2021
Mẹ Maria và Thánh Thể
Mẹ Maria và Thánh Thể
Có nhiều bậc thánh nhân, như thánh Phêrô Damien, thánh Bênađô , thánh Bônaventura, thánh Bernadine . . . đã đồng thanh nói rằng, Chúa Giêsu đã thành lập Bí tích Thánh Thể, trước hết cho Mẹ Maria, rồi qua Mẹ Maria, Đấng trung gian mọi ân sủng, cho tất cả chúng ta.
Vì thế, xuất thân từ Đức Maria về thể lý, Chúa Giêsu đã đến để Ngài được ban cho chúng ta ngày qua ngày; và trong Chúa Giêsu, thịt vô nhiễm và máu trinh nguyên của Mẹ Người luôn luôn thấm nhập vào chúng ta, và làm cho linh hồn chúng ta say men tình ái.
Dựa vào lời xác tín của các thánh nói trên, chúng ta cùng suy niệm chủ đề: Mẹ Maria trong tương quan với Bí tích Thánh Thể . Phần suy niệm này xoay quanh khuôn khổ: Thịt bởi thịt tôi, máu bởi máu tôi.
- GIỜ CỦA MẸ – GIÁNG SINH – NHÀ BÁNH
- Giáng Sinh.
Nhìn vào bối cảnh Giáng Sinh, chúng ta nhận thấy Giáng Sinh là một mầu nhiệm đơn sơ, nhưng gây ngỡ ngàng, được diễn ra ở Bêlem như lời tiên báo của ngôn sứ Mica: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì nơi ngươi, vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”. (Mk 5, 1).
Bêlem là chi tộc nhỏ nhất mà Chúa ưa thích. Thiên Chúa ưa thích chọn những gì bé nhỏ để biểu dương ơn cứu độ của Người. Thiên Chúa như bị thu hút bởi sự yếu hèn của loài người chúng ta. Bởi đó, “từ nơi ngươi, hỡi Bêlem, sẽ xuất hiện vị cứu tinh…”.
- Nhà bánh.
Bêlem có nghĩa là ngôi nhà làm bánh. Ở đó, các cô gái đang nhồi bột làm bánh cho ngày Sabbat, bánh của ngày lễ. Cũng ở đó, như một bức ảnh in chồng lên, Maria, người nội trợ của Giáo Hội đang nhồi bánh của Thiên Chúa, chiếc bánh cho ngày Sabbat, một chiếc bánh mới để rạng sáng ngày Phục Sinh: Chúa Giêsu, chiếc bánh được ban cho chúng ta.
- Giờ của Maria.
Tại Bêlem, ngôi nhà bánh, giờ của Mẹ đã đến.
Theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Augustô, Giuse và Maria trở về Bêlem để khai tên vào sổ bộ. “Khi hai người đang ở đó, thì Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”. (Lc 2, 6).
Giờ của Maria đã đến, giờ của ngày Giáng Sinh. Tấm bánh đã được làm ra.
“Khi sinh con, người đàn bà cảm thấy lo buồn, vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui, vì một người con đã sinh ra trong thế gian”. (Ga 16, 21). Khi nói lời này, Chúa Giêsu muốn so sánh giờ Giáng Sinh với giờ Thương Khó, đó là hai huyền nhiệm, nhưng chỉ là một thực tại. Ở giờ Thương khó, Chúa Giêsu, Bánh Thánh Thể chính thức được ban cho Giáo Hội mãi mãi.
Cha Stêphanô Manelli nói rằng: “Thánh Thể là Bánh từ trời đã đến qua Mẹ chúng ta. Đó là bánh do Mẹ chế biến từ bột của xác thịt vô nhiễm, và được nhào trộn với sữa trinh nguyên của Mẹ”. Và thánh Augustinô đã nói: “Chúa Giêsu lấy thân xác của Người từ thân xác của Mẹ Maria”.
Đối lại với Giờ của Mẹ Maria, thì ba mưoi ba năm sau là Giờ của Chúa Giêsu, diễn ra qua cuộc Thương Khó. Lúc đó, Chúa Giêsu là Tấm Bánh được bẻ ra.
- GIỜ CỦA CHÚA GIÊSU – THƯƠNG KHÓ – TẤM BÁNH ĐƯỢC BẺ RA
- Giờ của Chúa Giêsu.
Phúc âm thánh Gioan có ghi: “Trước lễ vượt qua, Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Và Người còn nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Do đó, trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã bắt đầu một hy lễ mới, để tiếp tục ở lại với những kẻ thuộc về Người. Khi Người lập Bí tích Thánh Thể: Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán: “Nầy là Mình Ta sẽ bị nộp vì các con”. Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và phán: “Nầy là chén Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Hy lễ này rồi sẽ được hoàn tất nơi cuộc Thương Khó.
- Thương Khó.
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hiến tế từ chiều nay, thứ năm, để chiều mai, thứ sáu, Người hoàn tất trên thập giá, vì lễ hy sinh trong bữa tiệc ly và lễ hy sinh trên thập giá chỉ là một. Trong cả hai, Chúa Giêsu đã hiến mình làm lễ vật dâng hiến Chúa Cha:
* Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hiến tế cách mầu nhiệm và bí tích. Trên thập giá, Chúa Giêsu hiến tế bằng chính Mình Máu mình.
* Trong bữa tiệc ly, ý muốn hiến thân của Chúa Giêsu đã được biểu lộ qua một cử chỉ bề ngoài: Người cương quyết dấn thân chịu hy sinh đẫm máu trên thập giá. Ở đó, tấm bánh đã được bẻ ra.
- Tấm bánh được bẻ ra.
Tấm bánh được bẻ ra như thế nào ?
Trên thập giá, Chúa Giêsu chịu hiến tế: “Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Maria vợ ông Clôpas và bà Maria Macdala” (Ga 19, 25).
Mẹ Maria đã trung thành hợp nhất với Con cho đến bên thập giá. Tấm bánh mà Mẹ đã làm ra ở ngày Giáng Sinh, hôm nay, sau 33 năm, Mẹ tiến dâng trên thập giá. Mẹ đã hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng Mẹ sinh ra, để tấm bánh ấy được bẻ ra và trao ban.
Đúng vậy, Công Đồng Vatican II, trong Hiến chế về Giáo Hội đã nhắc nhỡ chúng ta nhớ lại lòng trắc ẩn của Mẹ Maria: trong tim Mẹ dội lại tất cả những gì Chúa Giêsu chịu đựng trong thân xác và linh hồn, đề cao lòng mong muốn của Mẹ được chia sẻ với hy lễ cứu chuộc của Con, và nối kết sự đau đớn tình mẹ của Mẹ với sự hiến dâng tư tế của Con. (LG 58)
Quả là một hành động yêu thương đích thực, qua đó, Mẹ dâng Con mình như của lễ hy sinh đền tội cho toàn thể nhân loại. Đến đây, ta thấy lóe lên một vấn nạn.
- Vấn nạn.
Lễ hy sinh trong bữa tiệc ly và lễ hy sinh trên thập giá là một. Vậy, tại sao dưới chân thập giá có Mẹ Maria hiện diện, còn trong bữa tiệc ly Mẹ lại vắng mặt ?
Đức Hồng Y James Hickey đã giải thích như sau: Chúa Giêsu đã yêu Mẹ rất nhiều, yêu hơn hết mọi sự, Người muốn cho chúng ta một bài học đích đáng, qua việc không đưa Mẹ Người vào trong bữa tiệc ly. Đó là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến nguồn gốc “tặng ân đến từ bên ngoài” (Extra nos) của chức tư tế trong Tân ước.
Chức tư tế trong Tân ước không do bởi tương quan huyết nhục, không do cha truyền con nối, cũng không do bởi tình trạng thánh thiện của vị tư tế, nhưng đó là “một tặng ân đến từ bên ngoài”, nghĩa là một tặng ân đến từ Chúa Cha, qua Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Nó làm cho vị tư tế có thể hoạt động trong ngôi vị Chúa Kitô (in persona Christi). Bản tính và quyền năng của chức linh mục trong Tân ước được tỏ lộ nơi Chúa Kitô và duy nơi mình Người.
Công Đồng Vatican II, Hiến chế Giáo Hội nói rằng: chức tư tế chung của tín hữu và chức tư tế thừa tác khác nhau, không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính, tuy nhiên, cả hai đều bổ túc cho nhau. (LG 10). Sự bổ túc cho nhau của chức tư tế thừa tác và chức tư tế chung được biểu lộ rõ nét ở dưới chân thập giá. Ở đó, có thánh Gioan, là một linh mục đang đứng bên Mẹ Maria.
Như vậy, Sự tách biệt nơi bữa tiệc ly là nhằm để chứng minh bản tính phẩm trật của Giáo Hội, được đi theo bởi một tổng hợp ở dưới chân thập giá. Dưới chân thập giá, có Mẹ Maria và Gioan, mỗi người như là một khía cạnh của bản tính Giáo Hội, vẫn tách biệt, nhưng cả hai được sắp đặt và cấu tạo để bổ túc cho nhau:
– Gioan được ban cho Mẹ Maria.
– Mẹ Maria được ban cho Gioan.
III. HIỆP LỄ CÓ MẸ.
Mỗi khi chúng ta rước lấy Mình Máu Chúa Giêsu, chúng ta nên ý thức rằng có sự hiện diện của Mẹ Maria.
- Lưu lại.
“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì luôn lưu lại trong Ta, và Ta ở trong người ấy”. (Ga 5, 56). Lưu lại là sự kết hiệp thật sâu xa đến nỗi sự kết hiệp nầy có tính cách thường hằng và bền vững. Được kết hiệp với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta kết hiệp với Thịt và Máu Chúa Giêsu, được lấy từ thịt và máu của Mẹ Maria. Do đó, mỗi khi chúng ta rước lễ là có sự hiện diện dịu dàng và huyền nhiệm của Mẹ Maria, Đấng liên kết bất khả phân ly với Chúa Giêsu trong hình bánh hình rượu.
Chúa Giêsu là người con mà Mẹ hằng tôn thờ. Người là xác thịt của xác thịt Mẹ. Xưa kia, Adong có thể gọi Evà, khi bà được lấy từ xương sườn của ông, rằng: “Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23), thì nay, Mẹ Maria cũng có thể có lý để gọi Chúa Giêsu là “thịt bởi thịt tôi và máu bởi máu tôi”.
Thánh Tôma Aquinô đã nói: “Được lấy từ Đức Nữ Đồng Trinh, xác thịt của Chúa Giêsu là xác thịt thuộc mẫu tính của Mẹ Maria”.
Thánh Augustinô đã dạy: “ Trong Bí tích Thánh Thể, Mẹ Maria nối dài, và làm cho tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ mãi mãi tồn tại”.
Thánh Albertô Cả ân cần khuyên: “Bạn ơi, nếu bạn muốn có kinh nghiệm về tình thân mật với Đức Maria, bạn hãy để chính bạn được ôm ấp trong cánh tay của Mẹ.
.Hãy bước đi với tư tưởng tinh tuyền khôn tả này tới bàn tiệc của Thiên Chúa, rồi bạn sẽ tìm thấy được sự nuôi dưỡng của người Mẹ bằng bữu huyết của người Con”.
- Kinh nghiệm thực hành trong Giáo Hội.
Thể hiện những tư tưởng trên, chúng ta nhận thấy rõ nét, ở kinh nghiệm thực hành các việc tôn sùng trong Giáo Hội, qua nhiều cuộc biểu dương lòng sùng kính Mẹ Maria, được kết thúc bằng việc tôn thờ Thánh Thể và Phép Lành Mình Thánh Chúa.
Đó là kết quả hợp tình hợp lý: Lòng tôn kính Mẹ Maria đã dẫn đưa các tín hữu đến lòng tôn thờ Chúa Giêsu Kitô.
KẾT
Để kết thúc bài suy niệm này, tôi xin mượn lời kinh AVE, VERUM CORPUS để ca ngợi Đức Mẹ Thánh Thể:
Con kính lạy Mình Thánh Chúa Giêsu,
Xưa bởi lòng rất thánh Đức Bà Maria,
Trọn đời đồng trinh mà ra,
Chuộc tội chịu chết trên cây thánh giá,
Cùng chịu lưỡi đòng đâm cạnh nương long,
Chảy hết máu cùng nước ra.
Con xin ngày sau, khi con qua đời,
Xin Chúa hằng nuôi lấy linh hồn con.
Ôi Giêsu khoan thay,
Ôi Giêsu nhân thay,
Con rất thánh mẫu Maria. Amen
(bản dịch trích từ sách kinh của Giáo phận Qui Nhơn)
Lm And. Phạm văn Bé
2021
14 Câu Kinh Thánh chứng tỏ chúng ta được cứu độ nhờ Bí tích Rửa Tội
14 Câu Kinh Thánh chứng tỏ chúng ta được cứu độ nhờ Bí tích Rửa Tội
“Bí tích Rửa Tội là việc sinh ra trong đời sống mới trong Đức Kitô. Theo ý muốn của Chúa, bí tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu độ cũng như chính Hội Thánh mà bí tích Rửa Tội tháp nhập vào.” (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1277)
Kinh Thánh liên kết trực tiếp Bí tích Rửa Tội với ơn cứu độ:
Mc 16,16: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.”
Ga 3,5: “Đức Giêsu đáp: ‘Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.’”(x. Ga 3,3: “nếu không được sinh ra một lần nữa…”)
Cv 2,38-41: “Ông Phêrô đáp: ‘Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.’ Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói: ‘Hãy tự cứu mình khỏi thế hệ gian tà này.’ Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.” (x. Cv 9,17-18; 1Cr 12,13: cả hai đều liên kết Chúa Thánh Thần với Bí tích Rửa Tội)
Cv 22,16: “Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa? Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người.” (x. Cv 9,17-18)
Rm 6,3-4: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta mới có thể sống một đời sống mới.”
1Cr 6,11: “Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!”
Tt 3,5: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu độ chúng ta nhờ phép rửa tái sinh và đổi mới trong Chúa Thánh Thần…”
1Pr 3,21: “…phép rửa nay cứu thoát anh em.”
Chỉ trong Cv 2,38-41, chúng ta mới biết rằng Bí tích Rửa Tội mang lại: (1) “ơn tha tội;” (2) sự ngự trị của Chúa Thánh Thần, điều mà chỉ có những ai đã được tái sinh mới có được; (3) ơn cứu độ (“hãy tự cứu mình”); và (4) được xếp vào hàng ngũ những “linh hồn” đã được cứu độ (x. Gl 3:27).
Rm 6,3-4 kết hợp máu và cái chết cứu chuộc của Chúa Giêsu vào Bí tích Rửa Tội bằng cách đề cập đến “cái chết” của Người. Điều tương tự cũng đã được đề cập đến trong một đoạn dài hơn ở 1Pr 3,14-22;4,1.
Thánh Phêrô khẳng định rằng “phép rửa…cứu thoát” chúng ta (1Pr 3,21). Nếu có một cuộc tranh luận nảy sinh về việc liệu “phép rửa có cứu được” chúng ta hay không, thì một đoạn Kinh Thánh được linh hứng chỉ ra rằng “phép rửa sẽ cứu được”, và Mc 16,16 cũng khẳng định rằng: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ.” – tất cả chẳng phải là những câu trả lời cho chính vấn đề đang được đặt ra hay sao? Làm thế nào để có thể tìm được thêm những câu trả lời nào khác rõ ràng và hiển nhiên hơn chính những câu trả lời này được?
Đoạn văn dài hơn trong 1Pr 3 rất có tính soi dẫn. Kinh Thánh thường sử dụng những điều tự nhiên làm biểu tượng cho những điều siêu nhiên – ví dụ, ngôn sứ Giôna ở trong bụng cá voi ba ngày và sau đó thoát ra mà vẫn còn sống là một biểu tượng của việc Chúa Giêsu chịu chết trong ba ngày và sau đó sống lại; nhiều dụ ngôn cũng sử dụng lối diễn tả song song như vậy.
“Được cứu” khi tham chiếu về Con tàu của Nôê có nghĩa là “sự cứu thoát” cách thể lý và hoàn toàn tự nhiên khỏi việc chết đuối. Nhưng sau đó Thánh Phêrô sử dụng từ này như một hình ảnh minh họa cho Bí tích Rửa Tội siêu nhiên, bí tích này “tương ứng” với Con tàu của Nôê như một phép loại suy (Con tàu là nguyên mẫu tự nhiên của một điều siêu nhiên).
Thánh Phêrô không nói rằng việc Bí tích Rửa Tội này “cứu thoát” chúng ta cũng chỉ đơn thuần là mang tính biểu tượng. Thánh Phêrô không hề nói như vậy! Ngài nhấn mạnh rằng Bí tích Rửa Tội này không chỉ đơn thuần là “tẩy sạch bụi bẩn khỏi cơ thể” (không chỉ đơn thuần là một điều tự nhiên, thuộc thể lý), mà còn liên quan đến việc chịu đau khổ (3,14.16-17;4,1) và được phục sinh cùng với Đức Kitô (3:21), giống như những lời Thánh Phaolô đã dạy (thậm chí còn rõ ràng hơn) trong Rm 6,3-4.
Trong khắp Tân Ước, Bí tích Rửa Tội được xem là lệnh truyền và là phương tiện mà để qua đó Giáo Hội sơ khai có thể nhận biết một người nào đó có người thuộc về đoàn chiên của mình hay không. Điều này cũng đúng với Thánh Phaolô (Cv 22,16; x. 9,17-18). Ngay sau khi được “thuyết phục” theo Kitô giáo, việc đầu tiên Thánh Phaolô làm là chịu phép rửa để tẩy sạch tội lỗi củamình.
Cv 8,12-13: “Nhưng khi họ tin lời ông Philipphê loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và về danh Đức Giêsu Kitô, thì họ đã chịu phép rửa, có cả đàn ông lẫn đàn bà. Cả ông Simôn nữa cũng đã tin theo, và sau khi chịu phép rửa, ông cứ theo sát ông Philipphê,…”
Cv 8,34-38: “Viên thái giám ngỏ lời với ông Philipphê: ‘Xin ông cho biết: vị ngôn sứ nói thế về ai? Về chính mình hay về một ai khác?’ Ông Philípphê lên tiếng, và khởi từ đoạn Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giêsu cho ông.Dọc đường, các ông tới một chỗ có nước, viên thái giám mới nói: ‘Sẵn nước đây, có gì ngăn trở tôi chịu phép rửa không?’ Ông Philipphê đáp: ‘Nếu ngài tin hết lòng, thì được.’ Viên thái giám thưa: ‘Tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.’ Ông truyền dừng xe lại. Ông Philipphê và viên thái giám, cả hai cùng xuống chỗ có nước, và ông Philipphê làm phép rửa cho ông quan.”
Bí tích Rửa Tội dành cho toàn bộ “người trong gia đình” cũng ngụ ý mạnh mẽ đến Bí tích Rửa Tội của trẻ sơ sinh:
Cv 16,14-15: “Có một bà tên là Lyđia, quê ở Thyatira, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói. Sau khi bà và cả nhà đã chịu phép rửa,…”
Cv 16,32-33: “Hai ông liền giảng lời Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy. Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức ông ấy được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà.”
Cv 18,8: “Ông Cơrítpô, trưởng hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Côrintô đã nghe ông Phaolô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa.”
1Cr 1,16: “Tôi còn làm phép rửa cho gia đình Têphana nữa…”
(Bản dịch Kinh Thánh có tham khảo của nhóm Phiên dịch các Giờ kinh Phụng vụ)
Tác giả: Dave Armstrong
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
Ba từ khóa chuẩn bị cho lễ Giáng sinh trong Mùa Vọng
Ba từ khóa chuẩn bị cho lễ Giáng sinh trong Mùa Vọng
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, Giáo hội mời gọi chúng ta lên đường để chuẩn bị cho Hài Nhi Giêsu giáng thế. Nhưng chúng ta chuẩn bị như thế nào và nhất là chuẩn bị tâm hồn mình ra sao?
Mặc dù Mùa Vọng được đánh dấu bằng một tinh thần sám hối và khổ hạnh, nhưng trên hết đó là thời gian hân hoan đợi chờ. Còn bạn, bạn mong đợi điều gì?
Chúng ta chuẩn bị tâm hồn để chào đón Thiên Chúa làm người.
Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta chờ đợi và chuẩn bị cho Hài Nhi Giêsu đến trong ngày lễ Giáng sinh. Đây là điều hiển nhiên, nhưng có lẽ bạn đã từng nghe con cái của mình – thường là các em nhỏ và thiếu niên – phản đối rằng sự mong đợi này chẳng có ý nghĩa gì: “Chuẩn bị cho lễ Giáng sinh có ý nghĩa gì không? Chúa Giêsu đã giáng sinh cách đây lâu lắm rồi, và Ngài sẽ không trở lại vào ngày 25-12. Giáng sinh cũng sẽ giống như mọi năm: cuối cùng cũng chẳng có gì xảy ra cả! Rồi sau đó cuộc sống cũng sẽ giống như trước đây: luôn có những khó khăn phải đối mặt, đau khổ, chiến tranh”. Rốt cuộc nhiều bạn trưởng thành cùng chung một suy nghĩ : “Giáng sinh là của trẻ em. Chúng tôi không mơ gì thêm: chúng tôi biết rằng Giáng sinh chẳng thay đổi được điều gì”. Đối với họ giáng sinh là một kiểu tưởng tượng làm cho những đứa trẻ ước mơ, hoặc đơn giản chỉ là một kỷ niệm: chúng ta hành động “như thể” điều này ít liên quan đến cuộc sống thực tế hôm nay, với cuộc sống thường ngày của chúng ta. Và Mùa vọng được tóm gọn trong việc chuẩn bị vật chất cho ngày lễ.
Đúng là việc nhập thể của Con Thiên Chúa đã làm cho Người đi vào lịch sử: được sinh ra tại Bêlem, một lần và mãi mãi và không “tái sinh” mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh. Nhưng việc Chúa Giêsu sinh ra là một biến cố không chỉ liên quan đến những người đương thời của Người. Chúa Giêsu không chỉ sinh ra cho Đức Maria, Thánh Giuse, các mục đồng và các đạo sĩ. Người đã được sinh ra cho tôi và cho mỗi người trong chúng ta. Ngay cả khi tôi không thể đến chuồng bò của Bêlem như các mục đồng, là những người được mời đến để chiêm ngắm và thờ lạy một con người giống như họ. Tôi không hành động “như thể”. Chính hôm nay, trong cuộc đời tôi, tôi có thể đón nhận mầu nhiệm nhập thể và sống với mầu nhiệm đó. Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem vì yêu thương tôi, đang sống thực sự và hiện tại. Chuồng bò, máng cỏ và tiếng khóc của trẻ sơ sinh thuộc về quá khứ, nhưng Chúa Giêsu đã làm người vì yêu tôi cho đến tận hôm nay. Và đây chính là ý nghĩa của lễ Giáng sinh. Nói cách khác, trong Mùa Vọng chúng ta chuẩn bị cho mình một cái nôi để đón tiếp trẻ sơ sinh, đặc biệt là chúng ta chuẩn bị tâm hồn mình để đón nhận Thiên Chúa làm người. “Nhưng chúng ta đã thực hiện việc đó từ năm ngoái rồi mà! Không có ý nghĩa gì khi thực hiện lại từ đầu!”. Năm ngoái ư! Tất nhiên, và không chỉ là năm ngoái bởi vì chúng ta được mời gọi đón nhận Chúa Giêsu mỗi ngày cơ mà. Chúng ta không phải chỉ đón nhận Người một lần vĩnh viễn, không bao giờ đủ; việc đó chưa bao giờ kết thúc. Vậy chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón nhận mầu nhiệm giáng sinh như thế nào?
Ba từ khóa làm nên nhịp điệu cho Mùa Vọng: cầu nguyện, khó nghèo và kiên nhẫn phải trở thành những chỉ dẫn đưa chúng ta hướng đến lễ Giáng sinh.
Cầu nguyện: với tư cách gia đình hay cá nhân, chúng ta phải dành thời gian nhiều hơn cho việc cầu nguyện, trong bốn tuần tách biệt với giáng sinh này. Đây là điều mọi người có thể làm: tùy thuộc vào cách tổ chức của mỗi người như thế nào. Chúng ta xin Đức Mẹ giúp đỡ chúng ta. Mẹ là người đã sống “Mùa Vọng” suốt 9 tháng, từ Truyền Tin cho đến Chúa Giáng sinh: chúng ta đừng ngại lần chuỗi mân côi, cầu nguyện cho những người nhỏ hèn, nghèo khổ. Chúng ta suy niệm dựa trên các đoạn Lời Chúa mà Giáo hội cho chúng ta nghe trong suốt Mùa Vọng. Ví dụ như, xem lại trong giờ kinh gia đình, các Thánh vịnh nói về việc mong đợi và hy vọng của dân Thiên Chúa.
Khó nghèo: chỉ cần nhìn vào hang đá và sự đơn sơ của các mục đồng, những người đầu tiên được mời gọi đến gặp Đấng Messia, đủ hiểu rằng cần một tâm hồn nghèo khó để lên đường bước vào trong mầu nhiệm giáng sinh. Điều này được cho là để giải thoát mình khỏi sự giàu có: tất cả chúng ta đều có điều đó, lúc 4 tuổi cũng như ở tuổi 50, những thứ đó không nhất thiết phải là vàng, nhưng là một chướng ngại giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mùa Vọng là thời gian để tự giải thoát và tránh xa những của cải vật chất này.
Kiên nhẫn: trong Mùa Vọng, chúng ta được mời gọi suy niệm về sự chờ đợi lâu dài của dân được chọn, những người đã mong mỏi Đấng Mêsia xuất hiện qua hàng niên kỷ. Cựu ước nhắc lại cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa biết cách “làm chủ thời gian của mình” và nhất là Ngài kiên nhẫn và nhân từ vô cùng: dân của Ngài (cũng là mỗi người chúng ta) có thể đưa ra hàng vạn lý do để từ chối chương trình yêu thương của Ngài, nhưng Chúa của chúng ta thì không bao giờ nói: “nào được ích gì? Chúng là căn nguyên bị đánh mất !”. Sự kiên nhẫn cần được học mỗi ngày, khi tôi chấp nhận chào đón các trở ngại, sự chậm trễ và thất bại với lòng thanh thản và vui tươi; khi tôi chấp nhận bước đi với tốc độ của một đứa trẻ; khi tôi phó thác trong tay Chúa mọi buồn phiền, sợ hãi trước tương lai để hoàn toàn sống cho giây phút hiện tại. Vì vậy, tất cả chúng ta hãy dành thời gian để chuẩn bị tâm hồn mình cho lễ Giáng sinh.
Tác giả: Christine Ponsard
Chuyển ngữ: Giuse Võ Tá Hoàng
2021
Giật chuộng nhà thờ để làm gì?
Giật chuộng nhà thờ để làm gì?
Trong bộ giáo luật hiện hành, không còn thấy nói tới chuông nhà thờ nữa. Như vậy có nghĩa là từ nay có thể dùng chiêng trống phèn la, chứ không cần phải giật chuông trong các nghi lễ phụng vụ nữa, phải không?
Trước hết, chúng ta nên ghi nhận là so với bộ luật cũ, thì quả là có khoảng trống lớn trong giáo luật hiện hành về vấn đề chuông. Bộ luật cũ đã dành ra ba điều luật để nói tới chuông nhà thờ (612, 1169, 1185). Cách riêng điều 1169 quy định khá chi tiết về chuông nhà thờ, trong 5 khoản:
$1. Mỗi nhà thờ nên có chuông, để mời gọi các tín hữu đến tham dự phụng vụ và các việc đạo đức.
$2. Các chuông nhà thờ cần được cung hiến hay chúc lành dựa theo các nghi thức ấn định trong các sách phụng vụ.
$3 Việc sử dụng chuông tùy thuộc hoàn toàn vào thẩm quyền của nhà chức trách Hội thánh.
$4. Ngoại trừ những điều kiện do người đã dâng cúng chuông đã đặt ra và đã được Bản quyền châu phê, một khi chuông đã được chúc lành thì không được dùng vào những mục tiêu phàm tục, đừng kể khi có lý do chính đáng và có phép của Bản quyền, hoặc do tục lệ hợp pháp.
Sau cùng khoản 5 nói tới ai có thẩm quyền cung hiến hoặc chúc lành chuông.
Vậy nếu bộ luật hiện hành không còn nói tới chuông nhà thờ nữa, thì hiểu là từ nay Giáo hội để tùy tiện, ai muốn treo chuông hay treo trống cũng được, và cũng chẳng cần phải cung hiến hay chúc lành gì nữa, phải không?
Nói rằng không còn có luật lệ gì về chuông nhà thờ thì không đúng. Chúng ta sẽ để cho các sử gia tìm hiểu lý do tại sao bộ luật mới không còn nói đến chuông nhà thờ nữa. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng trong sách nghi lễ phụng vụ dành cho các Giám mục (Caerimoniale episcoporum) do bộ Phụng tự xuất bản năm 1984 (nghĩa là một năm sau bộ giáo luật), có một chương dành cho việc chúc lành chuông nhà thờ, với nghi thức lấy từ quyển ₡De Benedictionibus‛ được ban hành cùng năm. Điểm đầu tiên cần được ghi nhận là sách phụng vụ không còn nói tới cung hiến hoặc chúc lành (consecratio vel benedictio) chuông như trước, mà chỉ nói tới ‛chúc lành‛ mà thôi. Trong bộ luật cũ, việc cung hiến bao gồm việc xức dầu thánh; còn từ nay thì không còn xức dầu thánh trên chuông nữa, mà chỉ còn rảy nước thánh. Các nghi thức rửa chuông phỏng theo nghi thức rửa tội cũng bị bỏ luôn. Điều thứ hai đáng ghi nhận là việc chúc lành chuông không còn dành cho đức Giám mục như trước (nhất là vì hồi đó còn có chuyện cung hiến), nhưng mà có thể được cử hành bởi cha sở hay linh mục quản đốc thánh đường. Điều thứ ba cần ghi nhận là chuông chỉ cần chúc lành khi được sử dụng sau khi đã có nhà thờ. Còn khi chuông được khánh thánh cùng lúc với nhà thờ mới, thì không cần phải làm lễ chúc lành riêng cho các chuông, bởi vì việc cung hiến và chúc lành nhà thờ bao gồm luôn việc chúc lành các vật dụng phụng tự (như là: chuông, đàn, tượng ảnh, vv). Đó là ba chi tiết quan trọng dưới khía cạnh pháp lý (nghĩa là xét về thẩm quyền và chất liệu). Còn dưới khía cạnh huấn giáo mục vụ, còn có những chi tiết khác mà sách phụng vụ muốn nêu bật trong các bài giảng và lời nguyện, tiên vàn là vai trò của chuông đối với đời sống cộng đoàn. Thường thì chúng ta coi cái chuông như dấu báo hiệu sắp sửa tới giờ lễ rồi. Chuông ra như có vẻ mời mọc thúc giục các tín hữu chuẩn bị đi nhà thờ. Thế nhưng, ngoài cái vai trò giục giã như vậy, ta cũng có thể gán cho nó vai trò quy tụ, triệu tập các tín hữu lại để cùng nhau thờ phượng Chúa.
Nhưng mà có nơi còn giật chuông tử nữa, chứ đâu phải chỉ có giật chuông để báo hiệu sắp tới giờ lễ?
Đúng như vậy, chính vì thế mà vừa rồi tôi có nói tới vai trò của tiếng chuông trong đời sống cộng đoàn. Nó không những chỉ giục giã các tín hữu tới nhà thờ đọc kinh cầu nguyện, nhưng nó còn thông báo những biến cố quan trọng của cộng đoàn. Nhiều nơi có thói tục giật chuông để loan báo có một người vừa tạ thế, mà ta gọi là chuông tử. Có nơi giật chuông khi có tin vui, tựa như khi cử hành đám cưới, hay là tiếp đón một thượng khách (thí dụ đức Giám mục giáo phận đến thăm). Và mới đây vài cha sở bên Italia cho giật chuông khi một em bé mới chào đời. Dù sao, thì từ lâu, tục lệ dân gian đã tóm lại 6 vai trò của chuông qua hai câu thơ bằng tiếng La-tinh như sau: Laudo Deum, plebem voco, congrego clerum, defunctos ploro, pestem fugo, festa decoro: tôi ca ngợi Chúa, kêu gọi nhân dân, triệu tập giáo sĩ, thương khóc người chết, đuổi xa dịch tễ, thông báo lễ lạc.
Chắc ai cũng hiểu rõ những chức phận vừa kể. Nhưng sao lại có chuyện xua đuổi dịch tễ?
Tôi không rõ cho lắm. Tuy nhiên, có điều chắc là tại nhiều miền thôn quê, mỗi khi trời bị phủ mây đen nghịt báo sắp có mưa to, thì người ta giật chuông nhà thờ. Để làm gì vậy? Thưa là để tránh cho khỏi sét đánh. Đây không phải là chuyện mê tín dị đoan, nhưng có căn bản khoa học: việc giật chuông sẽ gây ra những làn sóng trên không trung, đánh tan bầu khí nặng nề, tức là môi trường tích tụ tiếng sét. Nói thế không có nghĩa là các tháp nhà thờ không cần cột thu lôi nữa.
Đó là các vai trò cổ truyền của chuông nhà thờ. Nhưng nó đã thuộc vào quá khứ xa xưa rồi, và gắn liền với văn minh Âu Tây. Ngày nay đã đến lúc, chúng ta phải trở về với văn hóa dân tộc. Vì thế, thay vì giật chuông, tại sao mình không dùng trống chiêng?
Chuyện thay thế chuông nhà thờ bằng trống chiêng thì không thuộc thẩm quyền của tôi. Thực ra thì kể cả trong bộ giáo luật cũ cũng không có việc bắt buộc mỗi nhà thờ phải có chuông: nhà lập pháp chỉ nói là ₡nên có‛ (convenit). Nên biết là các sử gia đều đồng ý rằng việc sử dụng chuông vào việc phụng tự không hề gắn liền với Kitô giáo. Thực vậy, các tài liệu lịch sử cho thấy là các chùa bên Trung quốc đã sử dụng chuông từ xa xưa, hàng chục thế kỷ trước công nguyên. Còn về phía Kitô giáo, thì mãi tới thế kỷ V-VI mới thấy nói tới, và trở thành thông dụng từ thế kỷ VII. Dù sao, dù không sành điệu về âm nhạc, người ta có thể nhận thấy có sự khác biệt giữa tiếng chuông chùa với tiếng chuông nhà thờ. Chuông chùa có vẻ trầm hơn, và đánh từ từ từng tiếng một; còn chuông nhà thờ thì thanh hơn, và thường đánh liên hồi. Và nói chung thì các nhà thờ càng sang thì không những người ta gắn chuông to mà lại còn liệu cho thật nhiều chuông nữa. Xét về chuông to, thì giải quán quân được dành cho các ngôi nhà thờ tại Mơscơva, với những quả chuông nặng 65 tấn. Còn xét về bộ, thì có nơi làm thành giàn 14-15 chiếc, với những cung độ của nó, có thể đánh thành bài hát. Thực ra, thì một số chức năng của chuông nhà thờ nay đã bị lấn át rồi, trong số đó, phải nói tới chức năng báo giờ. Lúc đầu, trong các đan viện, người ta giật chuông để báo cho các tu sĩ giờ giấc khi thức dậy, đọc kinh, làm việc, vv. Sau đó, các giáo xứ cũng giật chuông không những để báo hiệu cho các tín hữu đi nhà thờ mà để cho biết giờ nữa; một cách cụ thể là ba lần một ngày khi xướng kinh Truyền tin. Ngày nay, hầu hết các tu sĩ và tín hữu đã có đồng hồ đeo tay, nên họ không còn ngóng chuông nhà thờ nữa. Dù vậy, chúng ta cũng thấy có những hãng đồng hồ đã tạo ra cung điệu chuông nhà thờ để báo các giờ hay khắc.
Mặt khác, cũng có những nhà thờ cho quay đĩa chuông thay vì giật chuông thật; vì vậy mà chuông nhà thờ lại càng mất giá trị phải không?
Ta không nên buộc tội cho những giáo xứ đã đánh chuông giả bằng máy ampli là đã phá giá chuông thật. Có lẽ bởi vì họ quá nghèo, không đủ tiền sắm chuông đấy thôi. Thực ra thì trong lịch sử, các quả chuông lớn đã bị cạnh tranh bởi các đồng nghiệp khác, đó là các chuông nhỏ.
Các chuông nhỏ mà các chú giúp lễ vẫn lắc phải không?
Đúng như vậy. Tuy nhiên, nên lưu ý là không phải phụng vụ đã tạo ra các chuông đó đâu. Lúc đầu, nó chỉ là dụng cụ để lôi kéo sự chú ý, đã được dân Rôma sử dụng từ lâu. Tôi còn nhớ trước đây ở Việt Nam, mấy em bé đi bán kem cũng lắc cái chuông như vậy, đó là chưa nói tới các cái chuông buộc vào cổ bò hay cổ trâu. Người ta du nhập vào phụng vụ để kêu gọi nhắc nhở các tín hữu hãy chú ý vì sắp có chuyện quan trọng.
Nhưng mà càng ngày người ta càng ít xài tới chuông bé ấy trong Thánh lễ, tại sao vậy?
Lý do dễ hiểu. Trước đây, Thánh lễ được cử hành bằng tiếng La-tinh. Các tín hữu theo dõi mà không hiểu gì và cũng không thấy gì, bởi vì họ thường đứng xa bàn thờ. Bởi đó, cần có chú giúp lễ quỳ gần bàn thờ lắc chuông báo hiệu, nhất là vào hồi linh mục sắp đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu. Nên biết là vào thời Trung cổ, tại các đan viện và giáo xứ, người ta giật chuông lớn khi linh mục dâng Mình và Máu Thánh Chúa, ngõ hầu không những các người hiện diện tại chỗ mà thậm chí các người làm việc ngoài đồng cũng có thể kết hiệp thờ lạy Chúa. Một cách tương tự như vậy, người ta cũng giật chuông khi ban phép lành Mình Thánh Chúa. Dần dần, người ta thay chuông lớn bằng chuông nhỏ. Thế nhưng sau công đồng Vaticanô II, nhiều nơi thấy chuông nhỏ không còn cần thiết nữa từ khi phụng vụ được cử hành bằng tiếng bản quốc, và mọi người có thể theo dõi dễ dàng các nghi lễ diễn ra trên bàn thờ. Như chị đã biết, trước đây, bàn thờ được cất ở cuối nhà thờ và chủ tế thì quay lưng ra bổn đạo, nên chỉ có chú bé giúp lễ đứng gần đó mới biết có chuyện gì xảy ra và lắc chuông cho cộng đoàn biết. Bây giờ thì cộng đoàn không cần tới tiếng báo hiệu của chú giúp lễ nữa bởi vì họ thấy hết các hành vi của linh mục rồi.
Giuse Phan Tấn Thành, op.