2021
Lễ Kính Thánh Danh Chúa Giêsu có ý nghĩa gì?
2021
8 cách tôn kính Danh Thánh Chúa Giêsu trong tháng Một
8 cách tôn kính Danh Thánh Chúa Giêsu trong tháng Một
Tháng Một có ý nghĩa gì đối với người Công Giáo và làm thế nào để tôn vinh ý nghĩa đó trong nhà bạn?
Bạn có biết rằng trong Giáo hội Công Giáo, mỗi tháng trong năm đều có một chủ đề để tôn kính? Tháng Một là tháng kính Danh Thánh Chúa Giêsu, và cũng là thời điểm lý tưởng để củng cố mối liên hệ của chúng ta với danh xưng tuyệt đẹp này của Chúa chúng ta. Thực ra, tất cả các tên gọi đều cần phải được trân trọng. Bạn có biết ý nghĩa tên gọi của bạn? Thật thú vị khi khám phá ý nghĩa ấy. Tên gọi biểu trưng cho phẩm giá của một con người và đặc biệt Danh xưng Giêsu phải được tôn kính ở mức độ cao nhất; chỉ được phép gọi và nghe Danh Thánh Giêsu cách thánh thiêng.
Danh xưng tuyệt đẹp “Giêsu” có nghĩa là “Chúa Cứu Chuộc”. Vì vậy, Thánh danh Giêsu không chỉ là tên của Đấng Cứu Chuộc mà còn, theo ý nghĩa của nó, nói lên mục đích sự hiện hữu của Người, nhắc chúng ta nhớ về ơn cứu độ rất đáng kinh ngạc. Do đó, chúng ta hãy dành cho Thánh danh Giêsu một sự tôn kính cao vời! Ngoài ra, chúng ta cũng hãy nhớ rằng Danh thánh Giêsu trong tiếng Aramaic là “Yeshua”. Chúa Giêsu đã được gọi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình như thế (tên Joshua cũng bắt nguồn từ danh xưng này).
Tiếp tục loạt bài hằng tháng trình bày chủ đề Công giáo của mỗi tháng trong cuộc sống của bạn, dưới đây là 8 cách có thể thực hiện để tôn kính Danh thánh Chúa Giêsu trong tháng Một này.
- CHỐNG LẠI VIỆC KÊU DANH THÁNH CHÚA CÁCH VÔ Ý THỨC
Hãy chuyển kênh, tắt tivi hoặc bỏ ra khỏi rạp chiếu phim ngay khi bạn nghe thấy Danh Chúa bị gọi cách vô ý thức, điều mà vốn đã trở nên quá đỗi thường xuyên. Hãy khấn nguyện không bao giờ kêu Danh Thiên Chúa một cách vô ý vô tứ (nghe có vẻ như là một quyết tâm hoàn hảo cho Năm Mới!) và đền bù ngay lập tức nếu bạn vô tình làm hoặc bạn nghe thấy ai đó làm như vậy. Bạn phải đền bù như thế nào? Có thể đọc ngay lời cầu nguyện soạn sẵn đầy cảm hứng này (rất dễ nhớ): “Danh thánh Chúa thật đáng ca ngợi.” Lời cầu nguyện ca ngợi Danh thánh Chúa này – được ban cho nữ tu Marie Thánh Phêrô – cũng là lời cầu nguyện đền bù cho tội báng bổ.
- CÚI ĐẦU KHI NGHE DANH THÁNH CHÚA GIÊSU
Hãy áp dụng thực hành đạo đức (đã từng được phổ biến rộng rãi và phù hợp) là cúi đầu bất cứ khi nào bạn gọi hoặc nghe Danh thánh Chúa Giêsu (giống như chúng ta cúi đầu hoặc quỳ xuống trước Sự Hiện Diện Thực Sự của Chúa trong nhà tạm, hoặc làm dấu Thánh giá khi đi ngang qua một nhà thờ Công giáo). Kinh Thánh cho chúng ta biết: “Khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Phil 2,10). Công đồng Lyons năm 1274 tuyên bố: “Mỗi người nên thực hiện những gì đã được viết cho tất cả chúng ta, đó là khi nghe Danh thánh Chúa Giêsu, mọi người phải bái quỳ; bất cứ khi nào Danh thánh đó được xướng lên, đặc biệt là trong Thánh lễ, mọi người nên quỳ gối trong lòng mình, điều mà ta có thể làm được ngay cả khi chỉ cúi đầu bên ngoài.” Sự sùng kính này cũng dùng để đền bù cho việc xúc phạm Danh Thánh Chúa.
- TRANG TRÍ TRÊN TẤM BẢNG CỦA BẠN
Trang trí bằng màu trắng (nửa đầu tháng Một là mùa Giáng Sinh theo Phụng vụ, được thể hiện qua màu màu trắng tinh khiết của Phụng vụ) và màu xanh lá cây (nửa cuối tháng Một bắt đầu Mùa Thường Niên với màu Phụng vụ là xanh lá, tượng trưng cho hy vọng như một hạt giống đang nảy mầm) và chữ IHS, được trang trí và đóng khung. Bạn có thể tự làm bằng bút chì màu, hoặc bút đánh dấu màu vàng và bạc. IHS là chữ viết tắt của tên Chúa Giêsu (kết hợp từ các chữ cái đầu tiên của Danh Thánh). Thánh Bernardino, một vị thánh tôn sùng Danh Thánh Chúa Giêsu, luôn giơ cao những chữ viết tắt Tên của Chúa – những kí tự “IHS” (được bao quanh bởi những tia sáng – để tôn kính. Tại sao không thử làm điều này trong chính ngôi nhà của bạn?)
- CỬ HÀNH LỄ KÍNH DANH THÁNH CHÚA GIÊSU NGÀY 3 THÁNG 1 BẰNG CÁCH THAM DỰ THÁNH LỄ HOẶC CHẦU THÁNH THỂ
Khi bạn cầu nguyện, hãy cố gắng chú ý đặc biệt đến những lời này của Kinh Lạy Cha, “Danh Người cả sáng”, và mục đích của việc sống theo lời dạy đó: giúp giữ sự thánh thiêng của Danh Chúa.
- VIẾT THÁNH DANH CỦA NGÀI LÊN NHÀ CỦA BẠN – ĐÚNG THEO NGHĨA ĐEN
Vì Người Con của Mẹ Maria được Ba Vua tôn vinh và thờ kính, chúng ta cũng hãy tôn thờ Ngài như vậy. Đúng nghĩa đen, hãy viết Danh thánh Chúa Kitô trên ngôi nhà của bạn khi bạn cử hành Lễ Hiển Linh! Đối với Lễ Hiển Linh, thật tuyệt vời khi chúc lành cho ngôi nhà của bạn với chữ “CMB” được viết bằng phấn trên cửa trước của bạn, không chỉ là viết tắt của Caspar, Melchior và Balthasar – tên truyền thống của Ba Vua, mà còn tên viết tắt của “Christus mansionem benedicat” (Xin Chúa Kitô chúc lành cho nhà này). Và khi việc chúc lành cho ngôi nhà được hoàn tất, tại sao không thưởng thức một ít Bánh Kem Lễ Hiển Linh, còn được gọi là Bánh Vua ở New Orleans (hoặc Galette des Rois trong tiếng Pháp), để mở ra mùa Mardi Gras dẫn đến Thứ Ba Béo, ngay trước khi bắt đầu Mùa Chay. Công thức làm bánh đã được đăng trực tuyến. Xin click vào đây.
- XIN SỰ CHUYỂN CẦU CỦA MẸ MARIA VÀ THÁNH GIUSE MỖI NGÀY
Danh thánh Chúa Giêsu, có nghĩa là Đấng Cứu Chuộc, đã được tỏ lộ cho Thánh Giuse trong giấc mộng và cho Đức Mẹ lúc Truyền Tin. Hãy cầu nguyện với Thánh Giuse và Mẹ Maria để gia tăng tình yêu của bạn với Con của các Ngài, cùng với sự tôn kính của bạn đối với Danh Thánh của Ngài.
- THÊM MỘT LỜI CẦU NGUYỆN ĐẶC BIỆT TRONG THÁNG NÀY
Hãy cầu nguyện hoặc bắt đầu Tuần cửu nhật kính Thánh Bernardine thành Siena, vị thánh có lòng sùng kính đặc biệt đối với Danh Thánh Chúa Giêsu. Hoặc đọc một trong những lời cầu nguyện kính Danh Thánh Chúa Giêsu ở đây. Hoặc đọc kinh Mũi Tên Vàng để đền bù cho những lời báng bổ Thánh Danh cực trọng của Người.
- HÁT LÊN MỘT BÀI CA NGỢI
Hãy lắng nghe (hoặc hát theo) bài thánh ca Công giáo “Khi nghe Tên Thánh Chúa Giêsu” hay “Danh Thánh Đẹp Biết Bao”. Cả hai đều là những bài ca tuyệt vời để ca ngợi và tôn vinh Danh Thánh.
Theo Fr Lawrence Lew, O.P (Aleteia) / Lệ Thúy chuyển ngữ
2020
Tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không?
Tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không?
Trả lời:
1- Trong Kinh Tin Kính Nicene ( đọc ngày Chúa nhật và các ngày Lễ trọng) và Kinh Tin Kính của các Thánh Tông Đồ, Giáo Hội đều tuyên xưng Chúa Giê-su Kitô, “ chết, sống lại, lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha”.
Lời tuyên xưng này bắt nguồn từ chính lời Chúa Giê su trả lời cho viên thượng tế Cai pha và trước toàn thể thượng Hội Đồng thương tế , kỳ mục và kinh sư Do Thái họp nhau lại để tìm cách buộc tội Chúa với án tử hình. Viên thượng tế đã hỏi Chúa xem có phải Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không.
Chúa đã trả lời như sau: “ Phải chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.”( Mt 26: 64; Mc 14: 62; Lc 22: 69)
Như thế lời tuyên xưng của Giáo Hội về chỗ ngồi của Chúa Kitô, bên hữu Chúa Cha trên Nước Trời có nguồn gốc vững chắc là chính lời Chúa Giê su đã nói và được ghi lại trong các Tin Mừng, như bằng chứng trên đây.
2– Tín điều Đức Mẹ là Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không?
Trước khi trả lời câu hỏi này, xin được nhắc lại một lần nữa là vào thế kỷ thứ 4 sau Chúa Giáng Sinh, có một linh mục tên là Arius thuộc Tòa Thượng Phụ Alexandria ( Ai Cập) đã lạc giáo ( heretic) khi cho rằng Chúa Giê-su Kitô có hai bản tính riêng rẽ là nhân tính( humanity) và thần tính ( Divinity) khi xuống trần gian làm Con Người. Vì thế Đức Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu về phần nhân tính mà thôi. Quan điểm lạc giáo này đã bị Công Đồng Nicaea năm 325 A.D lên án và bác bỏ hoàn toàn vì đi ngược với niềm tin của Giáo Hội về sự đồng nhất bản thể của Ba Ngôi Thiên Chúa ( Trinity) và về hai bản tính không tách rời nhau của Chúa Cứu Thế Giêsu.Nghĩa là, Chúa Giê-su Kitô là Thiên Chúa thật và là Con Người thật, Chúa vừa có Thần tính ( Divinity) như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, vừa có nhân tính ( humanity) như mọi con người , và hai bản tính này không hề tách rời nhau. Arius đã lạc giáo khi cho rằng Chúa Kitô có hai bản tính tách rời nhau, nên Mẹ Maria chỉ là Mẹ Chúa Giêsu trong phần nhân tính mà thôi. chứ không thể là Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos) như các Giáo Phụ dạy và Giáo Hội sơ khai đã tin .Quan điểm sai lầm trên đến đầu thế kỷ thứ 5, (428 A.D) lại được tán đồng bởi Thượng Phụ Nestorius thành Constantinople, là người cũng cho rằng Đức Mẹ chỉ là Mẹ phần xác ( nhân tính) của Chúa Giê su-Kitô để phủ nhận điều các Giáo Phụ từ thời tiên khởi đã dạy rằng : Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa ( Deipara= Theotokos= God bearer =Đấng cưu mang Thiên Chúa.
Các Công Đồng Nicaea ( 325) và Ê-phê sô ( 431) đều lên án tư tưởng lạc giáo của Arius và Nestorius để khẳng định rằng Chúa Giê-su đồng bản tính ( bản thể= substance) với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lại nữa, Chúa Kitô có hai bản tính không hề tách rời nhau là nhân tính ( Humanity và Thiên tính ( Divinity). Do đó, Đức Mẹ là Mẹ thật của Chúa Kitô, cũng là Thiên Chúa thật, nên Mẹ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa=( Deipara=Theotokos= God bearer) như Giáo Hội đã dạy không sai lầm
Sau đây là bằng chứng Kinh Thánh :
Khi Đức Mẹ đến viếng thăm người chị em họ là bà Ê-i-sa-bét ( Elizabeth), thì bà này đã được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được diễm phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu của Chúa ( Mother of my Lord) đến với tôi thế này Lc 43: 39- 43)
Bà Eli-sa-bét chắc chắn đã được Chúa Thánh Thần soi sáng nên đã thốt ra những lời trên để ca tụng Đức Mẹ. Như thế đủ cho thấy Giáo Hội ,từ đầu, đã không sai lầm khi tuyên xưng Đức Trinh Nữ Mara là Mẹ Thiên Chúa, vì là Mẹ thật của Chúa Giê su-Kitô, cũng là Thiên Chúa thật, đồng bản tính ( bản thể= Substance) với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa ( Holy Trinity).
Nhưng cho dầu với địa vị cao trọng làm vậy, Đức Mẹ cũng không cao hơn Thiên Chúa mà chỉ được tôn kính( veneration) ở mức Hyperdulia trong khi Thiên Chúa được tôn thờ ( adoration) ở mức Latria trong phụng vụ thánh của Giáo Hội.Nghĩa là chúng ta chỉ phải thờ lậy ( adore), ngượi khen, vinh danh một mình Thiên Chúa mà thôi, chứ không thờ lậy Đức Mẹ, mà chỉ tôn kính ( venerate) Mẹ cách đặc biệt ( hyperdulia) hơn các Thánh nam nữ khác, được tôn kính ở mức Dulia.
Do đó, trong thực hành, người tín hữu phải cầu xin Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhờ Đức Mẹ và các Thánh chuyển giúp cầu thay, chứ không cầu xin Mẹ hay bất cứ Thánh Nam nữ nào như nguồn ban phát mọi ơn phúc.Chỉ có Chúa là cội nguồn của mọi ơn phúc mà chúng ta phải cầu xin cho được an vui trong cuộc sống trên trần gian này , và nhất là biết sống xứng đáng là con cái của Cha trên trời để được cứu rỗi nhờ công nghiệp Chúa Kitô và sự phù giúp đắc lực của Đức Mẹ và các Thánh Nam nữ đang vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng.
Lại nữa, khi vào nhà thờ hay nhà nguyện nào, thì phải bái lậy trong tâm tình thờ lậy Chúa trong nhà tạm ( Tabernacle) trước khi bái kính ảnh tượng Đức Mẹ , Thánh Cà Giuse, hay Thánh nam nữ nào khác.Phải nói điều này vì có một số người, khi vào nhà thờ, đã chạy ngay đến nơi có thánh thượng Đức Mẹ để cầu xin mà quên bái quỳ thờ lậy Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trong nhà tạm.
Tóm lại, sùng kính Đức Mẹ là việc đạo đức rất tốt đẹp và đáng khuyến khích cho mọi tín hữu, nhưng đừng quên là trên hết phải thờ lậy Chúa là Đấng mà Mẹ Maria cũng phải tôn thờ cùng các Thánh nam nữ và các Thiên Thần, mặc dù Mẹ có địa vị cao trọng là Mẹ Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa như Giáo Hội dạy.
3- Mẹ Maria có nhận công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không ?
Theo giáo lý của Giáo Hội, chúng ta phải tin Mẹ được diễm phúc thụ thai không mắc tội nguyên tổ ( immaculate Conception) và mọi tội khác như mọi người trong nhân loại, cũng như được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa, vì là Mẹ thật của Chúa Kitô, cũng là Thiên Chúa thật đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần như đã nói ở trên. Nhưng Mẹ không cao hơn Chúa và không cùng một bản thể ( substance) với Ba Ngôi Thiên Chúa, nên Mẹ vẫn phải nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô như chính Mẹ đã tuyên xưng như sau:
“ Linh hồn tôi ngượi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.…” ( My Savior)
( Bài ca Ngượi khen Magnificat, Lc 1: 46-55)
Vì là Mẹ Chúa Kitô, nên Mẹ được diễm phúc khỏi tội tổ tông và mọi tội cá nhân từ khi được thụ thai cho đến khi về trời cả hồn xác. Mẹ được sinh ra như mọi tạo vật khác, trừ đặc ân được giữ gìn khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi để xứng đáng làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể.
Nhưng việc nhận ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu ,Con của Mẹ, không làm thương tổn địa vị cao trọng của Mẹ là Mẹ Ngôi Hai và là Mẹ Thiên Chúa. Ngược lại, Mẹ đã vinh danh Chúa Cứu Thế Giêsu khi nhận ơn cứu chuộc của Chúa, vì “ ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh ấy mà được cứu độ.” ( Cv 4 :12)
Như thế khi nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô, Mẹ đã tôn vinh Chúa là Đấng cứu thế duy nhất đã hòa giải con người với Thiên Chúa qua vâng phục và hy sinh chịu chết trên thập giá năm xưa, mặc dù Mẹ không có tội lỗi nào cần phải được tha thứ nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa.
Chúng ta cảm tạ Mẹ Maria thật nhiều vì Mẹ đã “ xin vâng” với Thiên Chúa để làm Mẹ Chúa Cứu Thế Giêsu, và cộng tác với Con của Mẹ trong sứ mệnh cứu chuộc cho nhân loại khỏi phải chết vì tội. Vai trò của Mẹ thật quan trọng trong Chương Trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô, Con của Mẹ.
Vậy chúng ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ nguyện giúp cầu thay cho chúng ta được mọi ơn cần thiết của Chúa trong cuộc lữ hành về quê Trời giữa bao khốn khó , gian nan vì cản trở và đánh phá của ma quỷ , cám dỗ của thế gian với đầy rẫy gương xấu, dịp tội và vì bản chất yếu đuối nơi mỗi người chúng ta.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
2020
Bốn chân dung của Đức Maria
Bốn chân dung của Đức Maria
Có sự lo sợ và run rẩy khi ta mạo hiểm thêm lời của mình vào vô số những bản văn nói về Đức Maria. Vì thế, đây không phải là những tìm kiếm về thân thế của người phụ nữ ngoại thường này, mà đơn thuần chỉ để ta được dẫn dắt bởi những bản văn nói về Mẹ. Suốt bài viết, chúng ta khám phá nhiều khuôn mặt của Đức Maria mà không tìm cách làm chúng ăn khớp với nhau. Ta cứ để cho mỗi người tìm thấy sự hài hòa của riêng mình.
Một sự hiện diện ngấm ngầm
Chúng ta hãy lướt nhanh qua những đề cập cổ xưa nhất về Mẹ của Đức Giêsu. Thật vậy Thánh Phaolô, chỉ nói ít oi bằng câu “người sinh bởi một người nữ” (Gl 4, 4) mà từ nay đưa Con Thiên Chúa đi vào trong nhân loại. Chúng ta cũng đi nhanh về Đức Maria của Tin Mừng Marcô. Trong Tin Mừng thinh lặng về thời thơ ấu của Đức Giêsu này, Mẹ của Ngài hoàn toàn ở về phía nhân loại. Cùng với những phụ nữ khác trong gia đình, bà cũng thấy sốc và ngạc nhiên khi gặp thấy thái độ kỳ lạ và khó hiểu của con ông Giuse người Nadarét (xem Mc 3, 31-35; 6, 3).
Mẹ của Emmanuel
Như Luca, Matthêô dành hai chương đầu cho các trình thuật về thời thơ ấu. Ông nhìn việc thụ thai Đức Giêsu từ quan điểm của Thánh Giuse, nhưng đánh dấu tường thuật của mình bằng một sự cắt đứt quan trọng. Bảng gia phả kết thúc với câu “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, mà từ bà đã sinh ra Đức Giêsu, cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1, 16). Ta có thể nói thêm rằng, “chỉ” từ mình bà, vì Giuse không được bao hàm trong đó. Sau đó, Đức Maria là người mà Sứ thần của Thiên Chúa nói về bà với Thánh Giuse: bà là vị hôn thê trinh khiết được Thánh Thần thăm viếng và người mà ông phải đưa về nhà, là người mẹ sẽ sinh ra đấng Emmanuel (Mt 1, 20-23) và là người mà ông phải bảo vệ khi dẫn bà sang Ai Cập (Mt 2, 14). Phần còn lại Matthêô theo gần sát với Marcô.
Người đàn bà với Lời trong tâm hồn
Chúng ta nợ ngòi bút của Thánh Luca những trang tin mừng đẹp nhất về Đức Maria: Truyền tin, Thăm viếng, cuộc hạ sinh Đức Giêsu, Dâng Đức Giêsu vào Đền thờ, “cơn điên rồ” của Ngài vào năm 12 tuổi. Dù rằng nhân vật chính vẫn luôn là Đức Giêsu, song Đức Maria vẫn đóng vai trò hàng đầu.
Trước hết là cuộc Truyền tin (Lc 1, 26-38). Đức Maria, hoàn toàn là một thiếu nữ trẻ, một vị hôn thê, đã có cuộc gặp gỡ rất kỳ lạ. Một tiếng nói đến từ nơi đâu đó, vang đến tận nơi thẳm sâu nhất của mình, làm cô bị xáo trộn hoàn toàn. Gabrien, vị thiên sứ, đã chào cô, báo cho cô một chương trình bất ngờ, điên rồ, một ý định của Thiên Chúa. Mang thai một Người Con, Đấng sẽ được gọi là “Con của Đấng Tối Cao” (c. 32)? Sứ giả của Thiên Chúa nói thế! Thế nhưng “Việc ấy xảy ra như thế nào?” (c. 34). “Như thế nào” chứ không phải “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?” (Lc 1, 18), như Zacharia đã hỏi, ông cũng nhận được cuộc thăm viếng của sứ thần Gabrien. Ông muốn những bằng chứng trước khi tin rằng một người con trai có thể được ban cho ông vào lúc tuổi đã già. Nhưng Đức Maria thì không thế. Cô thấy câu trả lời của thiên thần rất bí nhiệm song vẫn tin toàn bộ ý định của Thiên Chúa khi nói rằng mình là tớ nữ của Ngài (c. 38). Làm sao từ chối công việc khôn tả của Chúa Thánh Thần trong cô?
Ngay sau đó Đức Maria lên đường. Cô viếng thăm bà chị già của mình, chào bà (Lc 1, 39-45). Đó là cuộc gặp gỡ giữa hai thân xác, hai người con, tất cả được Chúa Thánh Thần bao phủ. Êlisabét đã nghe tận bên trong tâm hồn lời chúc tụng mà đối tượng là người em họ của mình, sự dễ bảo của cô trước Lời. Bà nhận biết Thiên Chúa cư ngụ trong cung lòng Đức Maria, như thể Thiên Chúa hiện diện trong Hòm Bia ngày xưa.[1]
Khi ấy, tâm hồn Đức Maria hát lên, cô cất tiếng hát bài ca Magnificat (Lc 1, 46-55). Cô không nói gì về việc mình có thai. Cô hét lên vì vui! Thiên Chúa đã đoái nhìn đến cô, người tớ nữ hèn mọn của Ngài, đã ân cần bao bọc lấy cô. Tất cả những ký ức của Israël đổ về trong những lời ngợi khen khi cô nhắc lại những sự kiện cao trọng mà Thiên Chúa làm cho dân mình. Ơn cứu rỗi của Ngài dành cho mọi người song tùy biến theo những cách thức phù hợp với mọi người, người bị bỏ rơi sẽ được kể đến, người bên lề sẽ được ở chỗ nhất. Về phần người giàu có sẽ nhận ân huệ được ra trống không, được làm cho thích hợp để mở mình ra với một Đấng Khác (un Autre), trong sự tự do mới.[2]
Chương 1 của Luca kết thúc bằng bài ca Benedictus của ông Zacharia. Thật đáng dừng lại chậm rãi ở các câu cuối cùng (cc. 77-79). Dịch đúng với bản văn Hy Lạp sẽ như thế này: “Này con, đứa con nhỏ (nói về Gioan làm phép rửa) […] thật con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết ơn cứu rỗi dành cho dân mình qua sự tha thứ tội lỗi của họ, qua lòng dạ thương xót của Chúa chúng ta mà trong đó Vầng Đông từ trên cao sẽ viếng thăm chúng ta để soi sáng cho những ai ngồi trong âm u và bóng tối sự chết, để dẫn đưa chúng ta đến con đường bình an”. Rồi Đức Giêsu sinh ra (Lc 2,1-7).
Như thế, ơn cứu rỗi chuyển từ lòng dạ thương xót đến bụng dạ Đức Maria. Một thiếu nữ trẻ đơn sơ, qua ân sủng của sự sẵn sàng hoàn toàn đối với Thiên Chúa, cho phép ánh sáng cứu rỗi đi vào những uẩn khúc tối tăm nhất của tâm hồn nhân loại và những cảnh khốn cùng. Ơn gọi làm mẹ Đấng Cứu Thế chắc chắn là độc nhất, nhưng chẳng phải là tất cả chúng ta được mời gọi để biểu lộ trong đời sống chúng ta cũng một ơn cứu rỗi ấy, vì Thiên Chúa vui lòng biết bao khi được nói qua những khuôn mặt, bàn tay và từ ngữ nhân loại sao?
Sau khi các mục đồng thăm viếng, bản văn ghi chú lần đầu tiên – đây không phải là lần duy nhất – Đức Maria làm thế nào để “ghi nhớ tất cả những sự việc ấy trong lòng”, những lời những biến cố về người con của mình (Lc 2, 19). Mẹ đã gìn giữ Ngôi Lời ở trung tâm hữu thể của mình (mang thai), như người ta gìn giữ ở nơi bí mật những gì quý giá nhất trong kho tàng. Mẹ làm điều đó cách tự nguyện, không phản đối những gì xem ra tăm tối đối với mình, cũng không thờ ơ như những người khác, như Phêrô chẳng hạn, ông đã không chịu nhận lãnh lời loan báo về sự từ chối của mình (Lc 22, 31-33). Và rồi … bốn mươi ngày sau đó, ông Simêon, trong Đền thờ, đã khâu lại toàn bộ ánh sáng, ơn cứu rỗi, vinh quang và đau khổ. Maria đã đón nhận sự xâu xé sắp đến, lưỡi gươm đâm thâu Mẹ như những chiếc đinh đâm thâu vào thân xác con mình sau này (Lc 2, 22-35).
Mười hai năm trôi qua. Giữa Maria và Giuse có một người con, con của họ. Nhưng từ khi trở về từ cuộc hành hương lên Giêrusalem, họ không còn nhận ra đứa con ấy nữa! Bồi hồi, lo lắng, tìm kiếm, trách mắng. Đối với Đức Maria, phải đón nhận một Lời mới, những lời đầu tiên của Đức Giêsu trong tin mừng này. Ngài gọi Cha của mình. Vào thời điểm mà Đức Giêsu đến tuổi trưởng thành tôn giáo, Ngài đã neo cuộc đời mình trong tư thế này và chẳng bao giờ rời xa nữa, tư thế người Con của Chúa Cha. Đức Maria phải tuân theo, phải nhường con mình cho một Đấng Khác (un Autre). Mẹ không hiểu gì nhưng đã giữ những lời này trong tâm hồn mình (Lc 2, 41-52). Con đường này cũng được đề nghị cho chúng ta, khi chân trời trở nên u ám. Ta tìm thấy Đức Maria ở đây, ở đó, và giữa các môn đệ tụ họp lại sau ngày phục sinh (Cv 1, 14).[3] Con đường của mẹ là con đường của người đàn bà có Lời trong tâm hồn, được làm cho vững mạnh trong sự trung thành, qua những niềm vui và tăm tối, đau khổ và đôi khi chẳng hiểu gì cả.
Người Mẹ phổ quát
Với Tin Mừng Gioan, giọng điệu đã đổi khác, có một chút gây hoang mang. Chiều kích có tính tiểu sử đã biến mất để nhường chỗ cho sự thẳm sâu đi vào mầu nhiệm. Đức Maria không bao giờ được gọi bằng tên, dù rằng Mẹ chiếm một vị trí có tính chiến lược. Bản văn gọi Mẹ là “Mẹ Đức Giêsu”, trong khi Đức Giêsu gọi Mẹ là “Bà”. Có rất nhiều độc giả cảm thấy sốc, nhất là trong bản văn đầu tiên trong hai bản văn có Đức Maria xuất hiện, tiệc cưới ở Cana (Ga 2, 1-12), Đức Giêsu dường như đã hoàn toàn phủ nhận Mẹ mình.
Chúng ta đã nhắc đến vị trí chiến lược phải không? Điều này đòi hỏi phải giải thích và quay trở lại một chút để hiểu kiến trúc khác thường của Tin Mừng Gioan. Một chuyên viên Kinh Thánh về tin mừng này[4] đã chứng minh rằng những dấu hiệu trong tin mừng thứ tư này được sắp xếp theo một trật tự phong phú lạ thường. Sáu trong bảy dấu hiệu phân tán trong trình thuật Gioan tương ứng từng cặp với nhau như để đưa vào trung tâm một dấu hiệu quý giá nhất, dấu hiệu thứ tư, nói về bánh. Mẹ của Đức Giêsu được kết hợp với dấu hiệu đầu tiên và dấu hiệu thứ bảy. Rượu tiệc cưới Cana, thứ rượu ngon đã được đưa ra nếm “bây giờ”[5] (“anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” – Ga 2,10) là nói về máu được đổ ra trên thập giá (Ga 19, 34). Cấu trúc xếp đặt các dấu hiệu như thế này đã mạc khải về thánh thể; nó đặt bánh và rượu ở những nơi quan trọng. Và ai nói “thánh thể” cũng là nói về “mầu nhiệm phục sinh”.
Nơi Tin Mừng Gioan, thập giá có nghĩa là sự trở về của người Con với Cha mình (Ga 13, 1), sự lên ngôi trong vinh quang trên chiếc ngai thập giá, nhưng cũng là nơi thực hiện sự sinh hạ từ trên cao được loan báo cho Nicôđêmô (Ga 3, 3). Đức Maria hầu như được kết hợp với tất cả những điều này. Ở Cana, không nói gì với Đức Giêsu, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào “tất cả những gì ông ấy nói”, Mẹ đã mở ra dấu hiệu đầu tiên (Ga 2, 5).
Suốt Tin Mừng của mình, Gioan đã gieo những viên đá sỏi, như những viên sỏi của “Petit Poucet”,[6] dẫn đến ngôi nhà mình: sự sinh hạ từ trên cao, Thánh Thần và nước (Nicôđêmô, Ga 3, 3.5); nước hằng sống được hứa với người phụ nữ Samari (Ga 4, 14), không là ai khác ngoài Thánh Thần (Ga 7, 37-39); những đau đớn khi sinh nở gợi lên điều sắp xảy ra (Ga 16, 21). Tất cả những điều này dẫn đưa đến thập giá (Ga 19, 25-37). Dưới chân thập giá có một người đàn bà. Người Con của mình đã trối bà làm mẹ của người môn đệ yêu dấu và người môn đệ làm con bà. Trong người môn đệ làm con ấy, tất cả nhân loại nhận lãnh một người mẹ. Người đã sinh Ngôi Lời thành xác phàm (Ga 1, 14) từ nay trở đi là người mẹ phổ quát và trở nên hình ảnh của Giáo Hội. Một người mẹ, một người con được sinh ra, từ nước, từ máu, và Chúa Thánh Thần mà Đức Giêsu đã phó mình: đó chính là sự sinh ra bởi Thánh Thần và nước![7] Ngôi nhà – thập giá đã trở thành ngôi nhà – sinh hạ. Và những lời trong phần Tựa ngôn đã được hiện thực: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1, 12-13).
Trong biến cố thập giá, có một Người đàn ông bị Philatô phó nộp cho dân chúng (Ga 19, 5) và một Người đàn bà (Ga 19, 26), những nhân vật nhắc lại thảm họa vườn Êden và là những nhân vật làm biến đổi thảm họa ấy.[8] Người đàn ông và Người đàn bà của vết thương đầu tiên trở thành Người đàn ông và Người đàn bà mới; công cuộc Tạo dựng đã đi đến hoàn thành.
Đức Maria hẳn nhiên là một nhân vật có tính thần học rất cao nơi Tin Mừng Gioan. Nhưng cũng chắc chắn rằng không phải do tình cờ mà trình thuật của Gioan đưa những dấu vết của mẹ Đức Giêsu vào trong bức tranh vĩ đại này. Cộng đoàn Gioan, nơi mà truyền thống đã kết hợp cộng đoàn này với Đức Maria, đã gìn giữ kỷ niệm về một người đàn bà hoàn toàn kết hôn với sứ mệnh của con mình. Và vì thế bà ngay bây giờ bà là mẹ của tất cả chúng ta.
BỐ CỤC CẤU TRÚC 7 “DẤU HIỆU” TRONG TIN MỪNG THỨ TƯ
- Dấu hiệu 1: nước và rượu (Ga 2,1-12)
- Dấu hiệu 2: chữa lành người hấp hối (Ga 4,46-54)
- Dấu hiệu 3: chữa lành người tàn tật (Ga 5,1-18)
- Dấu hiệu 4: hóa bánh ra nhiều (Ga 6,1-15)
C’. Dấu hiệu 5: chữa lành người tàn tật (Ga 9,1-6)
B’. Dấu hiệu 6: phục sinh người chết (Ga 11,1-4)
A’. Dấu hiệu 7: giấm chua, nước và máu (Ga 19,17-37)
Nguồn: gpquinhon.org
[1] Trình thuật Thăm Viếng được đặt song song với đoạn này nói về vua Đavít chuyển Hòm bia Giao Ước về thành đô Giêrusalem mới (2 S 6, 1-15). Nhiều điểm tương đồng giữa hai bản văn này bộc lộ ý hướng của tác giả tin mừng.
[2] Bản văn Hy Lạp viết rằng “Ngài làm cho người giàu có nên trống rỗng” chứ không phải “làm cho tay người giàu trở nên trống rỗng” (người giàu có trở về tay không). Tuy nhiên, gần như tất cả các bản dịch đều thêm từ “tay”, điều này làm giảm thiểu đi tính tận căn của sự biến đổi được thực hiện. Để đọc rõ hơn về bản văn này, xem Jean Delorme, Au risque de la parole: lire les évangiles, Paris, Seuil, 1991, tr. 190-201.
[3] Sách Tông đồ công vụ cũng được tác giả Tin Mừng Luca viết và là phần tiếp theo của Tin Mừng này.
[4] Marc Girard, “La composition structurelle des sept “signes” dans le quatrième évangile”, Studies in Religion / Sciences Religieuses, 9 (1980), tr. 315-324; Marc Girard, Évangile selon Jean. Structure et symboles Jean 1-9, Vol. 1, Montréal, Médiaspaul, 2017, tr. 27-38.
[5] Động từ “nếm” được chia ở thì parfait, trong tiếng Hy Lạp, để chỉ một hành động được bắt đầu và hiệu quả của nó kéo dài trong thời gian.
[6] “Le Petit Poucet”, chú bé tí hon hay “Ngón tay cái nhỏ bé”, là câu chuyện cổ tích dân gian được Charles Perrault (1628-1703) kể lại. Một người tiều phu nghèo không còn gì để nuôi sống 7 người con. Một đêm kia, khi những đứa con đi ngủ, hai vợ chồng bàn với nhau đem bỏ chúng trong rừng. May thay, đứa con út thường được gọi “Petit Poucet” vì nó nhỏ thó như ngón tay út, đã nghe được cuộc bàn luận. Nó chuẩn bị một túi nhỏ đầy những viên sỏi trắng. Khi các anh em bị đưa vào rừng, nó bỏ những viên sỏi dọc theo đường đi để rồi sau đó các anh em có thể lần theo mà trở về nhà, trong sự vui mừng của mọi người, cả cha mẹ chúng nữa bởi vì ông lãnh chúa vùng ấy đã tha nợ cho tất cả những tiều phu trong vùng khi chúng còn ở trong rừng (chú thích của người dịch).
[7] Xem Pierre Létourneau, “Le double don de l’esprit et la christologie du quatrième évangile”, Science et esprit, 44/3 (octobre – décembre 1992), tr. 281-306.
[8] Marc Girard, “La structure heptapartite du quatrième évangile”, Sciences religieuses 5 (1976), tr. 353.
Tác giả: Anne-Marie Chapleau
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính