2021
Kinh “Bắt Đạo”. Một tài liệu quý thời kỳ bách hại thế kỷ 19
Kinh “Bắt Đạo”. Một tài liệu quý thời kỳ bách hại thế kỷ 19
Trong chuyến về Qui Nhơn dự ngày lễ khấn và kỷ niệm ngân khánh, kim khánh của các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, ngày 21 tháng 8 năm 2010, tôi được linh mục quản lý Giáo phận trao cho cuốn Memorial Mission de Qui Nhơn 1917- 1919 và như thế ngài đã cung cấp cho gần như trọn bộ “Lưu dấu” Địa phận Qui Nhơn.
Khi lật những trang sách, tôi cảm thấy thật hạnh phúc vì quá khứ lịch sử như hiện lên qua từng con chữ. Câu chuyện của linh mục thừa sai F.M Geffroy MEP về “Con Dần”, cô gái 13 tuổi bị bắt cùng cả gia đình vì đức tin thật là cảm động. Cô bé 13 tuổi ấy đã làm các quan tòa Khánh Hòa lúc đó tức giận đến độ trở thành những tên đao phủ khát máu. Trong khi nhiều người kể cả ông bố của mình chối đạo thì cô bé Bình Cang đó đã kiên vững đến cùng. Nên nhớ vào thời kỳ đó, bị bắt bỏ tù nếu không có người nhà cung cấp thực phẩm là kể như chết đói. Làm sao có thực phẩm khi cha , mẹ, chị cả đều bị bắt nhốt. Cả gia đình phải ăn xin để sống. Sau hai năm, mẹ và chị cả chịu hết xiết đã chối đạo, rồi đến lượt thân phụ cũng quyết định bước qua thánh giá. Cô bé đau đớn lắm nhưng không thể ngăn cản được. Phần mình, em quyết theo Chúa đến cùng. Qua ba đời quan Đỗ Phước Thịnh, một con người tàn bạo, kế tiếp là quan Phạm Hành, khoan dung hơn nhưng đến Quan án Tường “ ce trọ trẹ de Huế était un véritable tigre’ ( ông quan trọ trẹ người Huế nầy quả là con hùm thật. Lời cha Geoffroy ). Quan đã buộc người cha bước qua Thánh giá mà cô gái nhỏ lại bất khẳng (không chịu chối đạo), Quan Án Trường cho đánh đập tàn nhẫn đến nỗi cô bé ngất đi và được đem về nhà giam mình đầy máu me. Hai ngày sau, dù các vết thương c̣òn tươi rói nhưng em Dần lại bị đưa đến công đường hành hạ tiếp. Cô bé lại bất tỉnh nhân sự và bị lôi ra bỏ ng̣oài bờ rào vì tưởng chết. Nhưng Sáu Sự, người Phú Yên không chối đạo đã ẵm cô bé vào và cho nằm sấp bất động. Đau đớn nhưng cô bé không hề rên la. Sáu Sự cố gắng đem ra sân gạt ḍi bọ trên các vết thương , tắm rửa và 15 ngày sau, cố bé đã chết trong nổi đau đớn tột độ. Câu chuyện khá dài kể thêm kết cục bi thảm của viên quan bất nhân…chết thối tha và xác cũng chìm mất trên biển cùng với của cải vơ vét.
Sự việc nầy xảy ra vào năm 1860, Tự Đức năm thứ 12. Quan án Tường cũng cho chặt đầu bà Bề Trên nhà Phước Mến Thánh Giá Chợ Mới, chú Giuse Hữu, con trai Trùm Ngữ Chợ Mới và cháu ruột của Cậu Bảo. Ông cũng chém đầu sáu giáo dân Bắc Kỳ thuộc khu vực các Giáo sĩ Tây Ban Nha. Các vị bị lưu đày đến vùng đất nầy mà nghe đâu trong số đó có một vị phó tế.
Hai trăm năm trước , vào năm 1665, cô bé Luxia Kỳ, 13 tuổi chết bị voi dày cũng vì đức tin tại Thanh Chiêm đã từng làm sững sờ bao người. Rất tiếc dù được ca tụng nhiều các em vẫn chưa được đưa lên bậc chân phước. Ước mong tấm gương các em sẽ giúp giới trẻ nữ công giáo noi theo, can đảm với thánh giá hằng ngày và sống gương mẫu giữa một thế giới sa đọa.
Hy vọng Giáo xứ Chợ Mới, Giáo phận Nha Trang nơi xác các vị tử đạo được cải táng vẫn c̣òn lưu giữ những thánh tích của các đấng chứng nhân đức tin kể trên.
Điều tôi muốn không chỉ là tuyên dương cái chết của em mà còn ghi lại một kinh rất lạ. Ông Trùm Nên ở Chợ Mới một ngày hỏi em, khi bị đánh, em có đau không. Em nói rằng “ Con cảm thấy đau lắm, nhưng con cố gắng không nghĩ đến chuyện đó nữa. Khi người ta bắt đầu đánh con, thì con cũng bắt đầu đọc kinh bắt đạo và lại đọc lại khi đến cuối kinh, và con chỉ ngừng đọc khi người ta không c̣òn đánh con nữa”.
Kinh bắt đạo là kinh gì?
May mắn thay, linh mục Geoffroy đã cho in kinh bắt đạo nầy vào cuối câu chuyện. Kinh nầy trích từ sách thiên (sách giáo lý công giáo) chữ nôm in tại Gia Hựu năm 1864. Bốn năm sau cái chết của em Dần. Như vậy kinh nầy trước đó đă được giáo hữu xử dụng để cầu nguyện.
Tên bình dân là kinh bắt đạo nhưng tên kinh là Kinh dốc lòng giữ đạo cho trọn ( Hễ khi bắt đạo thì hằng ngày ban hôm phải đọc kinh sau nầy).
Lạy Chúa tôi, là Đứng ( Đấng) đã dựng trời đất muôn vật, và sinh ra tôi ở đời nầy mà thờ phượng Chúa, nên chính việc tôi phải làm, là tin cậy yêu mến giữ đạo Chúa cho trọn. Mà bởi tội lỗi tôi, nên Chúa đã lấy lòng thương xót mà cho Ngôi Hai xuống thế làm người chịu nạn chịu chết mà cứu lấy tôi, cho khỏi sa địa ngục vô cùng: mà rày tôi chẳng muốn chịu sự khó, mà báo nghĩa Chúa đă thương tôi ngần ấy sao? Ấy vậy từ nầy về sau, dầu tôi phải chịu bắt trói, gông cùm, tù rạc, lưu giam; dầu phải đày đọa, bỏ cha mẹ vợ con của cải; dầu phải gia hình kiềm khảo, chết dữ dằn độc ác thế nào vì đạo Chúa, thì tôi sẵn lòng mà chịu những sự ấy, và tin thật mỗi hình khổ mà kẻ dữ làm khổ cho tôi bây giờ, sánh chẳng bằng một chút hình khổ xưa Chúa đă chịu vì tôi. Vả lại sự dữ tôi phải chịu bây giờ, thì chóng qua chóng hết, mà phần thưởng Chúa dành cho tôi trên nước Thiên đàng, thì vô cùng vô tận. Vậy tôi xin Chúa ban ơn sức mạnh vững vàng cho tôi, đặng bền lòng từ nầy về sau thà chịu mọi hình khổ , dầu rất dữ thế nào cho đến chết, chẳng thà bỏ đạo Chúa tôi, cho đặng sống tạm đời nầy mà ngày sau phải chịu hình phạt vô cùng trong địa ngục. Amen.
Hội An ngày 22 tháng 8 năm 2010.
Linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng sưu tầm.
NB : Viết dựa vào Mémorial de Qui Nhơn No 145, 4 Novembre 1917, trang 155-162.
2021
Giuđa Phản Bội, Phêrô Chối Thầy và Người Trộm Lành dạy cho chúng ta những bài học gì?
Giuđa Phản Bội, Phêrô Chối Thầy và Người Trộm Lành dạy cho chúng ta những bài học gì?
Hỏi: Nhân Mùa Chay, xin cha giải thích ý nghĩa việc Giuđa phản bội, người trộm lành sám hối và Phêrô chối Chúa như được ghi lại trong trong các Tin Mừng.
Trả lời: Mùa chay là thời điểm thuận lợi nhất để Giáo Hội mời gọi con cái mình suy niệm sâu xa hơn nữa về tình thương bao la của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu mọi đau khổ, sỉ nhục và chết trên thập giá để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội và có hy vọng được sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Nước Trời .
Mùa chay cũng là mùa sám hối, thúc dục mọi tín hữu nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin Chúa nhân lành khoan dung thứ tha vì Người “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”. ( 1Tm 2:4)
Thiên Chúa là Cha rất nhân lành..Người “chậm giận và giầu tình thương”. Vì thế, ai có lòng trông cậy và kêu xin thì dù cho tội lỗi đến đâu cũng sẽ được tha thứ.Chỉ có sự tuyệt vọng, không còn muốn xin Chúa thương xót tha thứ nữa mới làm bế tắc tình thương bao la của Thiên Chúa cho con người mà thôi
Sau đây là nhũng bài học ta có thể rút ra từ việc Phêrô chối Thầy, Giuđa bán Chúa và người trộm lành sám hối.
Tin Mừng Matthêu, Marcô, Luca và Gioan đều ghi lai sự kiên Phêrô chối Thầy, Giuđa Ít-ca-ri-ốt , một trong 12 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã phản bội Thầy, bán Thầy và tuyệt vọng đến mức treo cổ tự tử sau đó. (Mt 27: 5)
Riêng Tin Mừng Luca ghi lại sự kiên “Người gian phi sám hối và được vào Thiên Đàng với Chúa Giêsu”.
1- Trường hợp của Giuda
Giuđa tượng trưng cho lớp người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa để phản bội người khác, kể cả ân nhân. Giuđa là một trong Nhóm 12 Tông Đồ nòng cốt mà Chúa Giêsu đã chọn lựa cho tham gia vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa từ lúc ban đầu. Giuđa đã được diễm phúc sống bên Chúa suốt 3 năm, đã được trực tiếp nghe lời giảng dạy của Chúa về Nước Trời, về tinh thần khó nghèo cũng như chứng kiến tận mắt đời sống khó nghèo của Chúa ở mức “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20). Vậy mà Giuđa đã không được cảm hóa theo gương khó nghèo của Chúa. Vì thế Giuda đã cam tâm bán Chúa lấy 30 đồng bạc. Nhưng khi chứng kiến cảnh Thầy mình bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn, Giuđa đã hối hận đem tiền trả lại bọn thượng tế và kỳ mục Do Thái rồi đi thắt cổ chết. Hắn tự tử vì quá tuyệt vọng, không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương, tha thứ của Chúa nữa. Đây là điều rất đáng buồn cho anh ta và là gương xấu cho người khác.
Thật vậy, Giuđa đã trở thành gương xấu không những vì tham mê tiền của, phản bội mà nhất là tuyệt vọng về lòng xót thương của Chúa. Đây là điều đáng nói nhất về người môn đệ phản bội này, vì y đã mất hết niềm tin vào Thiên Chúa nhân lành, sẵn lòng tha thứ hết mọi tội lỗi của con người trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội tuyệt vọng không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương tha thứ của Chúa nữa.Giuđa đã phạm tội này khi tự tử chết.
Chúa Giêsu đã than thở như sau về sự phản bội của Giuđa: “…Con đã canh giữ và không một ai trong họ phải hư mất trừ đứa con hư hỏng để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” ( Ga 17: 12)
lại nữa: “…đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26: 24; Mc 14: 21)
Dầu vậy, Giáo Hội cũng không dám kết luận chắc chắn về số phận đời đời của Giuđa. Việc này chỉ có một mình Thiên Chúa biết vì Người đã phán đoán Giuđa theo lượng từ bi và công bằng của Người.
Ngược lại , Giáo Hội chỉ lưu ý con cái mình về gương xấu của Giuđa mà thôi. Gương xấu vì Giuđa đã mê tiền của hơn yêu mến Thầy, nên đã phản bội Thầy khi bán Người lấy 30 đồng bạc của các Thượng Tế và kỳ mục Do Thái. Nhưng điều đáng nói nhất về Giuđa là sự tuyệt vọng của anh, khi không còn muốn sám hối để xin Chúa tha thứ nữa, để rồi đi treo cổ tự tử (cf. Mt 27:5). Đây là gương xấu mà mọi tín hữu phải xa tránh vì thực chất của nó là mất hết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa, là Cha nhân từ luôn sẵn lòng tha thứ cho kẻ có tội biết sám hối và xin tha thứ.
2- Phêrô chối Chúa
Ngược lại với Giuđa là kẻ nêu gương xấu về tham tiền và tuyệt vọng, Phêrô lại dạy cho chúng ta bài học quý giá về lòng ăn năn sám hối.
Phêrô cũng có khuyết điểm là quá tự tin nơi mình khi tuyên bố lúc ban chiều trước khi Chúa Giêsu bị bắt: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” ( Mt 26:35)
Nhưng đúng như lời Chúa đã nói trước là đêm đó gà chưa gáy sáng thì Phêrô đã chối Chúa ba lần. Nhưng chối xong và nhớ lại lời Chúa đã nói trước, Phêrô “ra ngoài khóc lóc thảm thiết” (cf. Mt 26: 75, ; Lc 22: 62). Ông khóc vì ăn năn hối hận đã hèn nhát chối Thầy trước những kẻ bắt bớ và hành hạ Người cách tàn nhẫn. Chính vì thật sự thống hối ăn năn mà Chúa đã tha cho Phêrô tội công khai chối Chúa và còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21: 15-16).
Như thế đủ cho ta thấy là dù tội lỗi con người có nặng đến đâu, nhưng nếu biết sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa thì chắc chắn sẽ được tha thứ và nối lại tình thân với Người, sau khi đã lỡ sa ngã vì yêu đuối của nhân tính do hậu quả của tội nguyên tổ còn để lại.
3- Người gian phi sám hối (Lc 23 : 40-42)
Tin Mừng Luca kể rõ hai tên gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu, một đứa bên phải, một đứa bên trái, trong khi Matthêu nói đó là hai tên cướp ( Mt 27: 38). Chúng bị đóng đinh vì tội trôm cướp, và một trong hai tên gian phi này đã nhận biết tội của mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 42-43)
Như thế, chỉ có lòng ăn năn sám hội thực sự là đáng kể vì là điều đẹp lòng Chúa, và Người sẽ tha hết mọi tội lỗi cho những ai nhận biết mình có tội và xin Chúa thứ tha. Người gian phi sám hối hay còn được gọi là “kẻ trộm lành” đã vào Thiên Đàng bằng đường tắt nhanh chóng chỉ vì biết ăn năn sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa để xin tha thứ.
Người trộm lành này đã từng đi đàng tội lỗi không biết là bao nhiêu năm, nên bị đóng đanh vì những trọng tội mà xã hội Do Thái phải trừng phạt bằng cực hình đóng đanh. Nhưng Chúa đã tha thứ cho anh mọi tội, từ tội nguyên tổ cho đến mọi tội cá nhân anh đã phạm cho đến ngày bị đóng đanh chung với Chúa, là Người lành vô tội, nhưng đã cam lòng chiu khổ hình thập giá để đền thay cho nhân loại đáng phải phạt vì tội.
Dĩ nhiên chúng ta không thể bắt chước “người trộm lành” bằng cách cứ sống tội lỗi rồi cuối cùng sám hối xin Chúa tha thứ để được vào Nước Trời. Ta chỉ có thể noi gương tốt của anh về lòng sám hối và tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để xin Người tha thứ mọi tội cho ta đã lỡ sa phạm vì yếu đuối của bản chất và vì ma quỉ cám dỗ. Nhưng ta không thể bắt chước anh ta làm những việc sai trái hay đối nghịch với tình thương, sự thánh thiện và công bằng của Chúa để chờ xin tha thứ vào phút chót. Không ai có thể biết ngày giờ nào mình phải ra đi, nên không thể liều mình sống trong tội chờ ngày sám hối được. Cố ý sống như vậy là lợi dụng lòng thương xót, tha thứ của Chúa. Và nếu ai cố ý liều lĩnh như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh cáo nghiêm khắc sau đây:
“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn đi, nhưng vì người hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3: 15-16)
Tóm lại, điều thiết yếu là ta phải cố gắng xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội là cản trở duy nhất cho ta sống đẹp lòng Chúa mỗi giây phút của đời mình trên trần thế này. Tuy nhiên, vì bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, nhất là vì ma quỉ luôn rình rập để lôi kéo ta vào vòng tội lỗi, nên cần thiết cho ta phải xin ơn Chúa giúp sức để có thể đứng vững, sống theo đường lỗi của Chúa để được an vui ngay trên đời này trước khi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
2021
Mặt tích cực khi đương đầu với các lạc giáo: Một cái nhìn tổng quan
Mặt tích cực khi đương đầu với các lạc giáo: Một cái nhìn tổng quan
Qua dòng thời gian, chúng ta có thể thấy được làm thế nào mà các lạc giáo lại có thể trở nên chất xúc tác cho việc củng cố đức tin.
Ảnh: Shutterstock
Không phải tất cả những điều xấu đều gây hại. Trong lịch sử Giáo Hội, chính các lạc giáo đã giúp củng cố đức tin.Các phong trào lạc giáo đã khơi lên những nghi ngờ và những cách giải thích khác nhau về giáo thuyết Công Giáo. Trong khi các lạc giáo có thể tạo ra đau khổ và chia rẽ, thì chúng cũng giúp Giáo Hội gắn kết bền chặt hơn với chân lý và hiểu biết sâu sắc hơn những gì mà mình tin tưởng.
Một trong những lạc giáo đáng chú ý nhất là thuyết Ariô (Arianism) vào thế kỷ thứ 4. Lạc giáo này phủ nhận thần tính của Chúa Giêsu, xem Người Chúa Giêsu không khác gì so với một thụ tạo, cho dù là một thụ tạo phi thường.Sau đó, vào năm 325, chính Công đồng Nicea đã tuyên bố rằng Chúa Con “được sinh ra, chứ không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha”. Tín điều về đồng bản thể là một trong những yếu tố nền tảng của điều được gọi chính xác là Kinh Tin Kính “của Công đồng Nicea”, mà chúng ta đọc ngày nay.
Nestoriô (Nestorius), một thượng phụ của Constantinople vào thế kỷ thứ 5, đã cố gắng chống lại một lạc giáo nhưng lại tự biến mình thành một người lạc giáo: Ông đã phủ nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria, và phủ nhận con người Đức Kitô chính là Ngôi Lời được sinh ra bởi Chúa Cha.Giáo thuyết này đã bị lên án vào năm 431 bởi Công đồng Êphêsô, một Công đồng đã định tính về thiên chức làm mẹ của Đức Maria khi gắn cho Mẹ với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”.
Những người truyền bá các lạc thuyết tấn công vào sự duy nhất của đức tin, và đã bị trừng phạt bằng vạ tuyệt thông. Trong quá khứ, việc trấn áp các lạc giáo đã lên đến đỉnh điểm nơi các cuộc thập tự chinh xét theo nghĩa đen.
Đó là trường hợp của những người Cathar, những người mà học thuyết của họ đã lan truyền từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 14 ở miền nam nước Pháp và miền bắc nước Ý. Người Cathars tin vào hai nguyên lý Thiện và Ác, chối bỏ các bí tích, và khinh bỉ thân xác. Họ cũng tin rằng Chúa Giêsu chỉ là một thiên thần với hình dáng một con người. Lạc giáo đã bị lên án bởi nhiều công đồng địa phương và Công đồng Lateranô III, và sau đó, vào năm 1208, chính Đức Giáo hoàng đã kêu gọi một cuộc thập tự chinh đích thực: một cuộc chiến đẫm máu kéo dài trong khoảng 20 năm, một cuộc tận diệt theo quan điểm của nhiều sử gia.Cũng trong những năm đó, Thánh Đa Minh Guzmán, người đã tận tâm rao giảng chống lại lạc giáo Cathar, đã thành lập dòng Đa Minh.Người ta cho rằng chính Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với thánh nhân để chỉ cho ngài thấy rằng Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện hữu hiệu nhất để chống lại lạc giáo mà không cần đến bạo lực.Thánh Antôn Padua cũng rao giảng chống lại lạc giáo của những người Cathar, đến mức ngài được gọi là “cái búa dành cho kẻ lạc giáo”.
Một người bảo vệ đức tin vĩ đại khác chống lại những người lạc giáo chính là Thánh Augustinô. Chính thánh nhân đã tìm thấy đức tin sau một hành trình gian nan trong nghi ngờ và học hỏi. Ngài đã rao giảng và đã viết chống lại những người theo thuyết Manikê (Manicheans), Đônatô (Donatists) và Pêlagiô (Pelagians). Trong khi làm như thế, Thánh Augustinô đã trao tặng cho toàn thể Giáo Hội tư tưởng thần học sâu sắc của mình, những công trình đó đã làm cho ngài được tôn phong làm một trong số các Tiến sĩ Hội Thánh.
Tiền định và sự phủ nhận ý chí tự do: thuyết Jansen (Jansenism) đã được phát triển vào thế kỷ 17 và 18, và đã bị Giáo Hội nhiều lầnlên án.Tuy nhiên, phản ứng của người Công giáo đối với lạc giáo này đã vượt thắng tất cả nhờ vào việc khai mở lòng sùng kính đối với Thánh Tâm Chúa Giêsu, một lòng sùng kính có ý hướng về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cuối cùng, chủ nghĩa Hiện đại (modernism) là một trong những lạc giáo gần đây nhất.Chủ thuyết này là một nỗ lực để điều chỉnh đức tin cho phù hợp với tinh thần duy lý của thời đại, và thậm chí ngày nay, người ta còn cảm nhận được ảnh hưởng của nó khi đức tin bị hạ thấp xuống thành một chủ nghĩa duy cảm (sentimentalism ) và thân mật (intimism) nào đó.Trong thông điệp lên án lạc thuyết này, Đức Giáo Hoàng Piô X đã nói về chủ nghĩa Hiện đại như một “tổng hợp của tất cả các lạc giáo” trong số những lạc giáo nguy hiểm nhất trong lịch sử của Giáo Hội.
Nhiều lạc giáo và các giáo thuyết sai lạc về Kitô giáo khác đã nối tiếp nhau qua nhiều thế kỷ.Đối với chúng ta là những tín hữu, Sách Giáo Lý có thể là một nguồn vững chắc để đào sâu kiến thức về đức tin và bảo vệ chúng ta khỏi những sai lầm có thể xảy ravề giáo thuyết.
Tác giả: Marinella Bandini
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
Tại sao lại có Luyện ngục?
Tại sao lại có Luyện ngục?
Xuất hiện ngay sau Địa ngục và trước Thiên đường, phần thứ hai trong tác phẩm Thần khúc (Divina Commedia) của Dante là Purgatorio – Luyện ngục.
Ảnh: “Sự êm dịu của Thánh Tâm Chúa Giêsu và các linh hồn nơi luyện ngục” ở nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại Vienna. Renata Sedmakova / Shutterstock.com
Trong khúc thứ chín, Dante đặt những lời này vào miệng của vị thiên thần bảo vệ cổng Luyện ngục, người đang trình ra những chiếc chìa khóa của mình, để nói với người nghe:
Tôi giữ chúng từ Thánh Phêrô – người đã bắt lỗi tôi
Thay vì mở ra thì lại đóng chặt.
Trong bài thơ, cũng như trong giáo huấn của Giáo Hội, Luyện ngục chỉ có thể được hiểu một cách chính xác như là một biểu hiện của lòng thương xót vô biên từ Thiên Chúa. Vì đây không phải là một nơi trừng phạt mà là một nơi, do sự khoan hồng của Thiên Chúa, những tội nhân biết ăn năn sám hối được chuẩn bị sẵn sàng để vào Thiên đàng.
Trong khi niên lịch của Giáo Hội không có ngày lễ nào về Luyện ngục, thì thay vào đó chúng ta có một ngày lễ tương đương. Ngày đó rơi vào ngày 2 tháng 11, ngay sau lễ Các Thánh, và được gọi là Ngày Các Đẳng Linh Hồn. Đây là lúc Giáo Hội khuyến khích chúng ta cầu nguyện, đặc biệt cho những người đã khuất – vợ/chồng, con cái, thành viên gia đình, bạn bè và nhiều người khác – những người mà chúng ta tin tưởng và hy vọng ít là đang ở trong Luyện ngục. Năm nay, chúng ta cũng có thể cầu nguyện cho Dante nhân kỷ niệm 700 năm ngày mất của ông, sự kiện mà chúng ta vừa ghi nhận vài tuần trước.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đưa ra một tuyên bố cô đọng về giáo thuyết liên quan đến Luyện ngục như sau: “Những người chết trong ân sủng và tình thân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào hưởng niềm vui thiên đàng”(GLHTCG, số 1030).
Bên cạnh sự quan tâm tất nhiên dành cho những người thân yêu, thì quyền lợi bản thân cũng làm cho chúng ta phải lưu ý đến viễn cảnh Luyện ngục dành cho chính mình. Như Thánh John Henry Newman đã chỉ ra, “theo một nghĩa nào đó, tất cả các Kitô hữu đều chết với phần công việc chưa hoàn thành.” Luyện ngục là nơi các bước hoàn thiện sau cùng được thêm vào.
Thánh Newman đã từng đưa ra quan điểm về “Trạng thái Trung gian” nơi một trong những bài giảngcủa mìnhkhi còn ở trong Anh giáo. Giống như nhiều người không phải là Công giáo khác, trước khi trở lại đạo, ngài đã do dự về ý tưởng liên quan đến Luyện ngục, nhưng rồi ngài cũng đã nhận ra sự cần thiết của một “khoảng thời gian thanh luyện” giữa cái chết và thiên đàng, và coi đó là “niềm an ủi lớn lao” cho bất kỳ ai có suy nghĩ nghiêm túc về những vấn đề như vậy.
Như vậy, ngày naycó hai lý do lớn để làm như thế.
Theo Thánh Newman, đó là điều chúng ta phải làm đối với nhiều người bên ngoài có vẻ lơ đễnh, không biết ăn năn, hay có đôi chút khờ dại không chịu hoán cải vào giờ lâm chung để có thể giúp đỡ họ đến cùng. Giờ đây, Giáo Hội dành cho những người như vậy một sự ân cần vô cùng và rồi cũng mời gọi họ lưu tâm đến những Điều Chung Cuộc theo truyền thống – bao gồm Thiên đàng và Địa ngục cùng với Luyện ngục.
Một lý do quan trọng khác cho việc nhớ đến những người trong Luyện ngục mà chúng ta gọi là “Các đẳng Linh hồn” là bổn phận đúng đắn mà chúng ta phải làm qua việc giúp đỡ họ bằng lời cầu nguyện và sám hối, cũng như chúng ta cũng hy vọng rằng người khác sẽ làm cho chúng ta như thế khi thời điểm và nhu cầu cần đến. Thánh Catarina thành Genova (1447-1510), một vị thánh nổi tiếng về việc hy sinh phục vụ người bệnh và người nghèo cũng như về những kinh nghiệm thần bí của mình, đã diễn tả như sau trong khảo luận về Luyện ngục của mình:
“Đấng Toàn Năng rất mực tinh tuyền… đến nỗi nếu một người ý thức được đôi chút dấu vết của sự bất toàn và đồng thời hiểu rằng Luyện ngục đã được ấn định để loại bỏ những khiếm khuyết đó, thì linh hồn bước vào nơi thanh tẩy này sẽ vui lòng đón nhận một lòng thương xót lớn lao như thế từ Thiên Chúa… Nỗi đau đớn lớn của những linh hồn đau khổ này là đã phạm tội chống lại Đấng Tốt Lành thánh thiêng và đã không trở nên hoàn thiện ở đời này.”
Tác giả: Russell Shaw
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên