2021
Truyền thống đi xưng tội trước Thánh lễ bắt đầu vào thế kỷ thứ nhất.
Truyền thống đi xưng tội trước Thánh lễ bắt đầu vào thế kỷ thứ nhất.
Sách Didache dạy rằng ai muốn rước lễ trước hết phải đi xưng tội.
Việc cử hành Thánh lễ được bắt đầu bằng bữa Tiệc Ly và được các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu thực hiện. Việc “bẻ bánh” được tìm thấy qua nhiều thư khác nhau trong Tân Ước, và cũng hiện diện trong một tài liệu cổ có tên là Didache.
Didache là một bộ sưu tập các tác phẩm cổ xưa mà phần lớn các học giả đều theo dõi có từ thế kỷ thứ nhất. Một số người đã cho rằng Didache có thể có từ năm 48 sau Chúa Giêsu, căn cứ vào đó có thể bộ sưu tập này được viết trước Công đồng Giêrusalem.
Didache giải thích các khía cạnh khác nhau về nguồn gốc cử hành Thánh lễ, chẳng hạn như điều kiện cần thiết để được rước lễ:
“Vào ngày của Chúa, anh em hãy nhóm họp với nhau, bẻ bánh và dâng lời tạ ơn sau khi đã xưng thú tội lỗi của mình, hầu cho lễ vật của anh em được trong sạch. Nhưng tất cả những ai còn xích mích nào đó với người bạn đời của mình, thì đừng kết hiệp với nhau trước khi được hòa giải, để lễ vật của anh em không bị ô uế. Thật ra, đây là của lễ mà Chúa đã nói: ‘Trong mọi nơi và mọi lúc, hãy dâng cho Ta của lễ tinh tuyền, vì vị vua cao cả chính là Ta và danh Ta đáng được ca tụng giữa muôn dân’”.
Từ đoạn này, rõ ràng việc xưng tội là một phần thiết yếu đối với việc tham dự thánh lễ và rước lễ.
Xưng các tội trọng
Giáo hội Công giáo vẫn giữ quan điểm này, khi giải thích rằng chỉ có tội trọng mới cản trở chúng ta rước lễ.
“Người nào ý thức mình đang mắc tội trọng thì không được cử hành Thánh lễ và cũng không được rước Mình Thánh Chúa, nếu chưa lãnh nhận bí tích Sám Hối trước, trừ khi có một lý do nghiêm trọng và không có dịp để xưng tội, trong trường hợp này, người ấy phải nhớ rằng mình phải ăn năn tội cách trọn, trong đó bao gồm việc quyết tâm xưng tội sớm hết sức.” (Giáo luật điều 916)
Không cần phải xưng tội nhẹ trước khi rước lễ
Các Kitô hữu đầu tiên biết rằng trước khi kết hiệp với Chúa bằng việc rước lễ, chúng ta phải hòa giải với Chúa.
2021
Cử chỉ chúc bình an trong thánh lễ bắt đầu từ một hành động tha thứ long trọng
Đó là một hành động thân mật, bảo đảm rằng những hận thù đều được tha thứ trước khi rước Thánh Thể.
Trong khi nhiều người Công giáo rất quen với cử chỉ chúc bình an trong Thánh lễ thì rất ít người biết đến nguồn gốc của hành động phụng vụ này.
Cử chỉ chúc bình an không được tạo ra như cuộc trao đổi thông thường, nhưng là một lời cầu xin tha thứ sâu xa.
Thánh Cyrilô thành Giêrusalem giải thích ý nghĩa thiêng liêng của hành động này trong bài Giáo lý của ngài.
Rồi sau đó thầy phó tế kêu lớn tiếng: “Anh em hãy đón nhận nhau; và chúng ta hãy hôn nhau”. Đừng nghĩ rằng nụ hôn này tương tự như các nụ hôn của những người bạn nơi công cộng. Không phải như vậy: nụ hôn này hòa trộn linh hồn mỗi người lại với nhau và với mong muốn tha thứ hoàn toàn cho nhau. Vì thế, nụ hôn là dấu chỉ cho thấy tâm hồn của chúng ta đang được hòa lẫn vào nhau, và xua tan ký ức về những điều sai lỗi. Vì lý do này, Chúa Kitô phán: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Vì vậy, nụ hôn là sự hòa giải và cho nên, nó thánh thiện; Như thánh Phaolô đã kêu lên rằng: “Anh em hãy chào nhau bằng cái hôn thánh thiện” (1Cr 16,20); và thánh Phêrô: “Anh em hãy hôn chào nhau trong tình yêu thương” (1Pr 5,14).
Các nền văn hóa cổ đại có phong tục “hôn bình an”, điều này có ý nghĩa hơn so với cái bắt tay hoặc vẫy tay đơn giản, được thay thế trong Giáo hội hiện đại.
Hơn nữa, vì vào thời điểm đó các nhà thờ tương đối nhỏ, nên tất cả mọi người đều biết nhau, làm cho “nụ hôn” này thêm ý nghĩa, vì có khả năng bạn có ác cảm với những người mà bạn thường xuyên gặp gỡ.
Điều này khác nhiều so với các xứ đạo ngày nay, nơi mà cộng đoàn giáo dân thường xuyên thay đổi và thậm chí bạn không hề biết người đứng cạnh mình là ai.
Tuy nhiên, ý nghĩa thiêng liêng đằng sau cử chỉ chúc bình an vẫn còn, nó thúc giục tất cả chúng ta hòa giải với nhau trước khi tiến gần bàn thờ.
2021
Thánh Kateri Tekakwitha – Bông huệ của dân Mohawk
Thánh Kateri Tekakwitha – Bông huệ của dân Mohawk
Một cô gái da đỏ bán khai sống ở Bắc Mỹ vào thế kỷ 17 có một sứ điệp gửi cho chúng ta sống trong thế kỷ 21?
1656-1680
Tìm Chúa
Ngày 21-10-2012 tại Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã tuyên thánh cho một thiếu nữ 24 tuổi người da đỏ ở Bắc Mỹ, hoa trái của hoạt động truyền giáo của các thừa sai và tử đạo Dòng Tên.
Tiểu sử của chị được hai cha Dòng Tên người Pháp là Pierre Cholenec và Claude Chauchetière, phụ trách giáo điểm Kahnawake, soạn thảo ngay sau khi chị qua đời. Chị sinh năm 1656 tại làng Ossernenon, ngày nay là Auriesville, trong thung lũng Mohawk, tiểu bang New York, Hoa Kỳ.
Thung lũng Mohawk (đỏ) Miền bắc tiểu bang New York của Hoa Kỳ, phía đông hồ Ontario, gần biên giới Canada |
Vào thời của chị Tekakwitha, hầu hết các dân tộc bản địa ở khu vực Bắc Mỹ còn bán khai. Chẳng hạn họ giết và ăn thịt người. Cha chị là Kenneronkwa, một thủ lãnh Mohawk, thuộc sắc dân Iroquois, thù nghịch với sắc dân Algonquin sống trên lãnh thổ Canada ngày nay, và rất ghét đạo. Mẹ chị là Tagaskouita thuộc sắc dân Algonquin, theo đạo Công giáo, sinh trưởng và được học với các thừa sai Dòng Tên ở vùng Trois-Rivieres, trên đất Canada hiện nay. Trong một trận tấn công của dân Mohawk, bà bị bắt đem về làng Ossernenon cùng với một số người khác. Tại đây, bà kết hôn với viên thủ lãnh ngoại giáo. Hai người sinh được một con gái (là Tekakwitha) và một con trai. Lúc còn rất nhỏ, chị được mẹ kể chuyện về Chúa Giêsu và dạy đọc kinh. Năm chị 4 tuổi, một cơn dịch giết chết nhiều người trong vùng, trong đó có cha mẹ và em trai của chị. Bản thân chị bị rỗ mặt và mắt rất kém. Mồ côi, chị được cậu và hai dì nuôi dưỡng, theo thói quen mẫu hệ của dân Mohawk.
Sau trận dịch, cậu chị thay cha làm thủ lãnh, đưa dân làng đến định cư ở Caughnawaga, cách làng cũ gần 10 km, hiện nay là Fonda. Như các thiếu nữ Mohawk khác, chị được học may vá thêu thùa, kể cả làm dây thắt lưng bằng da thú. Chị học dệt chiếu, đan giỏ và hộp bằng sậy hay cói. Chị thông thạo chế biến thức ăn từ thú săn được hay từ nông sản. Chị cũng tham gia trồng tỉa hay nhổ cỏ theo thời vụ. Tóm lại, chị được dạy để trở nên một phụ nữ đảm đang trong gia đình. Có một điều hơi khác thường: người ta thấy cô bé Tekakwitha thường hay vào rừng một mình, không biết tại sao. Chị không quên những gì mẹ đã dạy: chị thích ở một mình để nhớ lại những điều mẹ kể và đọc các kinh mẹ dạy. Năm 13 tuổi, theo thói quen trong làng, chị được thúc giục lấy chồng, nhưng chị không chịu. Đây là điều lạ thường đối với các cô gái Mohawk.
Thời ấy dân Mohawk vừa thù nghịch với dân Algonquin vừa thù nghịch với người Pháp ở Canada. Tuy nhiên, họ suy yếu sau nhiều cuộc chiến và nhiều trận dịch. Năm 1673, Cha Lamberville đến dựng một nhà nguyện ở đó, vừa để giúp những người đã có đạo vừa để truyền giáo cho những người chưa theo đạo. Cậu của chị vốn ghét đạo nhưng phải chấp nhận vì sợ người Pháp. Chị đến nhà nguyện đọc kinh, dự lễ và học giáo lý. Lễ Phục Sinh năm 1674, chị được rửa tội với thánh danh Kateri, tức là thánh nữ Catarina.
Sau khi gia nhập Hội Thánh, chị bị chống đối mạnh mẽ từ gia đình đến dân làng. Hằng ngày chị bị trẻ em chế giễu và nhiều khi bị ném đá. Vì chị dành ngày Chúa Nhật để đi lễ và học giáo lý, không làm việc, nên gia đình không cho ăn. Chị bị đe doạ nếu không bỏ đạo sẽ bị đánh và giết. Vừa để tránh những hoạt động thù nghịch, vừa muốn hoàn toàn dâng mình cho Chúa, theo lời khuyên của cha phụ trách giáo điểm, 6 tháng sau ngày được rửa tội, chị cùng với mấy người quen trốn khỏi nhà, đi bộ hơn 2 tháng, vượt rừng vượt suối, băng qua hơn 320km đến giáo điểm Thánh Phanxicô Xaviê ở Sault Saint-Louis theo cách gọi của người Pháp, hay Kahnawake theo cách gọi của thổ dân, ngay cạnh thành phố Montreal. Giáo điểm này được các thừa sai Dòng Tên thành lập để truyền giáo cho dân Algonquin. Vào lúc thánh Kateri Tekakwitha đến, đời sống đạo ở giáo điểm đã khá ổn định. Chị đến ở nhà dài của bà Anastasia Tegonhatsiongo, một người bạn thân của mẹ chị, bên bờ sông Saint-Laurent. Cùng ở với bà Anastasia có một vài thiếu nữ khác: họ sống với nhau như một cộng đoàn nữ tu, nhưng không có tổ chức chi hết.
Kahnawake (đỏ) ở phía nam sông Saint-Laurent, phía đông hồ Saint-Louis bên kia sông là Montreal, thành phố đông dân thứ nhì ở Canada hiện nay |
Ngài Thuộc trọn về Chúa
Ở Kahnawake, ngay lập tức đời sống của chị được mọi người khen ngợi. Chị chăm chỉ đến nhà thờ đọc kinh dự lễ, nhiều khi ở một mình trước Chúa Giêsu Thánh Thể lâu giờ. Chị siêng năng lần hạt Mân Côi và lúc nào cũng đeo tràng hạt ở cổ. Chị hiền lành, ít nói, chăm làm, hay giúp đỡ người khác. Lễ Giáng Sinh năm 1677, chị được rước lễ lần đầu.
Khẩu hiệu của chị Kateri là: “Ai sẽ cho tôi biết điều gì đẹp lòng Chúa nhất để tôi thực hiện?” Ngoài các việc đạo đức, chị thường xuyên thăm viếng và giúp đỡ những người già cả và đau yếu trong làng. Chị cũng chỉ bảo các em bé về giáo lý và cầu nguyện theo như chị hiểu. Một thú vui của chị là trồng những cây Thánh Giá bằng gỗ trong rừng để nhắc nhở mình cũng như mọi người về việc cầu nguyện.
Cả ở Kahnawake, áp lực về hôn nhân vẫn còn. Ngày 25-3-1679, sau khi hỏi ý kiến cha phụ trách, chị tuyên khấn trọn đời sống khiết tịnh. Đây là điều chưa từng có trong các thổ dân địa phương. Chị muốn thuộc riêng và thuộc trọn về Chúa Giêsu. Cha Cholenec thuật lại lời chị: “Con đã suy nghĩ kỹ rồi. Con đã quyết định từ lâu rồi. Con muốn hiến thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu, con của Mẹ Maria. Con chọn Người làm chồng, và chỉ mình Người cưới con làm vợ thôi.” Các cha đề nghị với các phụ nữ đạo đức một vài việc hãm mình nhỏ, không ngờ họ đi xa hơn nhiều. Do lòng đạo đức và quan niệm riêng, bà Anastasia hướng dẫn chị cũng như những người khác làm nhiều việc khổ chế để đền tội cho dân tộc mình và cầu nguyện cho dân tộc mình theo đạo.
Trong số những người bạn cùng sống ở nhà dài với chị có Maria Têrêxa Tegaiaguenta. Hai người gặp nhau lần đầu vào mùa xuân năm 1678. Vì lòng đạo đức, cả hai cùng bắt đầu bí mật đánh tội. Cha Cholenec sau này cho biết là mỗi lần họ dùng dây tua đánh tội từ 1.000 đến 1.200 cái. Chị Kateri đã thực hành như vậy hằng ngày cho đến chết. Một chị khác tên là Maria Skarichions cho biết về đời sống và hoạt động của các nữ tu. Họ quyết định cùng nhau xin cha phụ trách cho lập một dòng nữ. Các cha Dòng Tên cho là chưa thích hợp nên ngăn cản. Khi chị Maria Têrêxa rời nhóm, chị Kateri trở thành “thủ lãnh” của nhóm. Chị thường khuyên: (1) hãy can đảm, bất chấp những lời nói của những người không có đạo; (2) vững tin là chúng ta sống đẹp lòng Chúa và tôi sẽ giúp chị khi tôi lên với Chúa; (3) đừng bao giờ bỏ việc khổ chế.
Làng Kahnawake hiện nay
Tượng thánh Kateri Tekakwitha ở đền Thánh Anna tại Baupré, Canada |
Vì thường xuyên hãm mình và khổ chế, sức khoẻ của chị Kateri suy giảm nhanh chóng. Đến Tuần Thánh năm 1680, chị kiệt sức. Cha Cholenec thuật lại buổi chiều Thứ Tư Tuần Thánh:
“3 giờ chiều, chuông nhà nguyện đổ để tập họp cộng đoàn, vì nhiều người muốn có mặt khi chị tắt thở. Chị thấy mọi người hiện diện đông đủ. Mọi người quỳ gối cầu nguyện. Sau nửa giờ ngắn ngủi, chị nói những lời cuối cùng: ‘Iesos! Wari!’ (Giêsu! Maria!) Rồi chị hơi nhép miệng bên phải. Chị ra đi như thể nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ và một lúc lâu chúng tôi chưa biết chị còn sống hay đã chết. Ít phút trước 4 giờ, khuôn mặt chị biến đổi trở nên rất xinh đẹp, tươi cười và rạng rỡ… Chị đã từ giã dân làng để lại hương thơm đức hạnh và thánh thiện. Mấy tiếng sau, trong lễ đưa chân, tôi nhắc mọi người về kho báu Chúa đã tặng cộng đoàn… Chị Kateri đã chết như chị đã sống, nghĩa là một vị thánh. Ai cũng tiên đoán một người đã sống như vậy thì sẽ chết thế nào, vì chị đầy ơn Chúa Thánh Thần…”.
Trên mộ chị Kateri, các cha phụ trách cho ghi dòng chữ: “Bông hoa xinh đẹp nhất xưa nay nở giữa dân da đỏ”. Cha Chauchetiere cho xây một nhà nguyện gần mộ chị. Từ năm 1684, khách hành hương bắt đầu đến cầu nguyện với chị.
Một cô gái da đỏ bán khai sống ở Bắc Mỹ vào thế kỷ 17 có một sứ điệp gửi cho chúng ta sống trong thế kỷ 21? Dường như giữa ngài với chúng ta không có một liên hệ nào. Tuy nhiên, trong một thế giới tục hoá, giữa bao nhiêu tiến bộ khoa học và ký thuật vẫn đầy mâu thuẫn này, hình như khuôn mặt đơn sơ và thánh thiện của ngài vẫn có thể thu hút và gợi hứng cho những người đang đi tìm một cuộc sống có ý nghĩa, xây dựng một thế giới công bình và hoà bình.
Tượng thánh Kateri Tekakwitha ở
Vương Cung Thánh Đường Chính Tòa giáo phận Santa Fe, Mêhicô
+ Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ
2021
Kinh nguyện gia đình: Lòng đạo đức bình dân trong mùa đại dịch
Để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, một phương thế được đặt ra: hạn chế tiếp xúc với người khác, có quan chức còn mạnh dạn đề nghị: “hãy coi người đối diện như người đang là F0”. Vâng dịch COVID-19 làm cho người ta sợ hãi và ngại tiếp xúc với nhau, tuy nhiên, người Kitô hữu chúng ta được sinh ra trong lòng Giáo hội, một cộng đoàn được Chúa quy tụ, chúng ta không thể không gặp gỡ Đức Kitô mỗi giây phút trong cuộc đời của chúng ta, bởi đức tin của người Kitô hữu hệ tại ở việc gặp gỡ Đức Kitô, vì Người là nguyên lý của sự sống, là cội nguồn của ơn cứu độ và là nền tảng của sự hiệp thông Giáo hội. Vì thế, mỗi gia đình Kitô hữu là môi trường để các thành viên trong gia đình gặp gỡ Đức Kitô qua kinh nguyện gia đình.
Vâng, hơn bao giờ hết, chính lúc này đây, các bậc làm cha mẹ phải làm cho gia đình trở thành cộng đoàn cầu nguyện qua việc cử hành kinh nguyện trong gia đình. “Quả vậy, trong Hội thánh tại gia, mục đích quan trọng của kinh nguyện là bước dẫn nhập tự nhiên cho trẻ em bước vào kinh nguyện phụng vụ của toàn thể Hội thánh, vừa chuẩn bị chúng đi vào kinh nguyện phụng vụ vừa mở rộng vòng kinh nguyện này vào trong lĩnh vực đời sống cá nhân, gia đình và xã hội”[1].
Kinh nguyện gia đình có những đặc tính riêng. Đó là kinh nguyện chung: vợ chồng cùng cầu nguyện với nhau, cha mẹ và con cái cùng cầu nguyện với nhau qua hai hình thức: kinh nguyện của Giáo hội gọi là Phụng vụ, hay kinh nguyện vay mượn những sắc thái đặc thù thuộc tinh hoa của một dân tộc hay một sắc tộc, nghĩa là thuộc văn hoá của họ được gọi là: lòng đạo đức bình dân.
Mặc dầu Phụng vụ là đỉnh cao trong lĩnh vực phụng tự của đời sống tín hữu và không có một hình thức cầu nguyện nào khác có thể so sánh được, nhưng các hình thức cầu nguyện thuộc hình thức “lòng đạo đức bình dân” cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp người tín hữu kết hợp mật thiết với Chúa, qua cuộc gặp gỡ được diễn tả bằng những lời kinh, những tâm tình phù hợp với từng hoàn cảnh, ngôn ngữ và văn hoá của người tín hữu; nó khơi lên lòng đạo đức qua việc thực thi lời dạy dỗ của thánh tông đồ: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1Tx 5,17). Và như thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II khẳng định rằng, lòng đạo đức bình dân như là “kho tàng đích thực của dân Thiên Chúa”[2]. Bởi đó, các Giáo hội địa phương phải nỗ lực duy trì, cổ võ lòng đạo đức bình dân nơi hết thảy mọi người Kitô hữu.
Để đối phó với tình trạng giãn cách xã hội, không được tụ tập tại Nhà thờ nhằm tránh lây lan dịch bệnh, các gia đình Kitô hữu chúng ta phải cổ võ không ngừng đời sống cầu nguyện thuộc lĩnh vực lòng đạo đức bình dân như là phương thế hữu hiệu để nuôi dưỡng đức tin tại gia đình. Điều đó không là gì mới lạ, đó chỉ lập lại những kinh nghiệm lịch sử của một Giáo hội luôn đối diện với nhiều bách hại của những thù nghịch. Lịch sử chứng nhận rằng, đức tin của người tín hữu đã được nâng đỡ bởi những hình thức và thực hành đạo đức[3]. Lịch sử chung của Giáo hội toàn cầu cũng như lịch sử riêng của Giáo hội Việt Nam. Một thí dụ: nếu như không có lời kêu gọi khẩn thiết của Đức Giáo hoàng Piô V đến với mọi Kitô hữu trên thế giới về việc lần chuỗi Môi khôi để cầu xin cho cuộc chiến giữa đạo quân Hồi giáo và đạo quân Thánh giá, thì làm gì có cuộc chiến thắng lịch sử của đạo binh Thánh giá tại vịnh Lepante, vào 07/10/1511; hay là nếu không có những hình thức phụng tự được trình bày đơn sơ thuộc lĩnh vực lòng đạo đức bình dân, thì làm sao Giáo hội Việt Nam có thể đứng vững vượt qua cơn gian lao thử thách trong gần 300 năm? Quả thật “những thách đố nghiêm trọng mà thế giới phải đương đầu khi bước vào ngàn năm thứ mới, khiến chúng ta nghĩ rằng chỉ có sự can thiệp từ trên cao, có khả năng hướng dẫn tâm hồn những người sống trong những hoàn cảnh xung đột và những người nắm giữ vận mệnh các quốc gia, mới có thể cho chúng ta lý do để hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn”[4]. Sự can thiệp từ trên cao đến được từ những lời cầu nguyện đơn sơ được thể hiện trong những hình thức cầu nguyện thuộc lòng đạo đức bình dân, như chuỗi Môi khôi.
Mong sao việc đọc kinh tại gia đình được các gia đình Kitô hữu nghiêm túc thi hành, vì “gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Giáo hội trong nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng cầu nguyện lên Thiên Chúa”[5]. Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II cũng khẳng định tầm quan trọng của việc đọc kinh chung trong gia đình. Bởi khi các thành viên trong gia đình cùng “đưa mắt hướng về Đức Kitô, cũng sẽ tìm lại được khả năng nhìn thẳng vào mắt nhau, tỏ tình liên đới, tha thứ cho nhau, và nhìn thấy giao ước tình yêu của họ được đổi mới trong Thần Khí của Thiên Chúa”[6].
Ngoài ra cần cổ súy giờ kinh nguyện gia đình cũng nên chú tâm vào trong việc cử hành Phụng vụ Các giờ kinh “vì đó là kinh nguyện công khai của Giáo hội, là nguồn mạch lòng đạo đức và là lương thực nuôi dưỡng kinh nguyện riêng”[7]. Trong việc khích lệ và bảo tồn lòng đạo đức bình dân, người tín hữu cần được chỉ dẫn cho biết về sự hiệp nhất trong Giáo hội, mọi hình thức phụng tự nên qui về cái chung hơn cái riêng. Trung tâm điểm của các hình thức phụng tự phải qui về chính là mầu nhiệm Chúa Kitô. Bởi đó việc đọc Các giờ kinh Phụng vụ vừa đáp ứng được tâm tình cầu nguyện riêng tư vừa cùng với Giáo hội cử hành hành vi Phụng vụ, tột đỉnh của mọi hình thức cầu nguyện. Quả thật, “Phụng vụ Các giờ kinh không phải là một hoạt động cá nhân hay riêng tư nhưng ‘thuộc về toàn thể Thân Mình Giáo hội[..]. Vì thế nếu các tín hữu được triệu tập để cử hành Phụng vụ Các giờ kinh và tụ tập cùng nhau hợp lòng hợp tiếng thì họ đang diễn tả Giáo hội đang cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô’. Sự chú ý đặc biệt đến kinh nguyện phụng vụ này không tạo ra căng thẳng với kinh nguyện bản thân. Trái lại, Phụng vụ Các giờ kinh giả định và đòi phải có kinh nguyện bản thân liên kết tốt đẹp với các hình thức khác của kinh nguyện cộng đồng nhất là nếu các hình thức ấy được Giáo quyền nhìn nhận và khuyến khích”[8].
Khi mà cả xã hội Việt Nam đang căng mình ra chống dịch covid-19, chúng ta, những Kitô không những nỗ lực cộng tác với toàn thể xã hội chống dịch theo khả năng, đóng góp công sức ủng hộ phòng chống dịch, nhưng chúng ta còn phải ý thức về đức tin công giáo của mình. Hãy nhớ lời Chúa phán: “không có Thầy, các con không làm được gì” (Ga 15, 5). Vì thế, chúng ta hãy chuyên chăm cầu nguyện trong từng gia đình của chúng ta, thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã nhắc nhở: “phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như Hội thánh tại gia, chỉ có thể được sống với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn”[9].
(Trích tài liệu thường huấn dành cho giáo dân tháng 7/2021, Ủy ban Giáo Dân / HĐGMVN)
[1] Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio, ban hành ngày 22/11/1981, số 61.
[2] Gioan-Phaolô II, Bài giảng trong phần cử hành Lời Chúa tại La Serena (Chile), 2 trong: Insegnamentali di Gioavanni Paolo II, X/1 (1987), cit., tr. 1078.
[3] Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích, Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ, số 11.
[4] Gioan-Phaolô II, Tông thư Rosarium Virginis Mariae, ban hành tại Roma ngày 16/10/2002, số 40.
[5] Công Đồng Vat. II , Sắc lệnh Tông đồ giáo dân (AA), số 11
[6] Gioan- Phaolô II, Tông thư “Rosarium Virginis Mariae”, số 41.
[7] Công đồng Vat. II, Hiến chế về Phụng vụ thánh (SC), số 90.
[8] Gioan-Phaolô II, Tông thư kỷ niệm 40 năm ban hành Hiến chế Thánh Công đồng về Phụng vụ thánh, số 14.
[9] Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio, ban hành ngày 22/11/1981, số 61.