánh dấu, làm chuỗi Mân Côi. Ngày ngày lần chuỗi năm vòng 15 mầu nhiệm, rồi “ngồi Đàng Thánh Giá” ba vòng nữa. Ngày nào anh cũng chờ trong hy vọng, không phải hy vọng được tha, nhưng “nếu hôm nay người ta tháo xiềng đem ra bắn thì con sẽ được ở với Chúa trên thiên đàng”. Hai năm sau, một ngày người ta mở cửa, tháo “xâu chuỗi”, nhưng chưa cho anh lên thiên đàng với Chúa, chỉ đưa anh qua phòng án chung thân. Ít lâu sau, anh được đưa lên trại lao động. Ở đây anh đã gặp cha Đaminh Ngô Quang Tuyên và tôi, Cha Tuyên chuẩn bị và tôi làm phép rửa cho anh trong âm thầm. Nhiều người đã nghe biết tên anh, vì ngày đầu tiên đi lễ, gặp lễ cầu cho hòa bình và công lý, anh được mời lên chia sẻ. Lời đầu tiên của anh: “Tôi tha thứ tất cả, cho mọi người đã làm tôi đau khổ 38 năm qua”. Anh xóa từ hận thù, oán hận trong các bài thơ, bài hát anh đã viết hồi trước.
Khi anh được ra về thì tuổi đã cao, mắt đã gần lòa, sức khỏe suy yếu, con trai anh đã 45 tuổi, vẫn nghèo. Nhưng anh vẫn giữ được sự lạc quan và óc hài hước. Chuỗi Mân Côi và đàng thánh giá đã giữ tâm hồn anh bình an, lạc quan, vui vẻ sau ba mươi tám năm tù…
Giê-ru-sa-lem ngày 23 tháng 9 năm 2020
Linh mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.
2020
Ca Hiệp Lễ và Bài Ca Sau Rước Lễ
Trong nghi thức hiệp lễ, thực ra có hai loại bài ca chứ không phải một loại như nhiều người lầm tưởng. Đó là ca hiệp lễ và bài ca sau rước lễ.
- Đọc hay hát ca hiệp lễ?
Trong Sách lễ Roma, mỗi Bài lễ đều có ghi ca hiệp lễ dùng để đọc trong trường hợp không hát ca hiệp lễ như chỉ dẫn của Quy chế Tổng Quát Sách lễ Rôma (QCSL) số 87: “Nếu không hát, thì giáo dân, hoặc một vài giáo dân hay độc viên, đọc ca hiệp lễ ghi trong Sách lễ. Nếu không có ai khác, thì chính vị tư tế đọc sau khi đã rước lễ, và trước khi cho tín hữu rước lễ”. Đọc ca hiệp lễ là vì:
- Linh mục cử hành lễ một mình hay chỉ với một người tham dự;
- Số người tham dự thánh lễ quá ít ỏi đến độ hầu như không làm thành cuộc rước hiệp lễ;
- Cộng đoàn không đủ lực để hát liên quan đến số người có thể hát không nhiều hoặc thành phần tham dự toàn những vị già nua tuổi tác hay bệnh tật yếu đau;
- Thánh lễ được cử hành cho những nhóm đi hành hương hay du lịch mà họ không tiện mang đàn và sách hát theo.
Ngoài 4 lý do vừa nêu thì hết sức bao nhiêu có thể, chúng ta phải hát ca hiệp lễ trong mọi thánh lễ như sẽ được trình bày dưới đây. Hễ đọc ca hiệp lễ rồi thì không hát nữa mà nếu hát ca hiệp lễ được thì không cần đọc ca hiệp lễ nữa vì ca hiệp lễ được ghi trong Sách lễ Roma được dự trù để đọc trong trường hợp không thể hát ca hiệp lễ mà thôi.
- Bắt đầu hát ca hiệp lễ khi nào?
Xin thưa: “Ðang khi vị tư tế rước lễ, thì bắt đầu hát ca hiệp lễ”.[1] Vì thế, nên bắt đầu bài ca hiệp lễ ngay lập tức sau lời đáp của cộng đồng: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa…”. Chỉ dẫn này dựa trên nền tảng lịch sử và thần học như sau:
- Lịch sử
Thật vậy, ít nhất vào thời thánh Augustinô (354-430), người ta đã có thói quen hát Thánh vịnh (Tv) trong lúc mọi người lên rước lễ.[2] Theo thánh Cyrilô thành Giêrusalem, một bản văn được cả bên Đông lẫn bên Tây phương ưa thích là Tv 34 (33), nhất là câu 9: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy!” nhằm diễn tả Thánh Thể là niềm vui của cộng đoàn.[3] Ngoài Thánh vịnh 33 vừa nêu, bên Đông phương, thánh Gioan Kim Khẩu (344-407) nói đến việc sử dụng Thánh vịnh 144 làm ca hiệp lễ (Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con…). Sau mỗi đoạn Thánh vịnh, mọi người đáp lại: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn” (câu 15). Nhưng Typicon (Cẩm nang phụng vụ thế kỷ IX) làm chứng về một truyền thống sớm sủa tại Constantinopoli về việc hát Tv 148 (Ca tụng Chúa đi, tự cõi trời thăm thẳm…) vào các Chúa nhật và Tv 115 vào các ngày lễ trọng thể.
Tại Tây phương, thánh Ambrôsiô chấp nhận lấy trích dẫn Tv 42,4 và các phần của Tv 22 làm Thánh vịnh hiệp lễ. Còn tại Alexandria, Tv 150 (Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa…) không phải là Thánh vịnh duy nhất dùng làm ca hiệp lễ nhưng có thể được coi là Thánh vịnh hiệp lễ chủ yếu.
Cuốn sách chứa những bài ca thánh lễ cổ xưa nhất có tên là Antiphonalia missarum (thế kỷ IX -X) cho thấy ngoài việc sử dụng Thánh vịnh để hát đi kèm với đoàn rước lên hiệp lễ, người ta còn sử dụng những bản văn Kinh Thánh khác và phát triển việc hát ca hiệp lễ theo chủ đề của thánh lễ đang cử hành, chẳng hạn từ Bản văn Tin Mừng Ga 6 và những Bài đọc Kinh Thánh theo ngày. Đến thế kỷ XI, do số lượng các tín hữu lên rước lễ giảm thiểu đáng kể và gần như không còn trong những buổi cử hành Thánh Thể trọng thể, nên bài ca hiệp lễ dài kể như dư thừa. Sang thế kỷ XII, dân chúng hiếm khi rước lễ trừ ra trong những ngày lễ trọng thể. Phần duy nhất của bài ca hiệp lễ còn lại là câu điệp xướng được hát sau khi linh mục hiệp lễ và được giữ lại như một kỷ niệm về việc rước lễ của tín hữu.
Kể từ thời gian này cho đến khi có những cải cách phụng vụ vào thế kỷ XX, các tín hữu đã xa rời chiều kích cộng đồng của buổi cử hành phụng vụ khi trở thành người xem lễ, quan sát viên, người nghe nhạc hơn là tích cực tham dự vào phụng vụ như đã từng diễn ra trong các thánh đường thời thánh Augustinô và thánh Gioan Kim Khẩu. Đến năm 1958, điệp xướng hiệp lễ cùng với một Thánh vịnh thích hợp một lần nữa lại được cất lên đi kèm với cuộc rước các tín hữu lên rước lễ. Nghi thức thánh lễ (Sách lễ 1970) đã phục hồi thực hành cổ xưa tại Roma. Bài ca hiệp lễ được hát đang khi các tín hữu tiến lên rước lễ nhằm diễn tả tinh thần hợp nhất của những người lãnh nhận Thánh Thể qua tiếng hát của họ. Bài ca hiệp lễ cũng biểu lộ niềm vui của họ và làm cho cuộc rước hiệp lễ mang tính huynh đệ hơn.
- Thần học
Lý do thần học được nêu rõ trong QCSL số 86 như sau: “Bài ca (hiệp lễ) này có mục đích diễn tả sự đồng tâm hiệp nhất thiêng liêng giữa những người rước lễ, khi họ đồng thanh ca hát, đồng thời biểu lộ niềm vui trong tâm hồn và làm cho việc tiến lên rước Mình Thánh Chúa có tính cách cộng đoàn hơn”.
Cử hành phụng vụ nào cũng mang đặc tính cộng đoàn. Vị chủ tế cũng là một thành viên trong cộng đồng Hội Thánh đang cử hành thánh lễ. Vì vậy, hát ca hiệp lễ phải bắt đầu ngay khi ngài đang rước lễ để không tách rời ngài ra khỏi cộng đồng phụng vụ và để biểu dương sự hợp nhất thiêng liêng trong cộng đoàn.
Hát ca hiệp lễ bắt đầu ngay khi chủ tế đang rước lễ vì lúc này những người lên rước lễ tạo thành một cuộc rước. Nguyên tắc và truyền thống phụng vụ của Hội Thánh từ xưa đến nay là hát luôn luôn đi kèm với cuộc rước. Bởi thế, phải hát khi đang có cuộc rước hiệp lễ. Còn rước thì còn hát, cho nên phải hát ca hiệp lễ cho đến khi mọi người rước lễ xong.[4] Khi số người lên rước lễ nhiều đến độ một bài ca hiệp lễ đáp ứng không đủ, thay vì lặp lại bài ca hiệp lễ nhiều lần, chúng ta nên hát thêm một hay nhiều bài thánh ca nữa, miễn là phù hợp với nội dung và chủ đề của ca hiệp lễ hôm ấy. Tuy nhiên, đừng bao giờ hát một mạch liên tục. Nên nối kết phần dành cho cộng đoàn và phần hát dành cho một mình ca đoàn,[5] hoặc có lúc ngưng hát giữa các bài, thậm chí giữa những câu phiên khúc trong một bài để dạo đàn, trừ những mùa không được phép dạo đàn.[6]
Nếu đoàn người lên rước lễ mà không hát thì chẳng khác nào những người xếp hàng check – in ở sân bay, xếp hàng đi mua vé xe, vé xem phim hoặc như thể xếp hàng đi viếng xác người quá cố. Việc xếp hàng lên rước lễ là một loại kinh nghiệm khác hẳn với những loại xếp hàng khác khi mọi người cùng nhau ca hát trên đường lên rước lễ.[7] Việc hiệp lễ vừa có tính cách riêng tư nhưng đồng thời cũng là một việc có tính cách cộng đồng rõ rệt.[8] Bài ca hiệp lễ hướng chúng ta về cử hành mang tính cộng đồng ở bên ngoài hơn là hướng vào cầu nguyện cá nhân.[9] Vì thế, QCSL 87 dạy rằng: “Không phải họ chỉ đi lên lãnh nhận Mình Thánh cho riêng mình, không kể gì đến người khác. Cần phải chứng tỏ rằng, mọi người chúng ta chỉ là một, và chúng ta sắp cùng nhau hiệp thông với Mình Thánh Chúa Kitô để bày tỏ và củng cố sự hiệp nhất giữa chúng ta với nhau qua bí tích rửa tội. Chính bí tích này làm cho chúng ta trở thành chi thể của một thân thể duy nhất”.
Về phương diện mục vụ, cần tổ chức cử hành phụng vụ thế nào để cuộc rước hiệp lễ diễn ra vừa trật tự khoan thai vừa lưu tâm đến cả kẻ trước người sau. Cuộc rước cần chứng tỏ mọi người chỉ là một và mọi người cùng nhau đi lên lãnh nhận Mình Thánh Chúa trong ý muốn biểu dương tinh thần hiệp nhất của những người đã chịu bí tích thánh tẩy. Để cụ thể hóa tinh thần đó, nghĩa là bày tỏ sự hiệp nhất ấy ra bên ngoài, không công việc nào thích hợp hơn là cộng đoàn đồng thanh ca hát.[10]
Vì phải đồng thanh ca hát đang khi lên rước lễ, cho nên tốt nhất ca hiệp lễ là bài hát cộng đồng, nghĩa là mọi người quen thuộc và có thể hát được mà không cần đến sách hát hoặc giấy in bài hát.[11] Dân chúng chỉ cần thuộc lòng và hát câu điệp khúc, còn các phiên khúc thì dành cho ca đoàn hay lĩnh xướng viên.[12] Bấy giờ, ca hiệp lễ thành lời nguyện của toàn thể cộng đoàn chứ không phải là màn trình diễn của một cá nhân hay của riêng ca đoàn nhằm biểu lộ tài năng của họ.[13]
Đến đây, chúng ta đã hiểu vì sao phải chấm dứt tình trạng thinh lặng đang khi lên rước lễ. Thật không may, rất nhiều cộng đoàn và giáo xứ tại Việt Nam có những thực hành “bất tuân” những chỉ dạy của Giáo hội:
– Cả cộng đoàn rước lễ xong rồi mới hát ca hiệp lễ;
– Trì hoãn hát ca hiệp lễ cho tới khi các thành phần như: chủ tế, các vị đồng tế, các phó tế, những người giúp lễ, những người đọc sách, những thừa tác viên Thánh Thể và ca đoàn rước lễ xong rồi mới hát;
– Thay vì hát ca hiệp lễ thì lại đọc một bài suy niệm hay một kinh nguyện nào đó;
– Tệ hơn cả là thông báo tin tức đang khi các tín hữu lên rước lễ.
III. Nội dung và chủ đề của bài ca hiệp lễ
Ý nghĩa của bài ca hiệp lễ là:
- Nội tâm hóa hành vi thể lý của những người đang tiến bước lên rước lễ;
- Diễn tả sự đồng tâm hiệp nhất của cả cộng đoàn trong việc gặp gỡ Chúa cũng như niềm vui và diệu kỳ của sự kết hợp với Chúa;
- Bày tỏ lòng biết ơn và tán tụng vì hồng ân Thánh Thể nhận được.
Vì thế, ngay từ xưa, ca hiệp lễ quy vào bốn chủ đề: Thánh Thể; ca tụng; mùa phụng vụ; và nội dung Tin Mừng của ngày lễ.[14]
Hiện nay, Giáo hội dạy rằng: “Về ca hiệp lễ, có thể dùng điệp ca trong sách Graduale Romanum cùng với Thánh vịnh hay không có Thánh vịnh, hoặc dùng điệp ca với Thánh vịnh trong sách Graduale simplex, hoặc bài hát nào khác thích hợp đã được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận“.[15] Hai cuốn sách hát Graduale Romanum và Graduale simplex cung cấp đầy đủ bản văn Thánh vịnh bằng La ngữ, mỗi bài ca được được viết với một hình thể âm nhạc xứng hợp để hát vào lúc nhập lễ, đáp ca, halleluia, dâng lễ và hiệp lễ cho tất cả các ngày lễ và mùa lễ của năm phụng vụ.
Tại Việt Nam, Ủy ban Thánh Nhạc cho biết cụ thể chủ đề của bài ca hiệp lễ là: diễn tả sự hiệp nhất, việc gặp gỡ Chúa, niềm vui và diệu kỳ của sự kết hợp với Chúa, lòng biết ơn và tán tụng.[16] Vào các mùa khác trong năm, nên chọn Thánh vịnh hoặc bài ca khi rước lễ theo tinh thần của mùa ấy (mùa lễ). Vào hầu hết các Chúa nhật và những ngày khác, thật là thích hợp để hát một trong những Thánh vịnh gắn kết với việc tham dự bữa tiệc Thánh Thể như Tv 22, 33 và 146 (Chúa dưỡng nuôi chúng ta qua thần lương Thánh Thể).[17]
Ngoài ra, có thể dựa theo ca hiệp lễ trong Sách lễ để chọn bài. Tất cả chúng đều được trích dẫn từ Thánh Kinh. Đối chiếu nội dung Kinh Thánh này với kho bài hát đã được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận, chúng ta sẽ có bài ca hiệp lễ thích hợp mà không phải là bài hát về Đức Mẹ hay các thánh.
Tóm lại, chủ đề của bài ca hiệp lễ là: niềm vui, sự kỳ diệu, sự hiệp nhất, lòng biết ơn, tán tụng, mùa phụng vụ, nội dung Tin Mừng của ngày lễ hôm ấy và Thánh Thể. Cần lưu ý, có những bài ca truyền thống về Thánh Thể được soạn thảo cho việc ban phép lành Mình Thánh Chúa, do đó tập trung vào tôn thờ hơn là hành vi hiệp lễ, nên không thích hợp để hát lúc rước lễ.
- Thinh lặng sau rước lễ hay hát bài ca sau rước lễ
QCSL số 88 chỉ dẫn: “Sau khi cho rước lễ, vị tư tế và giáo dân tùy nghi cầu nguyện trong lòng một khoảng thời gian. Nếu muốn, tất cả cộng đoàn cũng có thể hát một Thánh thi, một Thánh vịnh hay một bài Thánh ca ngợi khen nào khác”. Tức là, sẽ rất hữu ích khi mọi người tham dự dành ra ít giây phút thinh lặng sau rước lễ để tạ ơn Chúa, kết hợp với Chúa và hiệp thông với cộng đoàn, vốn là thân thể của Chúa Kitô. Thinh lặng lúc này tạo cơ hội cho tín hữu cầu nguyện nội tâm và chiêm niệm Mầu nhiệm Thánh Thể. Để sự im lặng được trọn vẹn thật sự, sau khi cho rước lễ xong, các thừa tác viên nên để các bình thánh ở bàn đồ lễ và tiến hành tráng chén sau thánh lễ.
Cần phân biệt bài ca hiệp lễ với bài ca sau hiệp lễ được hát sau khi toàn thể cộng đoàn đã rước lễ xong. Vào lúc này, chúng ta có 2 chọn lựa:
- Thinh lặng để tạ ơn Chúa như vừa nói trên;
- Cả cộng đoàn đứng lên hát một Thánh vịnh, Thánh thi hay thánh ca có chủ đề chúc tụng và tạ ơn như Benedictus hay Magnificat…[18]: các bài hát này không phải là bài hát theo chủ đề của ngày lễ như mừng Mẹ Maria, thánh Giuse (bổn mạng), công ơn cha mẹ (lễ an táng, mừng tuổi thọ…), kỷ niệm hôn phối, tình quê hương (quốc khánh, lễ dân tộc…). Những bài ca này có thể hát khi thánh lễ kết thúc hay vào những lúc cầu nguyện chung, đem hát lúc sau rước lễ sẽ làm lệch lạc ý nghĩa của cử hành phụng vụ.[19]
Nếu đã hát ca hiệp lễ rồi, thinh lặng có thể là chọn lựa ưu tiên hơn, đáng ao ước thực hiện hơn là hát bài ca sau rước lễ.[20]
Nguồn: cgvdt.vn (8.11.2015)
[1] QCSL số 86 và Nghi thức Thánh Lễ số 136.
[2] Didache và Ordo Romanus I, Xc. Paul Turner, The Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 145.
[3] Lucien Deiss, The Mass I (Minnesota: The Liturgical Press, 1992), 100.
[4] Xc. QCSL 86.
[5] Xc. Uỷ ban Thánh nhạc (HĐGM Việt Nam), Hướng dẫn Mục vụ Thánh Nhạc (= MVTN), số 182.
[6] Không dạo đàn solo trong mùa Chay trừ ra Chúa nhật thứ IV (Chúa nhật hồng), các ngày lễ kính và lễ trọng (x. QCSL 313).
[7] Xc. Mark Searle, Liturgy Made Simple (Minnesota: The Liturgical Press, 1981), 71.
[8] Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh Thể, (Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 1997), 160.
[9] Xc. Kathleen Harmon, The Ministry of Music (Minesota, Collegeville: Liturgical Press, 2004), 37.
[10] MVTN 181; Trần Ngọc Quỳnh, Cử hành Mầu nhiệm Tạ Ơn (Sài Gòn: TS Đại Kết, 1996), 194.
[11] Xc. East Asian Pastoral Review, Celebrate Life in Liturgy, Vol. 33 (1996), No. 1-4, 109.
[12] Xc. Lawrence E. Mick, Worshiping Well, 94.
[13] Xc. Celebrate Life in Liturgy, 109.
[14] MVTN 180.
[15] QCSL 87.
[16] MVTN 180.
[17] MVTN, số 180; 183.
[18] Xc. QCSL 88.164; MVTN 185.
[19] Vinh sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể (Sài Gòn: ĐCV thánh Giuse, 2001), 138.
[20] Xc. QCSL 45;88;164.
2020
5 truyền thống văn hóa mừng Lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời
5 truyền thống văn hóa mừng Lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời
Dưới đây là cách dễ dàng kết hợp các phong tục lịch sử hân hoan trong việc kỷ niệm ngày lễ này tại nhà.
Mặc dù mãi đến năm 1950 tín điều Đức Mẹ hồn xác Lên Trời mới chính thức được xác định, nhưng ngay từ những ngày đầu của Giáo hội các tín hữu biết và tin rằng Đức Mẹ đã được cất lên Thiên đàng. Thật vậy, ngày 15 tháng Tám là một trong những ngày lễ kính Đức Mẹ lâu đời nhất!
Qua các thế kỷ, nhiều cách sùng kính bình dân đã phát triển để tôn vinh Đức Trinh Nữ trong ngày thánh này. Ở một số quốc gia, những người phụ nữ có tên Maria tôn vinh thánh bổn mạng bằng bữa tiệc tổ chức tại nhà cho bạn bè và hàng xóm của họ; các thị trấn tổ chức những đám rước và lễ hội với hoa, âm nhạc và nhảy múa.
Theo truyền thống, ngày Lễ Đức Mẹ lên Trời là Ngày Lễ buộc ở nhiều nơi; ngay cả với thời điểm miễn trừ hiện tại, ngày lễ này là thời điểm thích hợp để tham dự Thánh lễ nếu bạn có thể, theo dõi Thánh lễ trực tuyến, hoặc đọc Phụng vụ Lời Chúa tại nhà với gia đình. Bạn cũng có thể đọc Kinh Mân côi năm Sự Mừng, suy tư đặc biệt về mầu nhiệm thứ năm, “Đức Maria được thưởng trên nước Thiên Đàng, Nữ Vương Thiên Đàng và Trần thế”.
Dưới đây là 5 cách mừng kính ngày lễ này theo lịch sử, cùng với những cách thức để kết hợp các truyền thống trong gia đình của bạn.
1. ĐỨC BÀ THẢO MỘC VÀ HOA
Người ta tin rằng các loại thảo mộc được hái vào tháng Tám là có công dụng tốt nhất, vì vậy, nhiều nhà thờ theo truyền thống tổ chức “làm phép cho các loại thảo mộc” vào ngày này. Ở Ba Lan, ngày này được biết đến trong lịch sử với tên gọi Lễ Đức Bà Thảo một và Hoa, và người Ba Lan ở Mỹ thường tiếp nối truyền thống theo một cách mới, với tên gọi là Lễ Đức Bà Hoa. Theo các lễ mừng truyền thống, trẻ em sẽ hát thánh ca bằng tiếng Ba Lan và tiếng Anh tại nhà thờ, và sau đó cha mẹ các em nhảy múa theo điệu nhạc truyền thống của Ba Lan.
Gia đình bạn có thể dâng các loại thảo mộc và hoa lên ảnh Đức Mẹ trong khi hát thánh ca trong nhà của bạn, sau đó là nhảy múa!
2. RƯỚC KIỆU QUA THÀNH PHỐ
Ở Ý, người dân thị trấn đi theo đoàn rước tượng Đức Mẹ qua các đường phố đến nhà thờ. Siena nổi tiếng với cuộc đua ngựa “Palio di Siena”, một cuộc đua ngựa chưa thuần, vô luật lệ và đầy phấn khích ở quảng trường của thành phố. Những người tham gia và nhiều người tham dự mặc trang phục thời trung cổ, và thành phố ngập tràn các đồ trang trí và người xem, làm cho cuộc đua hàng năm trở thành một truyền thống đáng yêu.
Trẻ nhỏ thích cuộc đua ngựa giả đầy hào hứng ở sân sau hoặc trong phòng khách, hoặc đơn giản bạn có thể theo đám rước kiệu và ca vang những bài thánh ca.
3. VƯƠNG MIỆN BẰNG HOA
Ở Bồ Đào Nha, lễ hội hàng năm trong ngày lễ này được gọi là Romeria. Một ban kèn đồng, trống truyền thống và kèn túi (nhạc dân ca vùng Galicia) đồng tấu trong khi các bức tượng Mẹ Maria, Nữ Vương các Thiên thần, được đội triều thiên trong các nhà thờ.
Dâng hoa lên Đức Mẹ là một truyền thống thường được cử hành vào tháng Năm, nhưng chẳng có lý do gì để không tôn vinh Đức Mẹ vào bất kỳ ngày nào trong năm, và Lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời là một ngày vô cùng thích hợp! Vì vậy, nếu bạn chưa bao giờ dâng hoa lên Đức Mẹ vào tháng Năm, thì Giáo hội luôn hỗ trợ bạn: Đây là một dịp phù hợp theo phụng vụ để dâng hoa lên Đức Mẹ. Bạn có thể làm một triều thiên bằng hoa cho tượng Đức Mẹ, hoặc xem các bản in Tượng Đức Mẹ này với triều thiên nhỏ xíu.
4. DÂNG HOA TRÁI ĐẦU MÙA
Ở Armenia có phong tục dâng “hoa trái đầu mùa” của vụ thu hoạch lên Chúa, theo gương của Aben trong Kinh thánh, người đã dâng của lễ xứng đáng. Vì vậy, ngày Chúa nhật cận với Lễ Đức Mẹ lên Trời được dành riêng để làm phép vườn nho. Một phong tục đáng khen là kiêng ăn nho cho đến sau khi làm phép, khi đó những mâm xếp đầy trái cây được mang vào nhà thờ, được làm phép và trao cho từng thành viên trong cộng đoàn mang về nhà. Ở một số nơi, các lễ hội được tổ chức trong vườn nho.
Ăn nho trong ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời là một cách ăn mừng đơn giản và thú vị! Để phù hợp với tinh thần của ngày lễ, bạn có thể dâng lời cầu nguyện đặc biệt để tạ ơn vì muôn ơn lành rộng rãi của Chúa.
5. CẦU HÔN
Ở một số vùng của Pháp, có phong tục cầu hôn vào ngày 15 tháng Tám, khi đó các đôi đính ước cầu xin Mẹ Maria chúc phúc cho tương lai chung sống của họ. Người trẻ theo truyền thống thích các buổi dã ngoại và tiệc tùng, và sau khi rước tượng Đức Mẹ qua làng, họ sẽ nhảy múa bên ánh sáng của những đống lửa. Nếu bạn đang dự định việc đính hôn thì Lễ Đức Mẹ lên Trời sẽ là một ngày hoàn hảo để cầu hôn, bạn có nghĩ vậy không?
[Nguồn: aleteia]
Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN
2020
Tại sao phải đến với Mẹ Maria trong khi chúng ta đã có Chúa Giêsu?
Tại sao phải đến với Mẹ Maria trong khi chúng ta đã có Chúa Giêsu?
Cách đây vài năm, tôi có một cuộc thảo luận với một người bạn theo Tin lành về việc người công giáo dâng mình cho Đức Maria. Tôi giải thích rằng về cơ bản đó chỉ là một cách nói theo nghĩa chúng tôi phó thác bản thân cho Đức Mẹ và đặt mình dưới sự bảo trợ của Mẹ để Mẹ có thể dạy chúng tôi nên thánh như Mẹ.
Để giúp bạn của tôi hiểu rõ điều này, tôi đã dùng một ví dụ về môn bóng rổ. Tôi đã nói rằng nếu bạn muốn trở thành cầu thủ bóng rổ giỏi, thì bạn phải học từ người giỏi nhất. Nếu có thể, bạn nên đến gặp cầu thủ bóng rổ giỏi nhất mọi thời đại, Michael Jordan, anh ấy có thể giúp bạn nhiều hơn bất kỳ ai trên trái đất này.
Tương tự, nếu chúng ta muốn trở nên người thánh thiện hết sức có thể, chúng ta cũng nên học hỏi nơi người tốt nhất. Chúng ta nên học nghệ thuật nên thánh từ người hoàn hảo nhất đã từng bước đi trên trái đất này. Sau đó tôi nói rằng người thánh thiện nhất xưa nay (theo Kitô giáo) đó chính là Đức Mẹ Maria, mà đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội đã giữ cho Mẹ khỏi tội lỗi, dù là nhỏ nhất trong thời gian Mẹ sống ở trần gian. Nhưng lúc đó bạn tôi xen vào nói – đó là Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, điều anh ta nói ngụ ý rằng việc dâng mình cho Mẹ Maria là không cần thiết, vì chúng ta có thể học hỏi từ chính Chúa Giêsu.
Vậy làm thế nào chúng ta có thể trả lời cho kiểu lập luận đó? Nhìn bề ngoài, lập luận ấy có vẻ rất mạnh mẽ. Chắc chắn, Đức Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, cho nên không cần phải động não. Chúng ta nên bỏ qua người trung gian và đi thẳng đến nguồn gốc của mọi sự thánh thiện.
Nhưng nếu chúng ta đào sâu hơn một chút, chúng ta thấy rằng nó thực sự không đơn giản. Để biết lý do tại sao, chúng ta hãy thay đổi chủ đề một chút và nhìn vào những lời giáo huấn trong Tân ước về những người có đời sống thánh thiện mà chúng ta cần noi theo. Nhiều đoạn văn nói với chúng ta rằng chúng ta nên bắt chước Chúa Giêsu – chẳng hạn như Ga 13:34; 1Pr 2:21 -, vì vậy theo logic lập luận của người bạn đó thì chúng ta không nên lấy các thánh tông đồ làm gương. Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo về sự thánh thiện, vậy việc gì chúng ta phải nhìn vào bất kỳ ai khác?
Một lần nữa, điều đó nghe qua có vẻ thuyết phục nhưng nó không giống như điều Kinh thánh nói. Chẳng hạn thánh Phaolô thường bảo các độc giả của ngài hãy bắt chước ngài (1 Cor 4,16, Phil 3,17; 2Tx 3,7-9), và trong đoạn khác ngài còn nói: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi đã bắt chước Chúa Kitô” (1Cor 11,1). Phaolô không chỉ nói với những người con thiêng liêng của mình hãy noi gương ngài cách chung chung, mà ngài còn bảo họ hãy bắt chước ngài trong khi họ có thể nhìn vào Chúa Giêsu cách dễ dàng. Ngay cả khi đang bắt chước Chúa Giêsu, thánh Phaolô cũng bảo mọi người hãy bắt chước ngài hơn là nhìn vào mẫu gương mà ngài đang noi theo.
Điều này không có nghĩa là thánh Phaolô không khuyến khích mọi người lấy Chúa Kitô làm gương mẫu. Trái lại, ngài nói rõ với các độc giả của ngài rằng họ nên làm điều đó (Phil 2, 5, Col 3,13), vì vậy quan điểm của ngài không phải là bắt mọi người bắt chước mình thay vì bắt chước Chúa Giêsu. Đúng hơn, mọi người nên bắt chước ngài cùng với Chúa Giêsu. Thực vậy, chúng ta có thể nói rằng, Phaolô muốn các độc giả của mình bắt chước Chúa Giêsu cách chính xác bằng cách bắt chước ngài.
Và tại sao lại như vậy? Nói cách ngắn gọn, Thiên Chúa không muốn chúng ta tập trung nhìn vào Ngài để rồi chúng ta không còn thấy ai nữa. Ngài không chú tâm đến chúng ta theo kiểu riêng biệt đến nỗi chúng ta trở nên độc lập về mặt thiêng liêng với phần còn lại của Giáo hội. Không, giống như Ngài đã tạo dựng loài người chúng ta theo cách mà chúng ta cần nhau để tồn tại về mặt thể lý, thì Ngài cũng muốn chúng ta lệ thuộc vào nhau về mặt thiêng liêng. Mặc dù Chúa Giêsu có thể là mẫu gương thánh thiện duy nhất của chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta nhìn lên người khác.
Và lấy nguyên tắc tương tự làm nền tảng cho việc chúng ta dâng mình cho Mẹ Maria. Chắc chắn, chính Thiên Chúa, nguồn gốc của mọi sự thánh thiện, là thầy dạy của đời sống thiêng liêng, nhưng Ngài không muốn chỉ mình Ngài đóng vai trò đó. Thay vào đó, Ngài muốn chia sẻ điều đó với con cái của mình; Ngài muốn chúng ta học từ người khác. Cụ thể hơn, chúng ta có thể nói rằng Ngài muốn dạy chúng ta qua mẫu gương và sự dạy dỗ của người khác.
Vì vậy ý tưởng cắt bỏ người trung gian và bỏ qua Đức Maria thực sự mâu thuẫn với tinh thần của Tân ước. Chắc chắn tự Thiên Chúa có thể trực tiếp dạy chúng ta, nhưng Ngài chọn cách dạy và hướng dẫn chúng ta qua những người khác. Giờ đây, “người khác” tuyệt vời nhất mà chúng ta có thể phó thác đó chính là Đức Maria, vì vậy thật hợp lý khi chúng ta dâng mình cho Mẹ và đặt mình dưới sự chở che của Mẹ để Mẹ có thể dạy chúng ta nên thánh giống như Mẹ.
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ