2021
Giật chuộng nhà thờ để làm gì?
Giật chuộng nhà thờ để làm gì?
Trong bộ giáo luật hiện hành, không còn thấy nói tới chuông nhà thờ nữa. Như vậy có nghĩa là từ nay có thể dùng chiêng trống phèn la, chứ không cần phải giật chuông trong các nghi lễ phụng vụ nữa, phải không?
Trước hết, chúng ta nên ghi nhận là so với bộ luật cũ, thì quả là có khoảng trống lớn trong giáo luật hiện hành về vấn đề chuông. Bộ luật cũ đã dành ra ba điều luật để nói tới chuông nhà thờ (612, 1169, 1185). Cách riêng điều 1169 quy định khá chi tiết về chuông nhà thờ, trong 5 khoản:
$1. Mỗi nhà thờ nên có chuông, để mời gọi các tín hữu đến tham dự phụng vụ và các việc đạo đức.
$2. Các chuông nhà thờ cần được cung hiến hay chúc lành dựa theo các nghi thức ấn định trong các sách phụng vụ.
$3 Việc sử dụng chuông tùy thuộc hoàn toàn vào thẩm quyền của nhà chức trách Hội thánh.
$4. Ngoại trừ những điều kiện do người đã dâng cúng chuông đã đặt ra và đã được Bản quyền châu phê, một khi chuông đã được chúc lành thì không được dùng vào những mục tiêu phàm tục, đừng kể khi có lý do chính đáng và có phép của Bản quyền, hoặc do tục lệ hợp pháp.
Sau cùng khoản 5 nói tới ai có thẩm quyền cung hiến hoặc chúc lành chuông.
Vậy nếu bộ luật hiện hành không còn nói tới chuông nhà thờ nữa, thì hiểu là từ nay Giáo hội để tùy tiện, ai muốn treo chuông hay treo trống cũng được, và cũng chẳng cần phải cung hiến hay chúc lành gì nữa, phải không?
Nói rằng không còn có luật lệ gì về chuông nhà thờ thì không đúng. Chúng ta sẽ để cho các sử gia tìm hiểu lý do tại sao bộ luật mới không còn nói đến chuông nhà thờ nữa. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng trong sách nghi lễ phụng vụ dành cho các Giám mục (Caerimoniale episcoporum) do bộ Phụng tự xuất bản năm 1984 (nghĩa là một năm sau bộ giáo luật), có một chương dành cho việc chúc lành chuông nhà thờ, với nghi thức lấy từ quyển ₡De Benedictionibus‛ được ban hành cùng năm. Điểm đầu tiên cần được ghi nhận là sách phụng vụ không còn nói tới cung hiến hoặc chúc lành (consecratio vel benedictio) chuông như trước, mà chỉ nói tới ‛chúc lành‛ mà thôi. Trong bộ luật cũ, việc cung hiến bao gồm việc xức dầu thánh; còn từ nay thì không còn xức dầu thánh trên chuông nữa, mà chỉ còn rảy nước thánh. Các nghi thức rửa chuông phỏng theo nghi thức rửa tội cũng bị bỏ luôn. Điều thứ hai đáng ghi nhận là việc chúc lành chuông không còn dành cho đức Giám mục như trước (nhất là vì hồi đó còn có chuyện cung hiến), nhưng mà có thể được cử hành bởi cha sở hay linh mục quản đốc thánh đường. Điều thứ ba cần ghi nhận là chuông chỉ cần chúc lành khi được sử dụng sau khi đã có nhà thờ. Còn khi chuông được khánh thánh cùng lúc với nhà thờ mới, thì không cần phải làm lễ chúc lành riêng cho các chuông, bởi vì việc cung hiến và chúc lành nhà thờ bao gồm luôn việc chúc lành các vật dụng phụng tự (như là: chuông, đàn, tượng ảnh, vv). Đó là ba chi tiết quan trọng dưới khía cạnh pháp lý (nghĩa là xét về thẩm quyền và chất liệu). Còn dưới khía cạnh huấn giáo mục vụ, còn có những chi tiết khác mà sách phụng vụ muốn nêu bật trong các bài giảng và lời nguyện, tiên vàn là vai trò của chuông đối với đời sống cộng đoàn. Thường thì chúng ta coi cái chuông như dấu báo hiệu sắp sửa tới giờ lễ rồi. Chuông ra như có vẻ mời mọc thúc giục các tín hữu chuẩn bị đi nhà thờ. Thế nhưng, ngoài cái vai trò giục giã như vậy, ta cũng có thể gán cho nó vai trò quy tụ, triệu tập các tín hữu lại để cùng nhau thờ phượng Chúa.
Nhưng mà có nơi còn giật chuông tử nữa, chứ đâu phải chỉ có giật chuông để báo hiệu sắp tới giờ lễ?
Đúng như vậy, chính vì thế mà vừa rồi tôi có nói tới vai trò của tiếng chuông trong đời sống cộng đoàn. Nó không những chỉ giục giã các tín hữu tới nhà thờ đọc kinh cầu nguyện, nhưng nó còn thông báo những biến cố quan trọng của cộng đoàn. Nhiều nơi có thói tục giật chuông để loan báo có một người vừa tạ thế, mà ta gọi là chuông tử. Có nơi giật chuông khi có tin vui, tựa như khi cử hành đám cưới, hay là tiếp đón một thượng khách (thí dụ đức Giám mục giáo phận đến thăm). Và mới đây vài cha sở bên Italia cho giật chuông khi một em bé mới chào đời. Dù sao, thì từ lâu, tục lệ dân gian đã tóm lại 6 vai trò của chuông qua hai câu thơ bằng tiếng La-tinh như sau: Laudo Deum, plebem voco, congrego clerum, defunctos ploro, pestem fugo, festa decoro: tôi ca ngợi Chúa, kêu gọi nhân dân, triệu tập giáo sĩ, thương khóc người chết, đuổi xa dịch tễ, thông báo lễ lạc.
Chắc ai cũng hiểu rõ những chức phận vừa kể. Nhưng sao lại có chuyện xua đuổi dịch tễ?
Tôi không rõ cho lắm. Tuy nhiên, có điều chắc là tại nhiều miền thôn quê, mỗi khi trời bị phủ mây đen nghịt báo sắp có mưa to, thì người ta giật chuông nhà thờ. Để làm gì vậy? Thưa là để tránh cho khỏi sét đánh. Đây không phải là chuyện mê tín dị đoan, nhưng có căn bản khoa học: việc giật chuông sẽ gây ra những làn sóng trên không trung, đánh tan bầu khí nặng nề, tức là môi trường tích tụ tiếng sét. Nói thế không có nghĩa là các tháp nhà thờ không cần cột thu lôi nữa.
Đó là các vai trò cổ truyền của chuông nhà thờ. Nhưng nó đã thuộc vào quá khứ xa xưa rồi, và gắn liền với văn minh Âu Tây. Ngày nay đã đến lúc, chúng ta phải trở về với văn hóa dân tộc. Vì thế, thay vì giật chuông, tại sao mình không dùng trống chiêng?
Chuyện thay thế chuông nhà thờ bằng trống chiêng thì không thuộc thẩm quyền của tôi. Thực ra thì kể cả trong bộ giáo luật cũ cũng không có việc bắt buộc mỗi nhà thờ phải có chuông: nhà lập pháp chỉ nói là ₡nên có‛ (convenit). Nên biết là các sử gia đều đồng ý rằng việc sử dụng chuông vào việc phụng tự không hề gắn liền với Kitô giáo. Thực vậy, các tài liệu lịch sử cho thấy là các chùa bên Trung quốc đã sử dụng chuông từ xa xưa, hàng chục thế kỷ trước công nguyên. Còn về phía Kitô giáo, thì mãi tới thế kỷ V-VI mới thấy nói tới, và trở thành thông dụng từ thế kỷ VII. Dù sao, dù không sành điệu về âm nhạc, người ta có thể nhận thấy có sự khác biệt giữa tiếng chuông chùa với tiếng chuông nhà thờ. Chuông chùa có vẻ trầm hơn, và đánh từ từ từng tiếng một; còn chuông nhà thờ thì thanh hơn, và thường đánh liên hồi. Và nói chung thì các nhà thờ càng sang thì không những người ta gắn chuông to mà lại còn liệu cho thật nhiều chuông nữa. Xét về chuông to, thì giải quán quân được dành cho các ngôi nhà thờ tại Mơscơva, với những quả chuông nặng 65 tấn. Còn xét về bộ, thì có nơi làm thành giàn 14-15 chiếc, với những cung độ của nó, có thể đánh thành bài hát. Thực ra, thì một số chức năng của chuông nhà thờ nay đã bị lấn át rồi, trong số đó, phải nói tới chức năng báo giờ. Lúc đầu, trong các đan viện, người ta giật chuông để báo cho các tu sĩ giờ giấc khi thức dậy, đọc kinh, làm việc, vv. Sau đó, các giáo xứ cũng giật chuông không những để báo hiệu cho các tín hữu đi nhà thờ mà để cho biết giờ nữa; một cách cụ thể là ba lần một ngày khi xướng kinh Truyền tin. Ngày nay, hầu hết các tu sĩ và tín hữu đã có đồng hồ đeo tay, nên họ không còn ngóng chuông nhà thờ nữa. Dù vậy, chúng ta cũng thấy có những hãng đồng hồ đã tạo ra cung điệu chuông nhà thờ để báo các giờ hay khắc.
Mặt khác, cũng có những nhà thờ cho quay đĩa chuông thay vì giật chuông thật; vì vậy mà chuông nhà thờ lại càng mất giá trị phải không?
Ta không nên buộc tội cho những giáo xứ đã đánh chuông giả bằng máy ampli là đã phá giá chuông thật. Có lẽ bởi vì họ quá nghèo, không đủ tiền sắm chuông đấy thôi. Thực ra thì trong lịch sử, các quả chuông lớn đã bị cạnh tranh bởi các đồng nghiệp khác, đó là các chuông nhỏ.
Các chuông nhỏ mà các chú giúp lễ vẫn lắc phải không?
Đúng như vậy. Tuy nhiên, nên lưu ý là không phải phụng vụ đã tạo ra các chuông đó đâu. Lúc đầu, nó chỉ là dụng cụ để lôi kéo sự chú ý, đã được dân Rôma sử dụng từ lâu. Tôi còn nhớ trước đây ở Việt Nam, mấy em bé đi bán kem cũng lắc cái chuông như vậy, đó là chưa nói tới các cái chuông buộc vào cổ bò hay cổ trâu. Người ta du nhập vào phụng vụ để kêu gọi nhắc nhở các tín hữu hãy chú ý vì sắp có chuyện quan trọng.
Nhưng mà càng ngày người ta càng ít xài tới chuông bé ấy trong Thánh lễ, tại sao vậy?
Lý do dễ hiểu. Trước đây, Thánh lễ được cử hành bằng tiếng La-tinh. Các tín hữu theo dõi mà không hiểu gì và cũng không thấy gì, bởi vì họ thường đứng xa bàn thờ. Bởi đó, cần có chú giúp lễ quỳ gần bàn thờ lắc chuông báo hiệu, nhất là vào hồi linh mục sắp đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu. Nên biết là vào thời Trung cổ, tại các đan viện và giáo xứ, người ta giật chuông lớn khi linh mục dâng Mình và Máu Thánh Chúa, ngõ hầu không những các người hiện diện tại chỗ mà thậm chí các người làm việc ngoài đồng cũng có thể kết hiệp thờ lạy Chúa. Một cách tương tự như vậy, người ta cũng giật chuông khi ban phép lành Mình Thánh Chúa. Dần dần, người ta thay chuông lớn bằng chuông nhỏ. Thế nhưng sau công đồng Vaticanô II, nhiều nơi thấy chuông nhỏ không còn cần thiết nữa từ khi phụng vụ được cử hành bằng tiếng bản quốc, và mọi người có thể theo dõi dễ dàng các nghi lễ diễn ra trên bàn thờ. Như chị đã biết, trước đây, bàn thờ được cất ở cuối nhà thờ và chủ tế thì quay lưng ra bổn đạo, nên chỉ có chú bé giúp lễ đứng gần đó mới biết có chuyện gì xảy ra và lắc chuông cho cộng đoàn biết. Bây giờ thì cộng đoàn không cần tới tiếng báo hiệu của chú giúp lễ nữa bởi vì họ thấy hết các hành vi của linh mục rồi.
Giuse Phan Tấn Thành, op.
2021
Kinh “Bắt Đạo”. Một tài liệu quý thời kỳ bách hại thế kỷ 19
Kinh “Bắt Đạo”. Một tài liệu quý thời kỳ bách hại thế kỷ 19
Trong chuyến về Qui Nhơn dự ngày lễ khấn và kỷ niệm ngân khánh, kim khánh của các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, ngày 21 tháng 8 năm 2010, tôi được linh mục quản lý Giáo phận trao cho cuốn Memorial Mission de Qui Nhơn 1917- 1919 và như thế ngài đã cung cấp cho gần như trọn bộ “Lưu dấu” Địa phận Qui Nhơn.
Khi lật những trang sách, tôi cảm thấy thật hạnh phúc vì quá khứ lịch sử như hiện lên qua từng con chữ. Câu chuyện của linh mục thừa sai F.M Geffroy MEP về “Con Dần”, cô gái 13 tuổi bị bắt cùng cả gia đình vì đức tin thật là cảm động. Cô bé 13 tuổi ấy đã làm các quan tòa Khánh Hòa lúc đó tức giận đến độ trở thành những tên đao phủ khát máu. Trong khi nhiều người kể cả ông bố của mình chối đạo thì cô bé Bình Cang đó đã kiên vững đến cùng. Nên nhớ vào thời kỳ đó, bị bắt bỏ tù nếu không có người nhà cung cấp thực phẩm là kể như chết đói. Làm sao có thực phẩm khi cha , mẹ, chị cả đều bị bắt nhốt. Cả gia đình phải ăn xin để sống. Sau hai năm, mẹ và chị cả chịu hết xiết đã chối đạo, rồi đến lượt thân phụ cũng quyết định bước qua thánh giá. Cô bé đau đớn lắm nhưng không thể ngăn cản được. Phần mình, em quyết theo Chúa đến cùng. Qua ba đời quan Đỗ Phước Thịnh, một con người tàn bạo, kế tiếp là quan Phạm Hành, khoan dung hơn nhưng đến Quan án Tường “ ce trọ trẹ de Huế était un véritable tigre’ ( ông quan trọ trẹ người Huế nầy quả là con hùm thật. Lời cha Geoffroy ). Quan đã buộc người cha bước qua Thánh giá mà cô gái nhỏ lại bất khẳng (không chịu chối đạo), Quan Án Trường cho đánh đập tàn nhẫn đến nỗi cô bé ngất đi và được đem về nhà giam mình đầy máu me. Hai ngày sau, dù các vết thương c̣òn tươi rói nhưng em Dần lại bị đưa đến công đường hành hạ tiếp. Cô bé lại bất tỉnh nhân sự và bị lôi ra bỏ ng̣oài bờ rào vì tưởng chết. Nhưng Sáu Sự, người Phú Yên không chối đạo đã ẵm cô bé vào và cho nằm sấp bất động. Đau đớn nhưng cô bé không hề rên la. Sáu Sự cố gắng đem ra sân gạt ḍi bọ trên các vết thương , tắm rửa và 15 ngày sau, cố bé đã chết trong nổi đau đớn tột độ. Câu chuyện khá dài kể thêm kết cục bi thảm của viên quan bất nhân…chết thối tha và xác cũng chìm mất trên biển cùng với của cải vơ vét.
Sự việc nầy xảy ra vào năm 1860, Tự Đức năm thứ 12. Quan án Tường cũng cho chặt đầu bà Bề Trên nhà Phước Mến Thánh Giá Chợ Mới, chú Giuse Hữu, con trai Trùm Ngữ Chợ Mới và cháu ruột của Cậu Bảo. Ông cũng chém đầu sáu giáo dân Bắc Kỳ thuộc khu vực các Giáo sĩ Tây Ban Nha. Các vị bị lưu đày đến vùng đất nầy mà nghe đâu trong số đó có một vị phó tế.
Hai trăm năm trước , vào năm 1665, cô bé Luxia Kỳ, 13 tuổi chết bị voi dày cũng vì đức tin tại Thanh Chiêm đã từng làm sững sờ bao người. Rất tiếc dù được ca tụng nhiều các em vẫn chưa được đưa lên bậc chân phước. Ước mong tấm gương các em sẽ giúp giới trẻ nữ công giáo noi theo, can đảm với thánh giá hằng ngày và sống gương mẫu giữa một thế giới sa đọa.
Hy vọng Giáo xứ Chợ Mới, Giáo phận Nha Trang nơi xác các vị tử đạo được cải táng vẫn c̣òn lưu giữ những thánh tích của các đấng chứng nhân đức tin kể trên.
Điều tôi muốn không chỉ là tuyên dương cái chết của em mà còn ghi lại một kinh rất lạ. Ông Trùm Nên ở Chợ Mới một ngày hỏi em, khi bị đánh, em có đau không. Em nói rằng “ Con cảm thấy đau lắm, nhưng con cố gắng không nghĩ đến chuyện đó nữa. Khi người ta bắt đầu đánh con, thì con cũng bắt đầu đọc kinh bắt đạo và lại đọc lại khi đến cuối kinh, và con chỉ ngừng đọc khi người ta không c̣òn đánh con nữa”.
Kinh bắt đạo là kinh gì?
May mắn thay, linh mục Geoffroy đã cho in kinh bắt đạo nầy vào cuối câu chuyện. Kinh nầy trích từ sách thiên (sách giáo lý công giáo) chữ nôm in tại Gia Hựu năm 1864. Bốn năm sau cái chết của em Dần. Như vậy kinh nầy trước đó đă được giáo hữu xử dụng để cầu nguyện.
Tên bình dân là kinh bắt đạo nhưng tên kinh là Kinh dốc lòng giữ đạo cho trọn ( Hễ khi bắt đạo thì hằng ngày ban hôm phải đọc kinh sau nầy).
Lạy Chúa tôi, là Đứng ( Đấng) đã dựng trời đất muôn vật, và sinh ra tôi ở đời nầy mà thờ phượng Chúa, nên chính việc tôi phải làm, là tin cậy yêu mến giữ đạo Chúa cho trọn. Mà bởi tội lỗi tôi, nên Chúa đã lấy lòng thương xót mà cho Ngôi Hai xuống thế làm người chịu nạn chịu chết mà cứu lấy tôi, cho khỏi sa địa ngục vô cùng: mà rày tôi chẳng muốn chịu sự khó, mà báo nghĩa Chúa đă thương tôi ngần ấy sao? Ấy vậy từ nầy về sau, dầu tôi phải chịu bắt trói, gông cùm, tù rạc, lưu giam; dầu phải đày đọa, bỏ cha mẹ vợ con của cải; dầu phải gia hình kiềm khảo, chết dữ dằn độc ác thế nào vì đạo Chúa, thì tôi sẵn lòng mà chịu những sự ấy, và tin thật mỗi hình khổ mà kẻ dữ làm khổ cho tôi bây giờ, sánh chẳng bằng một chút hình khổ xưa Chúa đă chịu vì tôi. Vả lại sự dữ tôi phải chịu bây giờ, thì chóng qua chóng hết, mà phần thưởng Chúa dành cho tôi trên nước Thiên đàng, thì vô cùng vô tận. Vậy tôi xin Chúa ban ơn sức mạnh vững vàng cho tôi, đặng bền lòng từ nầy về sau thà chịu mọi hình khổ , dầu rất dữ thế nào cho đến chết, chẳng thà bỏ đạo Chúa tôi, cho đặng sống tạm đời nầy mà ngày sau phải chịu hình phạt vô cùng trong địa ngục. Amen.
Hội An ngày 22 tháng 8 năm 2010.
Linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng sưu tầm.
NB : Viết dựa vào Mémorial de Qui Nhơn No 145, 4 Novembre 1917, trang 155-162.
2021
Giuđa Phản Bội, Phêrô Chối Thầy và Người Trộm Lành dạy cho chúng ta những bài học gì?
Giuđa Phản Bội, Phêrô Chối Thầy và Người Trộm Lành dạy cho chúng ta những bài học gì?
Hỏi: Nhân Mùa Chay, xin cha giải thích ý nghĩa việc Giuđa phản bội, người trộm lành sám hối và Phêrô chối Chúa như được ghi lại trong trong các Tin Mừng.
Trả lời: Mùa chay là thời điểm thuận lợi nhất để Giáo Hội mời gọi con cái mình suy niệm sâu xa hơn nữa về tình thương bao la của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu mọi đau khổ, sỉ nhục và chết trên thập giá để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội và có hy vọng được sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Nước Trời .
Mùa chay cũng là mùa sám hối, thúc dục mọi tín hữu nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin Chúa nhân lành khoan dung thứ tha vì Người “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”. ( 1Tm 2:4)
Thiên Chúa là Cha rất nhân lành..Người “chậm giận và giầu tình thương”. Vì thế, ai có lòng trông cậy và kêu xin thì dù cho tội lỗi đến đâu cũng sẽ được tha thứ.Chỉ có sự tuyệt vọng, không còn muốn xin Chúa thương xót tha thứ nữa mới làm bế tắc tình thương bao la của Thiên Chúa cho con người mà thôi
Sau đây là nhũng bài học ta có thể rút ra từ việc Phêrô chối Thầy, Giuđa bán Chúa và người trộm lành sám hối.
Tin Mừng Matthêu, Marcô, Luca và Gioan đều ghi lai sự kiên Phêrô chối Thầy, Giuđa Ít-ca-ri-ốt , một trong 12 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã phản bội Thầy, bán Thầy và tuyệt vọng đến mức treo cổ tự tử sau đó. (Mt 27: 5)
Riêng Tin Mừng Luca ghi lại sự kiên “Người gian phi sám hối và được vào Thiên Đàng với Chúa Giêsu”.
1- Trường hợp của Giuda
Giuđa tượng trưng cho lớp người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa để phản bội người khác, kể cả ân nhân. Giuđa là một trong Nhóm 12 Tông Đồ nòng cốt mà Chúa Giêsu đã chọn lựa cho tham gia vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa từ lúc ban đầu. Giuđa đã được diễm phúc sống bên Chúa suốt 3 năm, đã được trực tiếp nghe lời giảng dạy của Chúa về Nước Trời, về tinh thần khó nghèo cũng như chứng kiến tận mắt đời sống khó nghèo của Chúa ở mức “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20). Vậy mà Giuđa đã không được cảm hóa theo gương khó nghèo của Chúa. Vì thế Giuda đã cam tâm bán Chúa lấy 30 đồng bạc. Nhưng khi chứng kiến cảnh Thầy mình bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn, Giuđa đã hối hận đem tiền trả lại bọn thượng tế và kỳ mục Do Thái rồi đi thắt cổ chết. Hắn tự tử vì quá tuyệt vọng, không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương, tha thứ của Chúa nữa. Đây là điều rất đáng buồn cho anh ta và là gương xấu cho người khác.
Thật vậy, Giuđa đã trở thành gương xấu không những vì tham mê tiền của, phản bội mà nhất là tuyệt vọng về lòng xót thương của Chúa. Đây là điều đáng nói nhất về người môn đệ phản bội này, vì y đã mất hết niềm tin vào Thiên Chúa nhân lành, sẵn lòng tha thứ hết mọi tội lỗi của con người trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội tuyệt vọng không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương tha thứ của Chúa nữa.Giuđa đã phạm tội này khi tự tử chết.
Chúa Giêsu đã than thở như sau về sự phản bội của Giuđa: “…Con đã canh giữ và không một ai trong họ phải hư mất trừ đứa con hư hỏng để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” ( Ga 17: 12)
lại nữa: “…đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26: 24; Mc 14: 21)
Dầu vậy, Giáo Hội cũng không dám kết luận chắc chắn về số phận đời đời của Giuđa. Việc này chỉ có một mình Thiên Chúa biết vì Người đã phán đoán Giuđa theo lượng từ bi và công bằng của Người.
Ngược lại , Giáo Hội chỉ lưu ý con cái mình về gương xấu của Giuđa mà thôi. Gương xấu vì Giuđa đã mê tiền của hơn yêu mến Thầy, nên đã phản bội Thầy khi bán Người lấy 30 đồng bạc của các Thượng Tế và kỳ mục Do Thái. Nhưng điều đáng nói nhất về Giuđa là sự tuyệt vọng của anh, khi không còn muốn sám hối để xin Chúa tha thứ nữa, để rồi đi treo cổ tự tử (cf. Mt 27:5). Đây là gương xấu mà mọi tín hữu phải xa tránh vì thực chất của nó là mất hết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa, là Cha nhân từ luôn sẵn lòng tha thứ cho kẻ có tội biết sám hối và xin tha thứ.
2- Phêrô chối Chúa
Ngược lại với Giuđa là kẻ nêu gương xấu về tham tiền và tuyệt vọng, Phêrô lại dạy cho chúng ta bài học quý giá về lòng ăn năn sám hối.
Phêrô cũng có khuyết điểm là quá tự tin nơi mình khi tuyên bố lúc ban chiều trước khi Chúa Giêsu bị bắt: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” ( Mt 26:35)
Nhưng đúng như lời Chúa đã nói trước là đêm đó gà chưa gáy sáng thì Phêrô đã chối Chúa ba lần. Nhưng chối xong và nhớ lại lời Chúa đã nói trước, Phêrô “ra ngoài khóc lóc thảm thiết” (cf. Mt 26: 75, ; Lc 22: 62). Ông khóc vì ăn năn hối hận đã hèn nhát chối Thầy trước những kẻ bắt bớ và hành hạ Người cách tàn nhẫn. Chính vì thật sự thống hối ăn năn mà Chúa đã tha cho Phêrô tội công khai chối Chúa và còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21: 15-16).
Như thế đủ cho ta thấy là dù tội lỗi con người có nặng đến đâu, nhưng nếu biết sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa thì chắc chắn sẽ được tha thứ và nối lại tình thân với Người, sau khi đã lỡ sa ngã vì yêu đuối của nhân tính do hậu quả của tội nguyên tổ còn để lại.
3- Người gian phi sám hối (Lc 23 : 40-42)
Tin Mừng Luca kể rõ hai tên gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu, một đứa bên phải, một đứa bên trái, trong khi Matthêu nói đó là hai tên cướp ( Mt 27: 38). Chúng bị đóng đinh vì tội trôm cướp, và một trong hai tên gian phi này đã nhận biết tội của mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 42-43)
Như thế, chỉ có lòng ăn năn sám hội thực sự là đáng kể vì là điều đẹp lòng Chúa, và Người sẽ tha hết mọi tội lỗi cho những ai nhận biết mình có tội và xin Chúa thứ tha. Người gian phi sám hối hay còn được gọi là “kẻ trộm lành” đã vào Thiên Đàng bằng đường tắt nhanh chóng chỉ vì biết ăn năn sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa để xin tha thứ.
Người trộm lành này đã từng đi đàng tội lỗi không biết là bao nhiêu năm, nên bị đóng đanh vì những trọng tội mà xã hội Do Thái phải trừng phạt bằng cực hình đóng đanh. Nhưng Chúa đã tha thứ cho anh mọi tội, từ tội nguyên tổ cho đến mọi tội cá nhân anh đã phạm cho đến ngày bị đóng đanh chung với Chúa, là Người lành vô tội, nhưng đã cam lòng chiu khổ hình thập giá để đền thay cho nhân loại đáng phải phạt vì tội.
Dĩ nhiên chúng ta không thể bắt chước “người trộm lành” bằng cách cứ sống tội lỗi rồi cuối cùng sám hối xin Chúa tha thứ để được vào Nước Trời. Ta chỉ có thể noi gương tốt của anh về lòng sám hối và tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để xin Người tha thứ mọi tội cho ta đã lỡ sa phạm vì yếu đuối của bản chất và vì ma quỉ cám dỗ. Nhưng ta không thể bắt chước anh ta làm những việc sai trái hay đối nghịch với tình thương, sự thánh thiện và công bằng của Chúa để chờ xin tha thứ vào phút chót. Không ai có thể biết ngày giờ nào mình phải ra đi, nên không thể liều mình sống trong tội chờ ngày sám hối được. Cố ý sống như vậy là lợi dụng lòng thương xót, tha thứ của Chúa. Và nếu ai cố ý liều lĩnh như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh cáo nghiêm khắc sau đây:
“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn đi, nhưng vì người hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3: 15-16)
Tóm lại, điều thiết yếu là ta phải cố gắng xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội là cản trở duy nhất cho ta sống đẹp lòng Chúa mỗi giây phút của đời mình trên trần thế này. Tuy nhiên, vì bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, nhất là vì ma quỉ luôn rình rập để lôi kéo ta vào vòng tội lỗi, nên cần thiết cho ta phải xin ơn Chúa giúp sức để có thể đứng vững, sống theo đường lỗi của Chúa để được an vui ngay trên đời này trước khi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
2021
Mặt tích cực khi đương đầu với các lạc giáo: Một cái nhìn tổng quan
Mặt tích cực khi đương đầu với các lạc giáo: Một cái nhìn tổng quan
Qua dòng thời gian, chúng ta có thể thấy được làm thế nào mà các lạc giáo lại có thể trở nên chất xúc tác cho việc củng cố đức tin.
Ảnh: Shutterstock
Không phải tất cả những điều xấu đều gây hại. Trong lịch sử Giáo Hội, chính các lạc giáo đã giúp củng cố đức tin.Các phong trào lạc giáo đã khơi lên những nghi ngờ và những cách giải thích khác nhau về giáo thuyết Công Giáo. Trong khi các lạc giáo có thể tạo ra đau khổ và chia rẽ, thì chúng cũng giúp Giáo Hội gắn kết bền chặt hơn với chân lý và hiểu biết sâu sắc hơn những gì mà mình tin tưởng.
Một trong những lạc giáo đáng chú ý nhất là thuyết Ariô (Arianism) vào thế kỷ thứ 4. Lạc giáo này phủ nhận thần tính của Chúa Giêsu, xem Người Chúa Giêsu không khác gì so với một thụ tạo, cho dù là một thụ tạo phi thường.Sau đó, vào năm 325, chính Công đồng Nicea đã tuyên bố rằng Chúa Con “được sinh ra, chứ không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha”. Tín điều về đồng bản thể là một trong những yếu tố nền tảng của điều được gọi chính xác là Kinh Tin Kính “của Công đồng Nicea”, mà chúng ta đọc ngày nay.
Nestoriô (Nestorius), một thượng phụ của Constantinople vào thế kỷ thứ 5, đã cố gắng chống lại một lạc giáo nhưng lại tự biến mình thành một người lạc giáo: Ông đã phủ nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria, và phủ nhận con người Đức Kitô chính là Ngôi Lời được sinh ra bởi Chúa Cha.Giáo thuyết này đã bị lên án vào năm 431 bởi Công đồng Êphêsô, một Công đồng đã định tính về thiên chức làm mẹ của Đức Maria khi gắn cho Mẹ với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”.
Những người truyền bá các lạc thuyết tấn công vào sự duy nhất của đức tin, và đã bị trừng phạt bằng vạ tuyệt thông. Trong quá khứ, việc trấn áp các lạc giáo đã lên đến đỉnh điểm nơi các cuộc thập tự chinh xét theo nghĩa đen.
Đó là trường hợp của những người Cathar, những người mà học thuyết của họ đã lan truyền từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 14 ở miền nam nước Pháp và miền bắc nước Ý. Người Cathars tin vào hai nguyên lý Thiện và Ác, chối bỏ các bí tích, và khinh bỉ thân xác. Họ cũng tin rằng Chúa Giêsu chỉ là một thiên thần với hình dáng một con người. Lạc giáo đã bị lên án bởi nhiều công đồng địa phương và Công đồng Lateranô III, và sau đó, vào năm 1208, chính Đức Giáo hoàng đã kêu gọi một cuộc thập tự chinh đích thực: một cuộc chiến đẫm máu kéo dài trong khoảng 20 năm, một cuộc tận diệt theo quan điểm của nhiều sử gia.Cũng trong những năm đó, Thánh Đa Minh Guzmán, người đã tận tâm rao giảng chống lại lạc giáo Cathar, đã thành lập dòng Đa Minh.Người ta cho rằng chính Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với thánh nhân để chỉ cho ngài thấy rằng Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện hữu hiệu nhất để chống lại lạc giáo mà không cần đến bạo lực.Thánh Antôn Padua cũng rao giảng chống lại lạc giáo của những người Cathar, đến mức ngài được gọi là “cái búa dành cho kẻ lạc giáo”.
Một người bảo vệ đức tin vĩ đại khác chống lại những người lạc giáo chính là Thánh Augustinô. Chính thánh nhân đã tìm thấy đức tin sau một hành trình gian nan trong nghi ngờ và học hỏi. Ngài đã rao giảng và đã viết chống lại những người theo thuyết Manikê (Manicheans), Đônatô (Donatists) và Pêlagiô (Pelagians). Trong khi làm như thế, Thánh Augustinô đã trao tặng cho toàn thể Giáo Hội tư tưởng thần học sâu sắc của mình, những công trình đó đã làm cho ngài được tôn phong làm một trong số các Tiến sĩ Hội Thánh.
Tiền định và sự phủ nhận ý chí tự do: thuyết Jansen (Jansenism) đã được phát triển vào thế kỷ 17 và 18, và đã bị Giáo Hội nhiều lầnlên án.Tuy nhiên, phản ứng của người Công giáo đối với lạc giáo này đã vượt thắng tất cả nhờ vào việc khai mở lòng sùng kính đối với Thánh Tâm Chúa Giêsu, một lòng sùng kính có ý hướng về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cuối cùng, chủ nghĩa Hiện đại (modernism) là một trong những lạc giáo gần đây nhất.Chủ thuyết này là một nỗ lực để điều chỉnh đức tin cho phù hợp với tinh thần duy lý của thời đại, và thậm chí ngày nay, người ta còn cảm nhận được ảnh hưởng của nó khi đức tin bị hạ thấp xuống thành một chủ nghĩa duy cảm (sentimentalism ) và thân mật (intimism) nào đó.Trong thông điệp lên án lạc thuyết này, Đức Giáo Hoàng Piô X đã nói về chủ nghĩa Hiện đại như một “tổng hợp của tất cả các lạc giáo” trong số những lạc giáo nguy hiểm nhất trong lịch sử của Giáo Hội.
Nhiều lạc giáo và các giáo thuyết sai lạc về Kitô giáo khác đã nối tiếp nhau qua nhiều thế kỷ.Đối với chúng ta là những tín hữu, Sách Giáo Lý có thể là một nguồn vững chắc để đào sâu kiến thức về đức tin và bảo vệ chúng ta khỏi những sai lầm có thể xảy ravề giáo thuyết.
Tác giả: Marinella Bandini
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên