2021
Ca viên ca đoàn, bạn là ai?
Ca viên ca đoàn, bạn là ai?
CA VIÊN CA ĐOÀN, BẠN LÀ AI?
Aug. Trần Cao Khải
DẪN NHẬP
2.- CA VIÊN THAM GIA CA ĐOÀN ĐỂ LÀM GÌ? 2.2. Để nên thánh và nêu gương sống đạo |
DẪN NHẬP
Thỉnh thoảng trên báo chí Công giáo hay các trang mạng xã hội, ta thấy xuất hiện những tin tức hay bài viết liên quan thánh nhạc, ca đoàn và ca viên…Đây có lẽ là một vấn đề luôn được nhiều người tín hữu chúng ta quan tâm và nhất là được các đấng bản quyền trong Hội thánh lưu tâm hướng dẫn và động viên nhằm giúp mỗi ca đoàn, mỗi ca viên cố gắng thực hiện đúng đắn vai trò và nhiệm vụ thánh của mình.
Được biết, hôm 28-9-2019, tại đại thính đường Phao-lô VI Roma, ĐTC Phan-xi-cô đã gặp gỡ 3000 thành viên của Hiệp hội thánh Xêxilia của Ý, bao gồm thành viên của các ca đoàn đến từ khắp nước Ý. Hiệp hội này được thành lập cách đây 140 năm và được các ĐGH yêu mến và đánh giá cao. Tại cuộc gặp gỡ này, ĐTC đã khuyến khích các thành viên Hiệp hội các ca đoàn của Ý dùng tiếng hát của mình giúp cho giáo dân tham gia phụng vụ cách ý thức và sống động, và tạo nên những nhịp cầu nối kết, hòa hợp con người với những khác biệt.
Đặc biệt trong bài nói chuyện này, ĐTC Phan-xi-cô cũng không quên nhắc lại những đặc tính căn bản của thánh nhạc được thánh Giáo hoàng Phao-lô VI đề ra, đó là thánh thiện, bởi vì phụng vụ là thánh thiện; nghệ thuật cao quý, bởi vì chúng ta phải dâng cho Chúa những điều cao quý nhất; và tính cách hoàn vũ, để tất cả mọi người có thể hiểu và cử hành phụng vụ. Thánh nhạc phải có ý nghĩa của Giáo hội, đó là điều phân biệt thánh nhạc với các loại nhạc khác.[1]
Vậy nhân dịp này, chúng ta thử tìm hiểu vấn đề liên quan ca đoàn, ca viên và chia sẻ một vài suy nghĩ về mục đích và ý nghĩa của việc chúng ta tham gia ca đoàn. Câu hỏi đặt ra là: Ca đoàn là gì? và chúng ta tham gia ca đoàn để làm gì?
1.- CA ĐOÀN LÀ GÌ?
Linh mục An-rê Đỗ Xuân Quế OP, trong bài viết có tựa “Ca đoàn và chức năng liên hệ” đã định nghĩa về ca đoàn như sau:
“Thông thường, ca đoàn là một nhóm thanh niên thiếu nữ tuổi còn trẻ trong mỗi họ đạo. Họ họp nhau thành một đoàn để tập hát và ca hát trong họ đạo mỗi khi cử hành thánh lễ, sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Lý do gia nhập ca đoàn cũng đơn giản: vào cho vui, ở ngoài thấy lạc lõng, hơn nữa có dịp quen biết nhau, gây dựng tình thân và biết đâu tìm được bạn đời trong đó nữa. Những lý do này rất tự nhiên…
“Nhưng đi xa và lên cao hơn một chút thì phải nói ca đoàn cũng là một thứ ơn gọi. Vì vào ca đoàn cho đúng nghĩa cũng phải hy sinh khá nhiều: hy sinh thời giờ, hy sinh công sức, hy sinh ý thích riêng để góp phần vào việc tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu như mục đích thánh nhạc đã đề ra cho những ai muốn đi vào con đường này. Và như vậy ca đoàn không phải là một câu lạc bộ hay một hội ái hữu mà là một đoàn thể tông đồ muốn dùng lời ca tiếng hát để thánh hóa mình và thánh hóa những người khác.
“Hiểu như vậy thì vào ca đoàn mang một ý nghĩa cao đẹp và cũng chính vì ý nghĩa này mà ĐGH Phao-lô VI đã hết lời khen ngợi các ca đoàn như ngài nói: “Nhờ sức mạnh vô hình của nghệ thuật, các ca đoàn dễ bay lên vùng ánh sáng rạng ngời của chân lý, tìm gặp Thiên Chúa là Đấng thanh tẩy và thánh hóa. Như thế, họ có thể giúp cộng đoàn cử hành mầu nhiệm cứu độ trong những điều kiện thuận lợi khi chính họ thông phần mật thiết vào các ơn ích của mầu nhiệm đó.
“Nhằm mục đích này, những tài liệu tôi vừa trưng dẫn, nhằm cổ võ các ca đoàn, từ những ca đoàn trong các đại giáo đường, các nhà thờ chánh tòa, các đan viện nổi tiếng cho tới các ban hát trong các nhà nguyện, nhà thờ nhỏ say sưa tập luyện và chuyên cần trau dồi nghệ thuật. Huấn thị về Thánh Nhạc muốn rằng không một buổi cử hành phụng vụ nào mà không có hát, nên đã yêu cầu trong trường hợp không có ban hát nhỏ, thì phải có ít là hai hay ba người biết hát và được huấn luyện vừa đủ, để có thể giúp giáo dân tham dự thánh lễ và các nghi thức bằng những bài hát đơn sơ dễ hát, lại biết điều khiển và làm điểm tựa cho họ dựa vào để hát…”[2]
Chúng ta biết rằng, trên thực tế, giáo xứ nào cũng có ca đoàn. Giáo xứ nhỏ thì có một, hai ca đoàn. Còn nếu là giáo xứ trung bình thì cũng có vài ba ca đoàn, còn đối với các giáo xứ lớn hơn thì có nơi cả chục ca đoàn. Hầu hết các ca đoàn đều được tổ chức cách quy củ và bài bản. Họ có riêng nội quy tổ chức và sinh hoạt. Họ có ban điều hành để điều hành các công việc ca đoàn, trên hết là trưởng ban, rồi đến ca trưởng và các ủy viên. Các ca đoàn đều chọn một thánh bổn mạng. Có nơi ca đoàn là một thành viên trong Hội đồng Mục vụ Giáo xứ.
Có thể nói, ca đoàn là một đoàn thể không thể thiếu được trong giáo xứ và là cánh tay nối dài của cha xứ trong việc phục vụ thánh nhạc. Khác với các hội-đoàn-nhóm khác, ca đoàn có một vai trò rất đặc thù trong đời sống và sinh hoạt đạo đức của giáo xứ. Về điều này, linh mục An-rê Đỗ Xuân Quế OP, một chuyên viên kỳ cựu về thánh nhạc, đã phân tích như sau:
“Khi thành lập ca đoàn nên để tâm tìm cho được những người thiện chí hay đúng hơn nói cho người ta hiểu ý nghĩa và mục đích của ca đoàn, để khi đã vào thì mỗi ca viên đều hết lòng với ca đoàn và sẵn sàng góp công góp sức, thời giờ hầu làm cho ca đoàn thành một nơi vui tươi đáng sống và có giá trị chiếu giãi ra chung quanh, bằng sức sống và tinh thần phục vụ của mình cũng như giá trị nghệ thuật của việc ca hát.
“Như vậy có vấn đề tổ chức. Phải tổ chức ca đoàn cho thành một tập thể có kỷ cương đường hướng với người lãnh đạo vừa có khả năng vừa có uy tín và những ca viên có tinh thần đồng đội và tinh thần kỷ luật. Như thế kể ra khá đòi hỏi. Nhưng phải như vậy mới thành một ca đoàn có giá trị nội tại cho đáng với thời giờ và công sức bỏ ra. Ca đoàn đến mức độ này sẽ có sức thu hút và tỏa lan ảnh hưởng lành mạnh ra chung quanh. Nói ra thì có vẻ lý tưởng, nhưng lý tưởng thật. Vì thế ở trên mới nói vào ca đoàn là như đáp lại một thứ ơn kêu gọi.”[3]
Vậy nếu chúng ta khẳng định ca đoàn là một ơn gọi và tham gia ca đoàn là đáp lại một ơn gọi đặc biệt, thì chúng ta phải nói đến những nhiệm vụ mà ơn gọi đó đòi hỏi. Nhiều người trong chúng ta thường nghĩ đơn giản là vào ca đoàn là để hát lễ. Điều đó không sai, nhưng chưa đủ. Ca đoàn là một đoàn thể làm việc đạo đức, được tham gia phụng vụ thánh nhạc, giúp cộng đoàn tham dự phụng vụ cách ý thức và sống động, là một đoàn thể tông đồ truyền giáo bằng lời ca tiếng hát và đời sống đức tin gương mẫu của mình…
Với nhận thức cơ bản trên, chúng ta thử tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Ca viên tham gia ca đoàn để làm gì?”.
2.- CA VIÊN THAM GIA CA ĐOÀN ĐỂ LÀM GÌ?
Trong ngày hội Thánh nhạc được tổ chức tại Trung tâm Mục vụ TGP Saigon ngày 28 tháng 11 năm 2020, lần đầu tiên kể từ ngày nhận sứ vụ mới tại TGP Saigon, Ðức TGM Giuse Nguyễn Năng đã gặp gỡ gần 500 anh chị em đang phục vụ trong ca đoàn các giáo xứ, cộng đoàn, để trao đổi và nhắn nhủ một số vấn đề liên quan hoạt động thánh nhạc.
Dịp này, ngài đã nhấn mạnh mấy điểm:[4]
“Cử hành phụng vụ là sinh hoạt thánh thiêng nhất của Giáo hội. Trong phụng vụ, ngoài vị chủ tế thì ca đoàn cũng đóng một vai trò quan trọng giúp cho buổi cử hành phụng vụ được cuốn hút, sốt sắng hơn.
“Thánh nhạc là một yếu tố cấu thành nên phụng vụ. Vì thế thánh nhạc phải phục vụ cho phụng vụ chứ không phải là buổi trình diễn nghệ thuật. Mục tiêu của việc đàn và hát của ca đoàn là nâng tâm hồn tín hữu lên tới Chúa chứ không phải kéo người ta chú ý vào mình, do vậy nên tránh tình trạng quá tập trung phô diễn kỹ thuật điêu luyện mà quên mất Chúa…
“Ca viên muốn hát chạm tới tâm hồn người nghe, nhất định phải có tâm hồn đạo đức và tinh thần cầu nguyện, phải thật sự yêu mến Chúa, có lòng bác ái và rung cảm với lời ca mình đang hát. Chính ca viên phải có tâm hồn cầu nguyện, phải có đức tin, có lòng đạo đức, chứ không phải đến nhà thờ để trình diễn. Chúng ta có thể hát hay trên sân khấu ở ngoài, nhưng hát trong nhà thờ chưa chắc đã hay nếu chúng ta chưa có tâm tình cầu nguyện ở trong đó.
“Vai trò của ca đoàn là phúc âm hóa âm nhạc, không để cho nhạc thánh ca bị thế tục hóa, nên tuyệt đối không được đưa những bài nhạc đời vào trong phụng vụ. Kể cả nhạc cụ, ca đoàn nên sử dụng những nhạc cụ có tiếng phong cầm là phù hợp nhất. Lâu lâu ca đoàn có thể hát tiếng Latinh, nhưng phải dịch ra tiếng Việt và trình chiếu để cộng đoàn hiểu nghĩa…”
Chúng ta cũng biết rằng, “Theo huấn thị về âm nhạc trong phụng vụ, ngày 5-3-1967: Thánh nhạc là loại âm nhạc được sáng tác để thờ phượng Thiên Chúa, nên phải biểu lộ sự thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuật cao. Thánh ca hay thánh nhạc là loại hình âm nhạc dùng trong Thánh lễ, trong nhà thờ, trong các lễ nghi Công Giáo cũng như trong các sinh hoạt đạo đức của người Kitô hữu. Thánh nhạc trước hết phải đáp ứng những yêu cầu về tính chất, luật lệ và nghệ thuật của bộ môn âm nhạc nói chung. Ngoài ra, Thánh nhạc còn phải hội đủ ba điều kiện là: Thánh thiện, nghệ thuật và phổ quát.”[5]
Sau đây ta có thể tóm tắt ba nhiệm vụ chính của ca viên khi tham gia ca đoàn. Đó là để phục vụ, để nên thánh và sống đạo, và để làm việc tông đồ truyền giáo.
2.1. Để phục vụ
Nhiệm vụ đầu tiên khi chúng ta vào ca đoàn, đó là để chúng ta có cơ hội và môi trường phục vụ Hội thánh thông qua các sinh hoạt Phụng vụ giáo xứ. Phục vụ trước hết là xuất phát từ tinh thần tự nguyện và dấn thân. Không ai có quyền ép buộc chúng ta vào ca đoàn. Với tinh thần tự nguyện phục vụ, chúng ta không bao giờ đòi hỏi thù lao hay bổng lộc, trái lại hầu hết chúng ta phải hy sinh thời giờ, công sức để luyện tập thánh ca và để hát lễ. Đôi khi chúng ta còn phải tham gia đóng góp quỹ tương trợ bác ái của ca đoàn hay của giáo xứ nữa.
Với tinh thần phục vụ không điều kiện, chúng ta phải quan tâm tới mục đích chính yếu của thánh nhạc và thánh ca trong Phụng vụ. Đó là phục vụ Phụng vụ, chứ không phải nhằm trình diễn nghệ thuật, đó là hát thánh ca trong Phụng vụ nhằm đưa cộng đoàn đến với Chúa chứ không đến với mình, bởi nếu để người ta tán dương mình thì ca đoàn đó bị thất bại rồi.[6]
Trong giáo xứ có nhiều ca đoàn, dễ dàng xảy ra hiện tượng “con gà hơn nhau tiếng gáy”. Điều đó thể hiện tinh thần ganh đua thế tục hơn là thực thi việc đạo đức theo tinh thần của Chúa và Hội thánh. Xin nhắc lại lời của ĐTC Phan-xi-cô: “Nhiệm vụ của ca đoàn là hướng dẫn cộng đoàn, họ cần giúp Dân Chúa hát, với sự tham dự ý thức và sống động vào Phụng vụ.”
Vậy để các ca đoàn có thể giúp Dân Chúa tham dự Phụng vụ tích cực, ca đoàn phải có tinh thần đạo đức, tâm hồn cầu nguyện, phải giữ sự linh thánh trong các buổi cử hành phụng vụ, lắng nghe lời Chúa sốt sắng như cộng đoàn vậy. (…) Ca đoàn phải phục vụ với tinh thần siêu nhiên, đừng mong ghi công trước mặt người đời, đừng mong phải có thù lao xứng đáng, kẻo mất đi tính chất cao cả trong việc phục vụ. Ca đoàn là thành phần trong cộng đoàn hay giáo xứ, nên phải hiệp thông và liên kết với cộng đoàn hay giáo xứ nơi mình phục vụ. Ý thức “thuộc về” là điều hiển nhiên và quan trọng theo truyền thống của Giáo hội, làm cho Giáo hội mỗi ngày hiệp nhất hơn.[7]
2.2. Để nên thánh và nêu gương sống đạo
Nhiều người sau một thời gian tham gia ca đoàn đã cho biết là họ đã trưởng thành hơn trong đức tin và nhiệt tình hơn trong lòng mến. Điều đó cũng dễ hiểu, vì “Hát là cầu nguyện hai lần” (Thánh Au-gus-ti-nô) và hát trong Phụng vụ là một việc đạo đức chuyên biệt, nhờ đó khi hát thánh ca chẳng những chúng ta sốt sắng cầu nguyện mà còn giúp cộng đoàn dễ dàng nâng tâm hồn lên tới Chúa nữa.
Thực vậy, “khi cử hành phụng vụ nếu biết khéo léo vận dụng sức mạnh huyền diệu của âm nhạc thì hiệu quả thiêng liêng sẽ gia tăng. Với hình thức ca hát lời cầu nguyện của con người được diễn tả cách sâu sắc và thâm thuý hơn, tính phẩm trật hiệp nhất và sự trang trọng cũng sẽ dễ dàng đạt được nhờ tính nghệ thuật trong thánh ca, khi mỗi thành phần tham dự phụng vụ đều cùng chung một tâm tình thờ phượng Thiên Chúa.”[8]
Do vậy, nếu chúng ta tham gia ca đoàn vì một động cơ thiếu trong sáng, không lành mạnh, không đúng ý Chúa và Hội thánh, thì chúng ta sẽ không đạt được tâm tình đạo đức sốt sắng và sự thánh thiện cần thiết của một tông đồ giáo dân phục vụ Thánh nhạc. Nhiều người thích vô ca đoàn để có chỗ ngồi “ngon” gần cung thánh. Có người muốn vô ca đoàn chỉ để được mặc đồng phục đẹp đẽ và trang trọng. Có người xin làm ca viên vì thích hát, muốn hát và nhất là nếu có chút chất giọng thì họ muốn phô trương tiếng hát như ca sĩ ngoài xã hội vv.
Đến đây, chúng ta nhắc lại một số điều chính yếu mà Đức TGM Sài Gòn Giu-se Nguyễn Năng đã nhắn nhủ ca viên ca đoàn ngày 28-11-2020, như sau:[9]
Xét về tinh thần thì ca viên ca đoàn phải có :
– Tinh thần đạo đức: Vì là thành phần phục vụ Phụng vụ thánh nên ca viên phải là người có tâm hồn đạo đức, chuyên chăm lắng nghe Lời Chúa (tránh nói chuyện, ngủ gật trong lúc nghe giảng, trong lúc nghe huấn từ của Đức Giám mục…);
– Tinh thần siêu nhiên: Ca đoàn phải phục vụ với tinh thần siêu nhiên, nghĩa là phục vụ vì Chúa (không nên đòi thù lao, quyền lợi…);
– Tinh thần hiệp thông, hiệp nhất: Ca đoàn phải là người thuộc về cộng đoàn (belong to), nhằm xây dựng cộng đoàn và tránh những trục trặc không đáng có;
– Tinh thần đoàn kết: Cần có tinh thần đoàn kết giữa các ca đoàn trong cùng giáo xứ, giữa các đoàn thể trong giáo xứ.
Tóm lại là tất cả để sáng danh Chúa (không phải sáng danh mình!).
2.3. Để làm việc tông đồ truyền giáo
Trong những thánh lễ an táng, thánh lễ hôn phối hay dịp lễ đặc biệt nào đó, tại nhiều nơi ngoài sự tham dự của cộng đoàn tín hữu còn có sự hiện diện của một số bà con không phải là Ki-tô hữu. Có lẽ điều ấn tượng và thu hút sự chú ý của họ trước tiên đó là tiếng hát và sự trang nghiêm thánh thiện của ca đoàn. Khi nghe ca đoàn hát, có thể họ sẽ được chìm sâu vào tâm tình sốt mến của việc thờ phượng diễn ra trong Phụng vụ, qua tiếng hát thánh thiêng của thánh ca. Đây quả thực cũng là một cơ hội để truyền giáo.
Ngoài ra, tại nhiều giáo xứ, ca đoàn ngoài nhiệm vụ chính là phục vụ thánh nhạc, các ca viên cũng hăng hái và tích cực tham gia việc tông đồ truyền giáo và bác ái như các hội đoàn bác ái khác. Có những ca đoàn tình nguyện đóng góp quỹ tháng để sử dụng vào việc tương trợ trong nội bộ, trong phạm vi giáo xứ hoặc lan rộng ra những nơi cần giúp đỡ.
THAY LỜI KẾT
Chúng ta hãy nghe lời tâm sự của một người đã từng là ca viên ca đoàn ghi lại trong bài viết có tựa “Tham gia ca đoàn chỉ để hát?”, như sau:
“Là một người đã có cơ may được tham gia phục vụ trong ca đoàn một quãng thời gian tuy chưa lâu, nhưng cũng đủ giúp tôi có những niềm vui, những kỷ niệm, những kinh nghiệm và sự trưởng thành bản thân. Nói thế bởi vì đối với tôi, để có được như ngày hôm nay, một trong những tác động lớn tác động chính đến đời tôi là việc tham gia vào các ca đoàn.
“Trước khi tham gia vào ca đoàn, tôi cũng lười đi lễ hàng tuần, cũng chỉ đi lễ Chúa nhật và cũng chẳng quan tâm đến những cử hành Phụng vụ, nhưng từ khi tham gia ca đoàn, việc tham dự các Thánh lễ dường như trở thành lẽ đương nhiên và cũng từ thói quen dự lễ và phục vụ lễ đó mà tôi được gần Chúa hơn, mong muốn được gặp Chúa nhiều hơn, yêu Chúa hơn và cứ thế những điều ấy đã khơi dậy trong tôi những ước ao những khao khát sống xứng đáng là con Chúa.
“Và cũng qua việc tham gia vào ca đoàn, qua việc được tiếp xúc với nhiều người, tôi đã có được những niềm vui, niềm vui được gặp Chúa, niềm vui được gặp gỡ mọi người qua chính những bài thánh ca hay qua những giây phút trò chuyện trong khi tập hát. Ca đoàn giúp tôi tập những đức tính tốt, sự tự tin nhưng không tự ti, sự yêu thương chứ không phải ghen ghét, sự bác ái chứ không phải ích kỷ, giúp tôi có được những tài lẻ như hát tốt hơn, biết chơi đàn để những điều đó làm cho chính cuộc sống thường ngày của mình đỡ nhàm chán, buồn tẻ vv… và ngoài ra còn biết bao nhiêu điều nữa. Có thể nói ca đoàn như một trường học dành cho tôi.”[10]
Nguồn: giaophanlongxuyen.org
2021
Hoán cải có nghĩa là sống một cuộc đời được thay đổi
Hoán cải có nghĩa là sống một cuộc đời được thay đổi
Tôi muốn bắt đầu bằng cách hỏi một câu hỏi: bạn đã được cứu chưa? Khi trả lời câu hỏi đó, tôi giả định rằng có một số câu trả lời khác nhau. Có những người ngay lập tức trả lời, “Chưa”.
Bạn biết rằng bạn chưa được cứu, và điều đó không sao cả. Tôi rất vui vì bạn đủ thành thật để thừa nhận điều đó. Bạn chỉ cần biết rằng bạn có thể được cứu hôm nay. Cũng có những người ngay lập tức trả lời, “Rồi”. Tuy nhiên, không có bằng chứng về ơn cứu độ đang diễn ra trong cuộc sống của bạn. Ồ, bạn có thể là thành viên của một giáo xứ nào đó, có thể bạn đã được hướng dẫn trong một buổi cầu nguyện, và thậm chí bạn có thể đã chịu phép thánh tẩy rồi, nhưng bạn chưa thực sự cảm nghiệm được ơn cứu độ mà Chúa Giêsu ban tặng. Bạn cũng có thể được cứu độ hôm nay nếu bạn thành thật với bản thân và thừa nhận mình cần được cứu. Cuối cùng, có những người ngay lập tức trả lời, “Có” và họ đã thực sự nhận được ơn cứu độ.
Trong đoạn Tin Mừng Gioan 3: 1-15 chúng ta đang xem trong bài này, Nicôđêmô, một nhà lãnh đạo tôn giáo ưu tú, đến với Chúa Giêsu với một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều có. Làm thế nào tôi có thể chắc chắn rằng tôi là một thành phần của vương quốc Thiên Chúa và sẽ ở với Ngài đời đời trên thiên đàng? Chúa Giêsu trả lời điều đó bằng cách nói với chúng ta rằng để chắc chắn rằng chúng ta thực sự được cứu độ, chúng ta phải được ban cho sự sống mới dẫn đến sự biến đổi cuộc đời của chúng ta.
“Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái. Ông đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông nói với Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.” Chúa Giêsu trả lời: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” Ông Nicôđêmô thưa: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao? ” Chúa Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”
Bạn phải được sinh ra lần nữa (câu 1 dến câu 7).
Bây giờ Nicôđêmô đến gặp Chúa Giêsu, như tôi đã nói, với một câu hỏi mà tất cả chúng ta đều muốn có câu trả lời. Nhưng khi bạn xem câu thứ hai, bạn có thể tự hỏi câu hỏi nào? Không có câu hỏi ở đó, phải không? Không phải với chúng ta, nhưng chắc chắn Chúa Giêsu đã trả lời một câu hỏi. Vậy câu hỏi nào được ngụ ý trong câu nói của Nicôđêmô? Làm thế nào tôi có thể trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa? Hay làm sao tôi có thể lên thiên đàng? Bạn thấy đấy, Nicôđêmô đã nhận ra Chúa Giêsu đến từ đâu và quyền năng của Ngài đến từ đâu. Vì vậy, ông biết rằng Chúa Giêsu sẽ biết câu trả lời cho câu hỏi đó.
Nhưng Chúa Giêsu đã đi bước trước và trả lời câu hỏi trước khi nó thực sự được hỏi. Chúa Giêsu nói, “Nếu bạn muốn trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa, bạn phải được sinh ra một lần nữa. Trên thực tế, không thể trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa nếu bạn không được sinh ra lần nữa ”. Tôi có thể thấy Nicôđêmô cười khúc khích một chút rồi nói, “Cái gì? Làm thế nào một người có thể được “sinh lại?” Chúng ta có phải bò trở lại bụng mẹ và trải qua quá trình sinh ra một lần nữa không? “ Thế thì, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích ý của Ngài khi Ngài nói “được sinh lại”. Ngài nói với Nicôđêmô rằng Ngài không nói về sự sinh nở thể lý ở đây. Trên thực tế, từ được dịch là “một lần nữa” cũng có nghĩa là “từ trên cao”. Vì vậy, Chúa Giêsu đang nói về một sự sinh ra thiêng liêng.
Chúa Giêsu nói nếu ai không được sinh ra bởi nước và Thần Khí thì người đó không thể vào vương quốc của Thiên Chúa. Điều này cho chúng ta thấy, khi sử dụng những lời dạy trong Cựu Ước làm tài liệu tham khảo, rằng chúng ta cần được thanh tẩy. Vì vậy, chúng ta không chỉ cần trở nên sống động về mặt tinh thần, mà chúng ta cũng cần được cải hóa hoàn toàn, thay đổi hoàn toàn. Và rồi, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng điều này không thể tự xảy ra. Ngài nói rằng mọi nỗ lực của chúng ta để cố gắng thay đổi theo cách này sẽ không thành công, bởi vì bất cứ nỗ lực nào chúng ta thực hiện bằng xương bằng thịt đều sẽ dẫn đến kết quả xác thịt. Để có được kết quả thiêng liêng mà chúng ta muốn, chúng ta phải có Thần Khí của Thiên Chúa hành động. Chỉ những gì được sinh ra bởi Thần Khí mới tạo ra sự thay đổi dẫn đến việc được sinh lại.
Chúng ta phải được ban cho cuộc sống thần linh. Và lưu ý rằng đây không phải là việc tùy chọn. Trong câu bảy, Chúa Giêsu nói bạn phải được sinh lại! Trong ngôn ngữ Hy Lạp, từ “phải” được sử dụng là một thuật ngữ rất mạnh nhấn mạnh sự cần thiết của những gì đang được nói đến. Vì vậy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng để trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa, ông ấy phải được sinh ra bởi Thần Khí nghĩa là được sinh ra một lần nữa.
Được sinh ra lần nữa đòi hỏi sự hoán cải (câu 8).
Bây giờ như chúng ta đã nói, việc được sinh ra lần nữa tạo ra những thay đổi trong cuộc sống của một con người. Nhưng ở đây trong câu tám, chúng ta thấy rõ điều đó. Câu này, thoạt nhìn, hơi khó hiểu vì có một cách chơi chữ nào đó đang diễn ra trong ngôn ngữ Hy Lạp mà khi dịch sang tiếng khác không thể diễn đạt đầy đủ. Nhưng điều Chúa Giêsu đang nói ở đây là giống như gió thổi theo hướng này, chiều nọ và không thể điều khiển được, vì vậy đó là việc của Thần Khí. Công việc của Thần Khí trong trái tim con người không thể kiểm soát cũng như không thể đoán trước được. Khi chúng ta chia sẻ Tin Mừng với ai đó vì sự vâng lời, chúng ta không biết liệu Thần Khí có hoạt động trong hoàn cảnh đó để gieo hạt giống, gieo trồng những gì đã được nghe để đưa người đó đến với mối tương quan với Chúa Giêsu Kitô hay chưa. Công việc của Thần Khí chúng ta không thể kiểm soát hoặc dự đoán được. Cũng thế, có thể bạn đã nghe Tin Mừng trước đây nhưng không được Thần Khí khuấy động. Tuy nhiên, hôm nay bạn đang được Thần Khí khuấy động!
Nhưng đây là điều quan trọng mà chúng ta cần nhận ra. Nếu Thần Khí đã thực hiện công việc của Ngài trong đời sống của một con người và người ấy thực sự được sinh lại, thì đó là bằng chứng không thể chối cãi và không thể nhầm lẫn được! Như Chúa Giêsu đã nói, bạn không thể dự đoán hoặc kiểm soát gió, nhưng bạn có thể nghe thấy âm thanh của gió. Nói cách khác, bạn có thể trải nghiệm tác động của gió. Tương tự như vậy, tác động của công việc của Thần Khí có thể được nhìn thấy trong cuộc sống được biến đổi của những người đã được tái sinh. Vì vậy, chúng ta có thể không dự đoán hoặc kiểm soát được thời gian và vị trí của Thần Khí hoạt động, nhưng chúng ta biết rằng khi Ngài tỏ hiện ra, mọi người sẽ biết. Vậy bạn có đòi hỏi được sinh lại không? Bạn có gọi mình là một Kitô hữu và mong đợi được nhìn thấy vương quốc của Thiên Chúa khi bạn chết không? Chúa Giêsu nói rằng nếu bạn được sinh lại, sẽ có bằng chứng không thể chối cãi và không thể nhầm lẫn được về sự biến đổi đời sống của bạn! Nếu không có thay đổi trong cuộc sống của bạn, thì không có gì xảy ra. Khi bạn thực sự được cứu độ, cuộc sống của bạn sẽ thay đổi!
Sự biến đổi này đến bởi Chúa Con, Thập giá và Đức tin (câu 9 đến câu 15)
Làm thế nào điều này có thể xảy ra? Đầu tiên, đó là do Chúa Giêsu. Không có Chúa Giêsu, sẽ không có ơn cứu độ. Chính Chúa Kitô đã đến từ Chúa Cha để tìm kiếm và cứu những gì đã mất. Bây giờ chúng ta hãy nghĩ về điều đó, sẽ không hợp lý nếu một người đến từ thiên đàng lại không biết cách làm thế nào để đến được thiên đàng? Chúa Giêsu đang phán rằng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14: 6).
Thứ hai, đó là do thập giá. Ờ đây Chúa Giêsu mong đợi thập giá. Nếu chúng ta nhìn lại khi dân Ítraen băn khoăn trong đồng vắng “Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Êđôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.” Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ítraen phải chết. Dân đến nói với ông Môsê : “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Ngài xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Dân số 21). Dân Ítraen đã có lúc họ phàn nàn về thức ăn mà Thiên Chúa cung cấp cho họ. Vì vậy, Thiên Chúa cho rắn độc đến. Điều này không tốt lành gì cho dân chúng vì chỉ một vết cắn cũng đủ giết chết họ. Vì vậy, thủ lĩnh của họ, Môsê, đã làm một con rắn bằng đồng và đặt nó trên một cây sào. Sau đó, ông truyền cho tất cả dân Ítraen rằng khi rắn cắn họ, nếu họ nhìn vào con rắn đồng, họ sẽ sống! Cũng vậy, Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tìm và cứu, sẽ phải được cất lên để mọi người nhìn thấy trên thập giá. Chính khi Ngài ở trên thập giá đó, Ngài đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta trên chính Ngài và trả lại hình phạt cho thập giá. Chính khi Ngài ở trên thập giá, Ngài đã nói với những người có mặt ở đó và cho mọi người đến muôn đời, “Hãy nhìn lên, thì được sống”.
Thứ ba, đó là do đức tin của chúng ta. Chúa Giêsu đã đến, vâng. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã chết trên thập giá vì tội lỗi của chúng ta. Nhưng để cho điều đó được áp dụng vàolợi ích của chúng ta, chúng ta phải tin hoặc có đức tin nơi Ngài và những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Mặc dù chính nơi công trình của Chúa Kitô mà chúng ta tin tưởng và mặc dù chính nhờ tác động của Thần Khí khiến chúng ta được sinh lại, chúng ta vẫn phải tin và có đức tin. Sự cứu rỗi hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa và là công trình của Ngài, nhưng chúng ta vẫn phải nhận được những gì Ngài đang ban cho qua quyền năng cho phép của Ngài. Nhưng ngay cả lúc đó, trọng tâm không phải là niềm tin của chúng ta mà là đối tượng của niềm tin: “… bất cứ ai tin vào Ngài… ”Trong tất cả những điều này, Chúa Giêsu chỉ ra rằng chúng ta không chỉ nhận được sự sống thiêng liêng khi chúng ta được sinh lại, mà còn nhận được sự sống thiêng liêng đó cho cả cõi đời đời. Chúng ta, nhờ được sinh ra bởi Thần Khí, được trở thành một thành phần của vương quốc Thiên Chúa tới muôn đời.
Kết luận:
Chúng ta có hai lời mời. Trước tiên, nếu bạn là một Kitô hữu, là một người đã được sinh ra bởi Thần Khí và đang sống một cuộc sống được biến đổi, tôi muốn khuyến khích bạn không chỉ ca ngợi Thiên Chúa về ơn cứu độ mà Ngài đã ban cho bạn mà hãy nói với người khác về ơn cứu độ đó. Chúng ta cần thường xuyên cầu nguyện cho những người chưa được cứu độ trong cuộc sống của chúng ta: những người trong gia đình chúng ta, bạn bè của chúng ta, đồng nghiệp của chúng ta, hàng xóm của chúng ta, bồi bàn / phục vụ bàn, nhân viên thu ngân của chúng ta. Chúng ta cần cầu xin Thiên Chúa khơi dậy niềm say mê chia sẻ Tin Mừng trong chúng ta và xin Ngài làm tan nát cõi lòng chúng ta vì những người chưa được cứu độ chung quanh chúng ta. Nếu chúng ta thực sự tin rằng tất cả những người đang sống ngoài Chúa Kitô đều không có hy vọng, không có Thiên Chúa, và đang hướng đến địa ngục đời đời, thì chúng ta nên làm tất cả những gì có thể để đảm bảo họ biết Tin Mừng rằng Chúa Giêsu là Đấng cứu độ!
Penn Jillette, một người vô thần kiên quyết, là một nhà ảo thuật xuất sắc. Ông rất thẳng thắn chống lại Kitô giáo. Tuy nhiên, ông có một câu chuyện rất cảm động về cuộc gặp gỡ với một tín hữu rất chân thành với ông và chia sẻ Tin Mừng với ông. Đây là những gì ông nói trước sự chứng kiến của tín hữu này: “Nếu bạn tin rằng có thiên đàng và hỏa ngục và mọi người có thể xuống hỏa ngục — nghĩa là không nhận được sự sống vĩnh cửu hay bất cứ điều gì khác — nhưng bạn lại nghĩ rằng, ái chà, nói với họ điều này thực không đáng bởi vì chuyện đó sẽ làm cho họ ngại ngùng khó xử… Phải chăng bạn ghét ai đó nhiều lắm đến mức không giúp họ theo niềm tin của bạn? Bạn phải ghét ai đó đến mức nào thì mới có chuyện tin rằng có cuộc sống vĩnh cửu nhưng lại không nói với họ về điều đó?
Có thể bạn đã không được sinh ra lần nữa. Thậm chí có thể bạn đã đưa ra quyết định trong quá khứ rồi, nhưng vì không có gì thay đổi và bây giờ bạn nhận ra rằng bạn thực sự không được sinh lại. Tôi có một tin tuyệt vời cho bạn. Nếu bạn tiếp tục đọc Gioan 3, bạn sẽ đọc đến một trong những câu nổi tiếng nhất trong Kinh Thánh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3:16). Bạn biết câu đó nói với chúng ta điều gì không? Trước hết, câu đó cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu bạn. Nhưng bạn, cũng như tất cả chúng ta còn lại đều có một vấn đề: đó là tội lỗi. Vì thế, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài là Chúa Giêsu chết trên thập giá vì tội lỗi của bạn. Cuối cùng, bạn phải tin vào Ngài và tiếp nhận Ngài qua sự ăn năn và đức tin. Sám hối có nghĩa là bạn nhận ra tội lỗi của mình, thú nhận với Thiên Chúa để xin Thiên Chúa tha thứ, sau đó bạn quay lưng lại với tội lỗi đó. Đức tin có nghĩa là bạn tin cậy vào công việc mà Chúa Kitô đã làm trên thập giá để bảo đảm ơn cứu độ của bạn. Nhưng hãy nhớ, điều này không đương nhiên có hiệu quả cho bạn, bạn phải đón nhận Ngài “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Ngài, thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Gioan 1:12).
Phêrô Phạm Văn Trung, từ https://richardscollins.com
2021
Năm Thánh Giuse đã mở
2021
Thánh Giuse người cha lao động
Thánh Giuse người cha lao động
Thánh Giuse là người lao động là điểm thứ sáu được Đức Thánh Cha đề cao. Khía cạnh này đã được Đức Lêô XIII nhấn mạnh khi ban hành Thông điệp xã hội đầu tiên, Rerum Novarum, nói về mối quan hệ của Thánh Giuse với công việc.
Thánh Giuse là một người thợ mộc làm việc lương thiện để nuối sống gia đình. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình. Giuse nhắc nhở chúng ta rằng : chính Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc.
Quả thật, ngày nay kinh tế khó khăn, người cha đứng mũi chịu sào nơi đầu ngọn gió phải làm việc cực nhọc, kiếm từng miếng cơm manh áo cho gia đình, họ chỉ muốn gia đình được ấm no, hạnh phúc. Bởi họ là trụ cột, là điểm tựa của mọi người trong gia đình khi gặp khó khăn.
Khi nói Thánh Giuse là người thuộc tầng lớp lao động, Ngài đã gánh vác nặng nề sự thiếu thốn của bản thân và Thánh Gia Thất là vì Đức Thánh Cha thấy xã hội hôm nay vẫn còn nhiều người cha không chịu lao động, không làm hết trách nhiệm, không phát huy được vai trò quan trọng của mình. Một số người say xỉn về đánh đập vợ con khiến gia đình bất hòa, làm cho con cái tổn thương về mặt tình cảm. Một số thì không quan tâm tới gia đình, làm ảnh hưởng đến tình cảm của mọi người, nhất là trẻ em. Những người cha như thế sẽ làm gương xấu cho thế hệ mai sau, không giáo dục được con cái, khiến chúng học theo những điều xấu, trở thành người không có ích cho xã hội.
Đức Thánh Cha khuyến khích mọi người “khám phá lại giá trị, tầm quan trọng và sự cần thiết của lao động” (x. Patris Corde, số 6), khi lao động, con người tham gia vào chính công trình cứu độ của Thiên Chúa, và phẩm giá con người được đề cao. Lao động là cơ hội cho các gia đình; không có việc làm các gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm chí là sự cám dỗ tuyệt vọng và phân tán. Với hình ảnh người người thợ mộc, Thánh Giuse như một khuôn mẫu vào thời điểm mà thế giới cũng như Giáo hội đang vật lộn với những thách thức do thời hiện đại đặt ra. Thánh Giuse hiện lên như một nhân chứng cho Giáo hội và thế giới hiện đại.
Con người lao động của Thánh Giuse ảnh hưởng mạnh lên con mình. Trước sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, người làng Nagiarét hỏi nhau: “Ông ấy không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55). Chúa Giêsu đã bước vào lịch sử của chúng ta, sinh ra từ Ðức Maria bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng sự hiện diện của thánh Giuse, người cha hợp pháp, giữ gìn Chúa và dậy cho Chúa lao động. Trong xưởng thợ Nagiarét, Chúa Giêsu đã chia sẻ với cha mình sự dấn thân, sự mệt nhọc, hài lòng và cả các khó khăn thường ngày nữa.
Thánh Giuse dạy Chúa Giêsu lao động như Công đồng Vatican II đã nêu trong Gaudium et Spes: “Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, hành động theo một ý chí con người, yêu mến bằng quả tim con người. Sinh làm con Đức Trinh nữ Maria, Người đã thật sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta về mọi phương diện, ngoại trừ tội lỗi” (Gaudium et Spes – Vui mừng và Hy vọng, 22,2).
Ðiều này nhắc nhở cho chúng ta biết phẩm giá và sự quan trọng của lao động. Sách Sáng Thế kể rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên người nam và người nữ, giao phó cho họ nhiệm vụ sinh sôi nẩy nở tràn đầy trái đất, khắc phục nó và trông nom nó với công việc của mình (x. St 1,28); 2,15).
Quả thật, lao động là một phần của chương trình tình yêu của Thiên Chúa; chúng ta được mời gọi vun trồng và giữ gìn tất cả các thiện ích của thụ tạo, và như thế tham dự vào công trình tạo dựng! Lao động là yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Lao động làm cho chúng ta giống Thiên Chúa, là Ðấng đã làm việc và đang làm việc, là Ðấng luôn hành động (x. Ga 5,17). Lao động trao ban cho chúng ta khả năng nuôi sống chính mình, gia đình mình, góp phần vào việc phát triển quốc gia mình.
Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse, con người lao động trợ giúp chúng ta.
Còn tiếp ….
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ