2021
Hoán cải có nghĩa là sống một cuộc đời được thay đổi
Hoán cải có nghĩa là sống một cuộc đời được thay đổi
Tôi muốn bắt đầu bằng cách hỏi một câu hỏi: bạn đã được cứu chưa? Khi trả lời câu hỏi đó, tôi giả định rằng có một số câu trả lời khác nhau. Có những người ngay lập tức trả lời, “Chưa”.
Bạn biết rằng bạn chưa được cứu, và điều đó không sao cả. Tôi rất vui vì bạn đủ thành thật để thừa nhận điều đó. Bạn chỉ cần biết rằng bạn có thể được cứu hôm nay. Cũng có những người ngay lập tức trả lời, “Rồi”. Tuy nhiên, không có bằng chứng về ơn cứu độ đang diễn ra trong cuộc sống của bạn. Ồ, bạn có thể là thành viên của một giáo xứ nào đó, có thể bạn đã được hướng dẫn trong một buổi cầu nguyện, và thậm chí bạn có thể đã chịu phép thánh tẩy rồi, nhưng bạn chưa thực sự cảm nghiệm được ơn cứu độ mà Chúa Giêsu ban tặng. Bạn cũng có thể được cứu độ hôm nay nếu bạn thành thật với bản thân và thừa nhận mình cần được cứu. Cuối cùng, có những người ngay lập tức trả lời, “Có” và họ đã thực sự nhận được ơn cứu độ.
Trong đoạn Tin Mừng Gioan 3: 1-15 chúng ta đang xem trong bài này, Nicôđêmô, một nhà lãnh đạo tôn giáo ưu tú, đến với Chúa Giêsu với một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều có. Làm thế nào tôi có thể chắc chắn rằng tôi là một thành phần của vương quốc Thiên Chúa và sẽ ở với Ngài đời đời trên thiên đàng? Chúa Giêsu trả lời điều đó bằng cách nói với chúng ta rằng để chắc chắn rằng chúng ta thực sự được cứu độ, chúng ta phải được ban cho sự sống mới dẫn đến sự biến đổi cuộc đời của chúng ta.
“Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái. Ông đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông nói với Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.” Chúa Giêsu trả lời: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” Ông Nicôđêmô thưa: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao? ” Chúa Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”
Bạn phải được sinh ra lần nữa (câu 1 dến câu 7).
Bây giờ Nicôđêmô đến gặp Chúa Giêsu, như tôi đã nói, với một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều muốn có câu trả lời. Nhưng khi bạn xem câu thứ hai, bạn có thể tự hỏi câu hỏi nào? Không có câu hỏi ở đó, phải không? Không phải với chúng ta, nhưng chắc chắn Chúa Giêsu đã trả lời một câu hỏi. Vậy câu hỏi nào được ngụ ý trong câu nói của Nicôđêmô? Làm thế nào tôi có thể trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa? Hay làm sao tôi có thể lên thiên đàng? Bạn thấy đấy, Nicôđêmô đã nhận ra Chúa Giêsu đến từ đâu và quyền năng của Ngài đến từ đâu. Vì vậy, ông biết rằng Chúa Giêsu sẽ biết câu trả lời cho câu hỏi đó.
Nhưng Chúa Giêsu đã đi bước trước và trả lời câu hỏi trước khi nó thực sự được hỏi. Chúa Giêsu nói, “Nếu bạn muốn trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa, bạn phải được sinh ra một lần nữa. Trên thực tế, không thể trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa nếu bạn không được sinh ra lần nữa ”. Tôi có thể thấy Nicôđêmô cười khúc khích một chút rồi nói, “Cái gì? Làm thế nào một người có thể được “sinh lại?” Chúng ta có phải bò trở lại bụng mẹ và trải qua quá trình sinh ra một lần nữa không? “ Thế thì, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích ý của Ngài khi Ngài nói “được sinh lại”. Ngài nói với Nicôđêmô rằng Ngài không nói về sự sinh nở thể lý ở đây. Trên thực tế, từ được dịch là “một lần nữa” cũng có nghĩa là “từ trên cao”. Vì vậy, Chúa Giêsu đang nói về một sự sinh ra thiêng liêng.
Chúa Giêsu nói nếu ai không được sinh ra bởi nước và Thần Khí thì người đó không thể vào vương quốc của Thiên Chúa. Điều này cho chúng ta thấy, khi sử dụng những lời dạy trong Cựu Ước làm tài liệu tham khảo, rằng chúng ta cần được thanh tẩy. Vì vậy, chúng ta không chỉ cần trở nên sống động về mặt tinh thần, mà chúng ta cũng cần được cải hóa hoàn toàn, thay đổi hoàn toàn. Và rồi, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng điều này không thể tự xảy ra. Ngài nói rằng mọi nỗ lực của chúng ta để cố gắng thay đổi theo cách này sẽ không thành công, bởi vì bất cứ nỗ lực nào chúng ta thực hiện bằng xương bằng thịt đều sẽ dẫn đến kết quả xác thịt. Để có được kết quả thiêng liêng mà chúng ta muốn, chúng ta phải có Thần Khí của Thiên Chúa hành động. Chỉ những gì được sinh ra bởi Thần Khí mới tạo ra sự thay đổi dẫn đến việc được sinh lại.
Chúng ta phải được ban cho cuộc sống thần linh. Và lưu ý rằng đây không phải là việc tùy chọn. Trong câu bảy, Chúa Giêsu nói bạn phải được sinh lại! Trong ngôn ngữ Hy Lạp, từ “phải” được sử dụng là một thuật ngữ rất mạnh nhấn mạnh sự cần thiết của những gì đang được nói đến. Vì vậy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng để trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa, ông ấy phải được sinh ra bởi Thần Khí nghĩa là được sinh ra một lần nữa.
Được sinh ra lần nữa đòi hỏi sự hoán cải (câu 8).
Bây giờ như chúng ta đã nói, việc được sinh ra lần nữa tạo ra những thay đổi trong cuộc sống của một con người. Nhưng ở đây trong câu tám, chúng ta thấy rõ điều đó. Câu này, thoạt nhìn, hơi khó hiểu vì có một cách chơi chữ nào đó đang diễn ra trong ngôn ngữ Hy Lạp mà khi dịch sang tiếng khác không thể diễn đạt đầy đủ. Nhưng điều Chúa Giêsu đang nói ở đây là giống như gió thổi theo hướng này, chiều nọ và không thể điều khiển được, vì vậy đó là việc của Thần Khí. Công việc của Thần Khí trong trái tim con người không thể kiểm soát cũng như không thể đoán trước được. Khi chúng ta chia sẻ Tin Mừng với ai đó vì sự vâng lời, chúng ta không biết liệu Thần Khí có hoạt động trong hoàn cảnh đó để gieo hạt giống, gieo trồng những gì đã được nghe để đưa người đó đến với mối tương quan với Chúa Giêsu Kitô hay chưa. Công việc của Thần Khí chúng ta không thể kiểm soát hoặc dự đoán được. Cũng thế, có thể bạn đã nghe Tin Mừng trước đây nhưng không được Thần Khí khuấy động. Tuy nhiên, hôm nay bạn đang được Thần Khí khuấy động!
Nhưng đây là điều quan trọng mà chúng ta cần nhận ra. Nếu Thần Khí đã thực hiện công việc của Ngài trong đời sống của một con người và người ấy thực sự được sinh lại, thì đó là bằng chứng không thể chối cãi và không thể nhầm lẫn được! Như Chúa Giêsu đã nói, bạn không thể dự đoán hoặc kiểm soát gió, nhưng bạn có thể nghe thấy âm thanh của gió. Nói cách khác, bạn có thể trải nghiệm tác động của gió. Tương tự như vậy, tác động của công việc của Thần Khí có thể được nhìn thấy trong cuộc sống được biến đổi của những người đã được tái sinh. Vì vậy, chúng ta có thể không dự đoán hoặc kiểm soát được thời gian và vị trí của Thần Khí hoạt động, nhưng chúng ta biết rằng khi Ngài tỏ hiện ra, mọi người sẽ biết. Vậy bạn có đòi hỏi được sinh lại không? Bạn có gọi mình là một Kitô hữu và mong đợi được nhìn thấy vương quốc của Thiên Chúa khi bạn chết không? Chúa Giêsu nói rằng nếu bạn được sinh lại, sẽ có bằng chứng không thể chối cãi và không thể nhầm lẫn được về sự biến đổi đời sống của bạn! Nếu không có thay đổi trong cuộc sống của bạn, thì không có gì xảy ra. Khi bạn thực sự được cứu độ, cuộc sống của bạn sẽ thay đổi!
Sự biến đổi này đến bởi Chúa Con, Thập giá và Đức tin (câu 9 đến câu 15)
Làm thế nào điều này có thể xảy ra? Đầu tiên, đó là do Chúa Giêsu. Không có Chúa Giêsu, sẽ không có ơn cứu độ. Chính Chúa Kitô đã đến từ Chúa Cha để tìm kiếm và cứu những gì đã mất. Bây giờ chúng ta hãy nghĩ về điều đó, sẽ không hợp lý nếu một người đến từ thiên đàng lại không biết cách làm thế nào để đến được thiên đàng? Chúa Giêsu đang phán rằng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14: 6).
Thứ hai, đó là do thập giá. Ờ đây Chúa Giêsu mong đợi thập giá. Nếu chúng ta nhìn lại khi dân Ítraen băn khoăn trong đồng vắng “Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Êđôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.” Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ítraen phải chết. Dân đến nói với ông Môsê : “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Ngài xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Dân số 21). Dân Ítraen đã có lúc họ phàn nàn về thức ăn mà Thiên Chúa cung cấp cho họ. Vì vậy, Thiên Chúa cho rắn độc đến. Điều này không tốt lành gì cho dân chúng vì chỉ một vết cắn cũng đủ giết chết họ. Vì vậy, thủ lĩnh của họ, Môsê, đã làm một con rắn bằng đồng và đặt nó trên một cây sào. Sau đó, ông truyền cho tất cả dân Ítraen rằng khi rắn cắn họ, nếu họ nhìn vào con rắn đồng, họ sẽ sống! Cũng vậy, Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tìm và cứu, sẽ phải được cất lên để mọi người nhìn thấy trên thập giá. Chính khi Ngài ở trên thập giá đó, Ngài đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta trên chính Ngài và trả lại hình phạt cho thập giá. Chính khi Ngài ở trên thập giá, Ngài đã nói với những người có mặt ở đó và cho mọi người đến muôn đời, “Hãy nhìn lên, thì được sống”.
Thứ ba, đó là do đức tin của chúng ta. Chúa Giêsu đã đến, vâng. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã chết trên thập giá vì tội lỗi của chúng ta. Nhưng để cho điều đó được áp dụng vàolợi ích của chúng ta, chúng ta phải tin hoặc có đức tin nơi Ngài và những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Mặc dù chính nơi công trình của Chúa Kitô mà chúng ta tin tưởng và mặc dù chính nhờ tác động của Thần Khí khiến chúng ta được sinh lại, chúng ta vẫn phải tin và có đức tin. Sự cứu rỗi hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa và là công trình của Ngài, nhưng chúng ta vẫn phải nhận được những gì Ngài đang ban cho qua quyền năng cho phép của Ngài. Nhưng ngay cả lúc đó, trọng tâm không phải là niềm tin của chúng ta mà là đối tượng của niềm tin: “… bất cứ ai tin vào Ngài… ”Trong tất cả những điều này, Chúa Giêsu chỉ ra rằng chúng ta không chỉ nhận được sự sống thiêng liêng khi chúng ta được sinh lại, mà còn nhận được sự sống thiêng liêng đó cho cả cõi đời đời. Chúng ta, nhờ được sinh ra bởi Thần Khí, được trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa tới muôn đời.
Kết luận:
Chúng ta có hai lời mời. Trước tiên, nếu bạn là một Kitô hữu, là một người đã được sinh ra bởi Thần Khí và đang sống một cuộc sống được biến đổi, tôi muốn khuyến khích bạn không chỉ ca ngợi Thiên Chúa về ơn cứu độ mà Ngài đã ban cho bạn mà hãy nói với người khác về ơn cứu độ đó. Chúng ta cần thường xuyên cầu nguyện cho những người chưa được cứu độ trong cuộc sống của chúng ta: những người trong gia đình chúng ta, bạn bè của chúng ta, đồng nghiệp của chúng ta, hàng xóm của chúng ta, bồi bàn / phục vụ bàn, nhân viên thu ngân của chúng ta. Chúng ta cần cầu xin Thiên Chúa khơi dậy niềm say mê chia sẻ Tin Mừng trong chúng ta và xin Ngài làm tan nát cõi lòng chúng ta vì những người chưa được cứu độ chung quanh chúng ta. Nếu chúng ta thực sự tin rằng tất cả những người đang sống ngoài Chúa Kitô đều không có hy vọng, không có Thiên Chúa, và đang hướng đến địa ngục đời đời, thì chúng ta nên làm tất cả những gì có thể để đảm bảo họ biết Tin Mừng rằng Chúa Giêsu là Đấng cứu độ!
Penn Jillette, một người vô thần kiên quyết, là một nhà ảo thuật xuất sắc. Ông rất thẳng thắn chống lại Kitô giáo. Tuy nhiên, ông có một câu chuyện rất cảm động về cuộc gặp gỡ với một tín hữu rất chân thành với ông và chia sẻ Tin Mừng với ông. Đây là những gì ông nói trước sự chứng kiến của tín hữu này: “Nếu bạn tin rằng có thiên đàng và hỏa ngục và mọi người có thể xuống hỏa ngục — nghĩa là không nhận được sự sống vĩnh cửu hay bất cứ điều gì khác — nhưng bạn lại nghĩ rằng, ái chà, nói với họ điều này thực không đáng bởi vì chuyện đó sẽ làm cho họ ngại ngùng khó xử… Phải chăng bạn ghét ai đó nhiều lắm đến mức không giúp họ theo niềm tin của bạn? Bạn phải ghét ai đó đến mức nào thì mới có chuyện tin rằng có cuộc sống vĩnh cửu nhưng lại không nói với họ về điều đó?
Có thể bạn đã không được sinh ra lần nữa. Thậm chí có thể bạn đã đưa ra quyết định trong quá khứ rồi, nhưng vì không có gì thay đổi và bây giờ bạn nhận ra rằng bạn thực sự không được sinh lại. Tôi có một tin tuyệt vời cho bạn. Nếu bạn tiếp tục đọc Gioan 3, bạn sẽ đọc đến một trong những câu nổi tiếng nhất trong Kinh Thánh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3:16). Bạn biết câu đó nói với chúng ta điều gì không? Trước hết, câu đó cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu bạn. Nhưng bạn, cũng như tất cả chúng ta còn lại đều có một vấn đề: đó là tội lỗi. Vì thế, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu chết trên thập giá vì tội lỗi của bạn. Cuối cùng, bạn phải tin vào Ngài và tiếp nhận Ngài qua sự ăn năn và đức tin. Sám hối có nghĩa là bạn nhận ra tội lỗi của mình, thú nhận với Thiên Chúa để xin Thiên Chúa tha thứ, sau đó bạn quay lưng lại với tội lỗi đó. Đức tin có nghĩa là bạn tin cậy vào công việc mà Chúa Kitô đã làm trên thập giá để bảo đảm ơn cứu độ của bạn. Nhưng hãy nhớ, điều này không đương nhiên có hiệu quả cho bạn, bạn phải đón nhận Ngài “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Ngài, thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Gioan 1:12).
Phêrô Phạm Văn Trung, từ https://richardscollins.com
2021
Năm Thánh Giuse đã mở
2021
Thánh Giuse người cha lao động
Thánh Giuse người cha lao động
Thánh Giuse là người lao động là điểm thứ sáu được Đức Thánh Cha đề cao. Khía cạnh này đã được Đức Lêô XIII nhấn mạnh khi ban hành Thông điệp xã hội đầu tiên, Rerum Novarum, nói về mối quan hệ của Thánh Giuse với công việc.
Thánh Giuse là một người thợ mộc làm việc lương thiện để nuối sống gia đình. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình. Giuse nhắc nhở chúng ta rằng : chính Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc.
Quả thật, ngày nay kinh tế khó khăn, người cha đứng mũi chịu sào nơi đầu ngọn gió phải làm việc cực nhọc, kiếm từng miếng cơm manh áo cho gia đình, họ chỉ muốn gia đình được ấm no, hạnh phúc. Bởi họ là trụ cột, là điểm tựa của mọi người trong gia đình khi gặp khó khăn.
Khi nói Thánh Giuse là người thuộc tầng lớp lao động, Ngài đã gánh vác nặng nề sự thiếu thốn của bản thân và Thánh Gia Thất là vì Đức Thánh Cha thấy xã hội hôm nay vẫn còn nhiều người cha không chịu lao động, không làm hết trách nhiệm, không phát huy được vai trò quan trọng của mình. Một số người say xỉn về đánh đập vợ con khiến gia đình bất hòa, làm cho con cái tổn thương về mặt tình cảm. Một số thì không quan tâm tới gia đình, làm ảnh hưởng đến tình cảm của mọi người, nhất là trẻ em. Những người cha như thế sẽ làm gương xấu cho thế hệ mai sau, không giáo dục được con cái, khiến chúng học theo những điều xấu, trở thành người không có ích cho xã hội.
Đức Thánh Cha khuyến khích mọi người “khám phá lại giá trị, tầm quan trọng và sự cần thiết của lao động” (x. Patris Corde, số 6), khi lao động, con người tham gia vào chính công trình cứu độ của Thiên Chúa, và phẩm giá con người được đề cao. Lao động là cơ hội cho các gia đình; không có việc làm các gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm chí là sự cám dỗ tuyệt vọng và phân tán. Với hình ảnh người người thợ mộc, Thánh Giuse như một khuôn mẫu vào thời điểm mà thế giới cũng như Giáo hội đang vật lộn với những thách thức do thời hiện đại đặt ra. Thánh Giuse hiện lên như một nhân chứng cho Giáo hội và thế giới hiện đại.
Con người lao động của Thánh Giuse ảnh hưởng mạnh lên con mình. Trước sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, người làng Nagiarét hỏi nhau: “Ông ấy không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55). Chúa Giêsu đã bước vào lịch sử của chúng ta, sinh ra từ Ðức Maria bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng sự hiện diện của thánh Giuse, người cha hợp pháp, giữ gìn Chúa và dậy cho Chúa lao động. Trong xưởng thợ Nagiarét, Chúa Giêsu đã chia sẻ với cha mình sự dấn thân, sự mệt nhọc, hài lòng và cả các khó khăn thường ngày nữa.
Thánh Giuse dạy Chúa Giêsu lao động như Công đồng Vatican II đã nêu trong Gaudium et Spes: “Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, hành động theo một ý chí con người, yêu mến bằng quả tim con người. Sinh làm con Đức Trinh nữ Maria, Người đã thật sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta về mọi phương diện, ngoại trừ tội lỗi” (Gaudium et Spes – Vui mừng và Hy vọng, 22,2).
Ðiều này nhắc nhở cho chúng ta biết phẩm giá và sự quan trọng của lao động. Sách Sáng Thế kể rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên người nam và người nữ, giao phó cho họ nhiệm vụ sinh sôi nẩy nở tràn đầy trái đất, khắc phục nó và trông nom nó với công việc của mình (x. St 1,28); 2,15).
Quả thật, lao động là một phần của chương trình tình yêu của Thiên Chúa; chúng ta được mời gọi vun trồng và giữ gìn tất cả các thiện ích của thụ tạo, và như thế tham dự vào công trình tạo dựng! Lao động là yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Lao động làm cho chúng ta giống Thiên Chúa, là Ðấng đã làm việc và đang làm việc, là Ðấng luôn hành động (x. Ga 5,17). Lao động trao ban cho chúng ta khả năng nuôi sống chính mình, gia đình mình, góp phần vào việc phát triển quốc gia mình.
Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse, con người lao động trợ giúp chúng ta.
Còn tiếp ….
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
2021
Thánh Gia và Thánh Giuse
Thánh Gia và Thánh Giuse
Chúng ta có đang nhìn đến người đứng đầu Thánh gia không?
Chúng ta biết và trân trọng bao nhiêu về người đàn ông từng là bạn trăm năm của Mẹ Đấng Cứu Chuộc và là cha của Con Mẹ? Chúng ta tôn vinh người đàn ông ấy đến mức nào?
Đối với nhiều người trong chúng ta, điều này có thể gây lúng túng. Thánh Giuse thường bị lãng quên. Và Kinh thánh ít nói về Ngài. Chúng ta dành cho Ngài sự chú ý ít ỏi. Chúng ta ít khi đề cao lòng sùng kính Ngài.
Thánh Giuse thường là thành viên bị lãng quên trong Thánh Gia. Bạn có nhớ hồi còn nhỏ khi chúng ta viết “GMG” ở đầu các bài làm của chúng ta ở các lớp giáo lý không? Điều đó là để nhắc nhở chúng ta phải hướng về Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse khi thực hiện công việc của chúng ta. Chúng ta hình dung các thành viên của Gia đình Thánh luôn ở cạnh bên nhau.
Hãy nhớ rằng Mẹ Maria và Thánh Giuse là một đôi vợ chồng. Trong khi tôn vinh sự trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria, chúng ta không thể bỏ qua đặc ân và hạnh phúc của Thánh Giuse được làm bạn trăm năm của Mẹ Maria. Trong những thế kỷ trước, nhiều tác phẩm nghệ thuật mô tả Thánh Giuse như một ông già. Nhiều khả năng điều này được thực hiện là để không cho phép bất kỳ mối đe dọa nào đối với sự trinh khiết của Mẹ Maria. Nhưng điều này có xu hướng đánh giá thấp mối quan hệ yêu thương của Mẹ Mariavà Thánh Giuse trong tư cách vợ chồng. Bất chấp khuynh hướng thời đại của mình, Thánh nữ Têrêxa Avila khẳng định rằng Thánh Giuse là một thanh niên. Ngày nay, chúng ta thấy có một cách tiếp cận tích cực hơn trong kinh tiền tụng lễ Thánh Giuse: “Thánh Giuse là người công chính, Chúa đã cho kết bạn với Ðức Trinh Nữ, Mẹ Chúa Trời”.
Năm 1962, ngay cả trước cuộc canh tân phụng vụ của Vatican II, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thêm vào Giáo luật Rôma về Thánh lễ (nay là Kinh nguyện Thánh Thể I) tên Thánh Giuse ngay sau tên Đức Maria. Ngày nay, Giáo Hội đã liên kết tên Thánh Giuse với tên của bạn trăm năm của Ngài trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể.
Vì Thánh Giuse là bạn trăm năm của Mẹ Maria, nên Ngài cũng là cha của Chúa Giêsu. Chúng ta biết rằng Thánh Giuse không phải là cha ruột của Chúa Giêsu. Nhưng trong trình thuật Tin Mừng của mình về việc Chúa Giêsu bị lạc trong đền thờ, Thánh Luca nói rằng Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48). Kinh tiền tụng lễ Thánh Cả Giuse nói: “Chúa đã trao phó Thánh Gia cho người coi sóc, để người thay quyền Chúa, gìn giữ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, là Con Một Chúa đã nhập thể bởi quyền năng Chúa Thánh Thần”.
Nếu ai đó nghĩ rằng vai trò làm cha của Thánh Giuse không hoàn toàn có thật hoặc không xác thực vì Thánh Giuse không sinh ra Chúa Giêsu về mặt thể chất, hãy để người đó nói chuyện với những cha mẹ nuôi, nhất là những người vừa mang thai một đứa con lại vừa nhận nuôi những người khác. Họ sẽ cho bạn biết vai trò làm cha thực sự của Thánh Giuse.
Thánh Giuse đóng một vai trò rất quan trọng vì Chúa Giêsu “lớn lên về sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và loài người”. Theo truyền thống của người Do Thái, cho đến năm tuổi, trẻ em được chăm sóc và dạy dỗ đặc biệt bởi người mẹ. Nhưng ngoài độ tuổi đó, trẻ em được sự hướng dẫn đặc biệt của cha của chúng. Theo bổn phận và đặc ân, Thánh Giuse là rabbi – thầy dậy trong Thánh Gia để dạy cho Chúa Giêsu đức tin và tập tục của người Do Thái. Thánh Giuse dẫn dắt gia đình mình trong việc thờ phượng Thiên Chúa tại nhà ở Nadarét.
Trong bữa ăn, cả Mẹ Maria và Chúa Giêsu đều nhìn lên Thánh Giuse ở đầu bàn để cầu nguyện chúc lành. Mỗi năm, khi cử hành đại lễ Vượt Qua, cậu bé Giêsu đóng vai trò của mình và đặt câu hỏi nghi thức với Thánh Giuse: Thưa Cha, tại sao đêm này khác với mọi đêm khác? Sau đó, Chúa Giêsu cùng với Đức Maria nghe thánh Giuse thuật lại những biến cố vinh quang của cuộc Xuất hành và giải thích ý nghĩa của con chiên vượt qua. Và rồi, Chúa Giêsu sẽ nghe Gioan Tẩy Giả tuyên bố Ngài là Con của Thánh Giuse và Mẹ Maria, là Chiên Thiên Chúa, Đấng sẽ cất tội lỗi của thế gian.
Khi Chúa Giêsu trưởng thành, Thánh Giuse đã giới thiệu Chúa Giêsu đến hội đường để tham gia việc thờ phượng. Chúa Giêsu trung thành với các nghi lễ trong hội đường trong suốt cuộc đời của Ngài. Thánh Giuse cũng dạy Chúa Giêsu các kỹ năng làm việc của một người thợ mộc. Qua việc thực hành làm ăn này, Chúa Giêsu đã nuôi sống bản thân và mẹ của Ngài sau khi Thánh Giuse qua đời.
Kinh nghiệm làm cha của Chúa Giêsu được rút ra từ mối quan hệ của Ngài với Thánh Giuse. Khi Chúa Giêsu nói: “Trong các ngươi có ai làm cha, khi con mình xin bánh mà cho đá chăng? Hay là xin cá, mà cho rắn thay vì cá chăng?” (Luca 11: 11) chắc chắn khi đó Chúa Giêsu đã nghĩ đến Thánh Giuse tốt bụng và hiền lành như thế nào khi Ngài lớn lên.
Khi Chúa Giêsu kể dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Thánh Giuse có thể là hình mẫu của người cha nhân từ đó. Khi Chúa Giêsu mô tả cách người cha ôm và hôn đứa con trai lạc mất, có lẽ Ngài đang nhớ lại cách Thánh Giuse đã ôm và hôn cậu bé Giêsu sau khi cậu bị lạc trong đền thờ ba ngày.
Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta cách cầu nguyện, Ngài đã bắt đầu với cùng một danh xưng thân thương mà Ngài đã xưng hô với Thánh Giuse suốt cuộc đời, “Abba”. Tình cảm sâu sắc của Ngài dành cho Thánh Giuse được thể hiện rõ trong nhiều trường hợp của Tin Mừng. Thánh Giuse đã gây ấn tượng sâu sắc trên Chúa Giêsu.
Nhưng chúng ta có nghĩ đến Thánh Giuse vào Ngày của những người Cha không? Số lượng những bài thánh ca tôn vinh Ngài không nhiều và thoảng khi được người ta hát.
Trong truyền thống Công giáo, một số tước hiệu đáng khen ngợi đã được trao cho Thánh Giuse. Ngài là người bảo trợ của những người lao động, người bảo trợ của các gia đình, người bảo trợ của những người hấp hối, và người bảo trợ của Giáo hội Hoàn vũ. Đây mới chỉ là những tước hiệu quan trọng hơn trong danh sách, còn nhiều tước hiệu khác.
Tuy nhiên, chỉ có hai ngày được dành riêng cho Ngài trong lịch phụng vụ: lễ trọng vào ngày 19 tháng Ba (luôn xảy ra trong Mùa Chay và không bao giờ được cử hành vào Chúa Nhật) và lễ nhớ thánh Giuse Thợ vào ngày 1 tháng Năm. Là một phần của lễ Thánh Gia vào ngày Chủ nhật sau lễ Giáng sinh, Thánh Giuse phần lớn bị lu mờ trước Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Nhiều người nghĩ rằng sẽ là thích hợp khi tôn vinh Thánh Giuse, đặc biệt vào Ngày của những người Cha. Chắc chắn Ngài xứng đáng như vậy.
Tu huynh John M. Samaha, SM
Phêrô Phạm Văn Trung