2021
Mẹ Maria và Thánh Gioan Tẩy Giả: Hai cách trở thành Kitô hữu
Mẹ Maria và Thánh Gioan Tẩy Giả: Hai cách trở thành Kitô hữu
Có hai cách cơ bản để gặp được Lời Chúa.
Cách đầu tiên là tiếp nhận Lời Chúa. Cách thứ hai là chia sẻ Lời Chúa. Mẹ Maria là gương mẫu cho cách đầu tiên; Thánh Gioan Tẩy giả là gương mẫu cho cách thứ hai. Giáo Hội đặt hai nhân vật này trước mặt chúng ta như những tâm điểm của việc chiêm ngắm.
Chúng ta đến được với đức tin vào Chúa Kitô nhờ việc lắng nghe lời Ngài, như Thánh Phaolô nói trong Rôma 10:17: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô.” Theo nghĩa này, Đức Maria là Kitô hữu nguyên mẫu: đức tin của Mẹ có được nhờ việc lắng nghe lời Chúa, như được sứ thần Gabriel truyền tin: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà…Nghe lời ấy, bà rất bối rối…Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa…Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”…Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Luca 1: 28,30, 35,38).
Thời điểm quyết định của Mẹ không phải trong khi Mẹ đọc Kinh thánh, khi Mẹ lãnh nhận một bí tích, hoặc khi Mẹ gặp gỡ một Kitô hữu khác. Mẹ chỉ có lời của Thiên Chúa.
Thoạt tiên, Mẹ Maria “bối rối”, thậm chí có thể sợ hãi trước lời chào của sứ thần. Khi chúng ta đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta muốn tập trung chú ý đến phần này. Chúng ta muốn bỏ qua phần Mẹ Maria đáp lại lời mời gọi thánh thiêng này với lời xin vâng hết lòng! Nhưng phản ứng ban đầu của Mẹ là điều kiện tiên quyết cho những gì tiếp sau. Mẹ Maria phản ứng như bất kỳ con người nào trước những lời như vậy – như tác giả này lưu ý. Chính con người đích thực của Mẹ đã làm cho sự đồng ý của Mẹ trở nên đáng giá như vậy.
Điều quan trọng là Mẹ Maria vẫn mở lòng đón nhận lời Chúa. Mẹ không quay vào trong bản thân mình. Mẹ không khép kín tâm trí hoặc con tim của mình khi nghe thấy thông điệp của sứ thần. Sau đó khi Mẹ cất tiếng nói, Mẹ đã sẵn sàng chấp nhận lời Chúa rằng Mẹ sẽ sinh một người con. Mẹ chỉ đặt câu hỏi “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào”, vì Mẹ là một trinh nữ “không biết đến việc vợ chồng!” (Luca 1: 34)
Sự đồng trinh tuyệt đối của Đức Maria hóa ra là một điều kiện thiết yếu cho vai trò của Mẹ trong công cuộc Nhập thể. Rốt cuộc đó là dấu hiệu cho thấy sự đón nhận trinh trong của Mẹ đối với Thiên Chúa. Như Đức Hồng Y Ratzinger lúc bấy giờ đã từng nhận xét, việc Mẹ đón nhận cưu mang Thiên Chúa Nhập Thể bắt nguồn từ sự cởi mở của Mẹ với lời Chúa. “Mẹ Maria đón Chúa Thánh Thần vào trong chính mình. Sau khi trở thành người lắng nghe thuần khiết, Mẹ hoàn toàn tiếp nhận Lời Chúa đến nỗi Lời đó trở nên xác thịt trong Mẹ” (Joseph Cardinal Ratzinger & Hans Urs von Balthasar, Mary: The Church at the Source – Maria: Hội Thánh Nơi Nguồn Cội, Dịch giả sang tiếng Anh: Adrian Walker, Nhà xuất bản: Ignatius Press, 2005, trang 190 và tiếp theo).
Là “người chỉ lắng nghe”, Mẹ Maria là một hình mẫu về ý nghĩa của việc trở thành Kitô hữu. Chúng ta cũng phải đón nhận Lời Thiên Chúa một cách trọn vẹn để lời Chúa “thấm nhậpvào máu thịt” của chúng ta.
Nhưng có một cách thứ hai. Sau khi đón nhận Lời của Thiên Chúa, Tin Mừng, chúng ta phải công bố Lời đó. Điều này được thể hiện qua hình ảnh của Gioan Tẩy giả. Giống như Mẹ Maria là “người chỉ lắng nghe”, Gioan Tẩy giả trở thành “chỉ là tiếng nói.” Chúng ta hãy lắng nghe Ông tự nhận mình như thế nào khi bị các thầy tư tế và Lêvi chất vấn:
“Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông? ” Ông nói: Tôi là tiếng hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Thiên Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói.” ( Gioan 1: 22-23).
Câu trả lời của Gioan quá quen thuộc với chúng ta đến nỗi chúng ta thường không nhận ra nó kỳ quặc đến mức nào. Hãy nghe lại những gì ông nói: Tôi là tiếng hô trong hoang địa. Để ý những gì ông không nói. Ông không tự nhận mình là “một người đang hô trong sa mạc.” Một lần nữa, ông không phải là “một người trong sa mạc cất lên tiếng hô.” Không phải thế, ông chỉ là tiếng hô.
Giống như Mẹ Maria “chỉ là người lắng nghe”, Gioan Tẩy giả “chỉ là tiếng nói.” Đối với Mẹ Maria, sự đón nhận Thiên Chúa cách triệt để đã khẳng định con người của Mẹ sâu xa đến mức Thiên Chúa “đã mặc lấy xác thịt” trong Mẹ. Tương tự đối với Gioan Tẩy giả cũng như vậy, việc công bố Lời Chúa đã làm tiêu hao toàn bộ con người của ông, thế chỗ cho sự hiện hữu của cá nhân ông: “Tôi là tiếng nói của một người đang hô to.” Tiếng nói của ông, công bố lời tiên báo của Thiên Chúa, mới là điều quan trọng. Còn cá nhân ông – “một người hô to” – chỉ là thứ yếu.
Như chính Gioan đã nói, “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Gioan 3:30). Đối với Gioan, ông đã làm hết sức mình tất cả những việc đó. Mẹ Maria cũng khẳng định cùng một thực tại: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” — chứ không phải, Chúa đã ngợi khen tôi (Luca 1:46).
Điều này đã trở thành khuôn mẫu cho tất cả các Kitô hữu sau này. Hãy lắng nghe những gì Phaolô nói trong Galát 2:20, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” Và, giống như Gioan Tẩy giả, Phaolô là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất. Ngay cả Mẹ Maria cũng là một nhà thuyết giáo tầm cỡ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Luca 1:49).
Chúng ta cần có cả hai cách thức để đáp lại sứ điệp Tin Mừng: tiếp nhận và công bố. Giống như Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi trở nên “chỉ là người lắng nghe” thế thôi, và giống như Gioan Tẩy giả, chúng ta trở thành “chỉ là tiếng nói” cất lên trong sa mạc vì Chúa Kitô.
Stephen Beale
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ,
từ catholicexchange.com.
2021
Bà Rakhel “khóc cho con mình” có liên quan gì đến Các Thánh Anh Hài, và Mẹ Maria?
Bà Rakhel “khóc cho con mình” có liên quan gì đến Các Thánh Anh Hài, và Mẹ Maria?
Vị Tổ Mẫu của Cựu ước này được chôn cất gần Bêlem, và trong nhiều thế kỷ đã có vai trò là người cầu thay nguyện giúp. Chúng ta hãy xem tại sao Mẹ Maria là bà Rakhel mới.
Chúng ta đã quen thuộc với câu chuyện đau lòng về những con trẻ đầu tiên phải hy sinh mạng sống của mình cho Chúa Giêsu: những con trẻ được gọi là các Thánh Anh Hài, bị tàn sát vì cơn thịnh nộ ganh tị của Hêrôđê.
Một phần của câu chuyện mà chúng ta có thể không chú ý nhiều là lời tiên tri mà Tin Mừng theo Thánh Mátthêu nói đã được ứng nghiệm: “Bấy giờ Hêrôđê thấy các đạo sĩ xỏ mình thì tức cuồng lên và sai quân trudiệt hết các trẻ con tại Bêlem và toàn vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian ông đã hỏi kỹ nơi các đạo sĩ. Bấy giờ đã nên trọn điều tiên tri Giêrêmia nói: Có tiếng vẳng lên tại Rama khóc lóc than van inh ỏi ấy Rakhel khóc thương các con bà và không màng lời an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mátthêu 2: 17-19).
Điều đó đã ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia: “Giavê phán thế này: Kìa, Ở Rama vẳng nghe có tiếng ai oán, tiếng khóc xót xa, Rakhel khóc thương con cái bà mà không màng được an ủi, về con cái bà, bởi chúng không còn nữa!” (31: 15).
Rakhel này là mẹ của Giuse – Giuse là người có chiếc áo khoác nhiều màu sắc, mà Giacóp, cha cậu, “đã làm cho cậu một cái áo thụng” (Khởi Nguyên 37: 3). Điều hấp dẫn về bà Rakhel, đó là bà thực sự là một hình ảnh tiên trưng của Mẹ Maria, mẹ của Chúa Giêsu. Những điểm tương đồng nổi bật được Brant Pitre nêu ra trong cuốn sách “Chúa Giêsu và cội rễ Do Thái của Mẹ Maria: Mặc khải về Mẹ Đấng Mêsia”.
Đầu tiên Pitre giải thích Rakhel là ai trong Cựu ước. Là người vợ yêu dấu của Giacóp / Israel, bà là mẹ của Giuse và Bengiamin. Bà chết khi sinh ra Benjamin, trong khi gia đình đang thực hiện một cuộc hành trình, khi họ tình cờ đến gần Bêlem.
Rakhel không được chôn cùng với các bà mẹ khác của Ítraen (Sara, Rêbêca) trong mộ phần của gia đình; thay vào đó, bà được chôn trên con đường gần “Bêlem” (Sáng thế ký 35:19).
Điều này quan trọng đối với vai trò của Rakhel không chỉ với tư cách là mẹ của Giuse và Benjamin, mà trên thực tế, là “mẹ của toàn thể Israel, bà là người, trong một cách nào đó, đã đau khổ với họ và khóc thương họ, ngay cả sau khi bà qua đời”. Lời tiên tri mà Mátthêu trích dẫn từ Giêrêmia được hiểu là chỉ ra mối liên hệ giữa Rakhel với dân tộc của bà trong thời gian bị lưu đày.
Pitre giải thích:
Theo các học giả Cựu Ước, chìa khóa để hiểu được đoạn văn này là hãy nhớ rằng ngôi mộ của Rakhel nằm gần nơi những người lưu vong bị người Babylon bắt giữ.
Thiên Chúa nghe thấy tiếng khóc than của Rakhel khi bà “đau khổ” cùng với những người dân của mình bị lưu đày, và Thiên Chúa hứa rằng dân tộc của bà sẽ trở về đất của họ “Giavê phán thế này: Thôi im đi tiếng khóc, và mắt hãy ráo lệ, vì ngươi sẽ lĩnh công xứng đức cù lao – sấm của Giavê – chúng sẽ từ xứ quân thù trở lại” (Giêrêmia 31:16). Vì vậy, Rakhel, theo truyền thống của người Do Thái, là một người cầu bầu uy lực nhất, là người cầu bầu với sức mạnh của nỗi buồn chứa chan tình mẫu tử cùa bà… giống như Đức Mẹ.
Bây giờ trong Tân Ước, chúng ta thấy rằng Rakhel không chỉ khóc cho những đứa con của mình đang bị lưu đày ở Babylon gần mộ bà, mà bây giờ lại khóc vì nhiều con cháu của bà bị giết dưới tay Hêrôđê, một lần nữa gần nơi an nghỉ của bà.
Vai trò của Mẹ Maria là Rakhel mới, người mẹ của dân tộc Mẹ và là người cầu bầu thần thế.
Là người mẹ đau khổ của một người con bị truy bắt và chạy trốn, Mẹ Maria trong Tin Mừng Mátthêu thực sự là một Rakhel mới. Thật vậy, trên bình diện con người, có thể dễ dàng hình dung Mẹ Maria khóc không chỉ vì sự bắt bớ và lưu đầy của chính con trai mình mà còn vì mạng sống của tất cả các bé trai bị thảm sát trong nỗ lực của Hêrôđê tìm giết con của Mẹ.
Cuốn sách của Pitre tiếp tục bàn luận về những cung cách khác mà Mẹ Maria và bà Rakhel được liên kết với nhau, dựa vào sách Khải Huyền, và coi Mẹ là hình ảnh của “người con yêu dấu” và như người “môn đệ yêu dấu”.
Kathleen Hattrup
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ,
2021
Lời cầu nguyện xin Đức Mẹ giúp cho chúng ta trong tuần cuối cùng của Mùa Vọng
Lời cầu nguyện xin Đức Mẹ giúp cho chúng ta trong tuần cuối cùng của Mùa Vọng
Hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria giúp cho chúng ta chuẩn bị tâm hồn trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng.
Mùa Vọng là một mùa phụng vụ có thể trôi qua nhanh chóng, và khi đến tuần thứ tư, có lẽ chúng ta nghĩ rằng chúng ta gần như không có được sự chuẩn bị kỹ lưỡng như mong đợi. Thay vì thất vọng vì mất thời gian, thì điều tốt nhất nên làm là tận dụng thời gian của tuần cuối cùng này để gia tăng sự chuẩn bị của chúng ta.
Dưới đây là lời cầu nguyện trong cuốn Năm Phụng vụ của Dom Gueranger, cầu xin Đức Trinh Nữ Maria giúp sức để chúng ta chuẩn bị tâm hồn cho Lễ Giáng Sinh và cho cuộc tái lâm của Chúa Kitô vào cuối cuộc đời dương thế của chúng ta.
Lạy Mẹ Thiên Chúa rất thánh, quả thật chúng con cần hiệp nhất với Mẹ trong niềm khao khát mãnh liệt để được nhìn thấy Đấng đã dành chín tháng ẩn thân nơi cung lòng vẹn sạch của Mẹ. Lạy Mẹ yêu dấu, thời gian đang đến rất nhanh, nhưng cũng không đủ nhanh để làm no thoả những ước muốn của Mẹ và của chúng con. Xin giúp chúng con gia tăng sự lưu tâm đến mầu nhiệm lớn lao này và chu toàn việc chuẩn bị bằng những lời cầu nguyện mạnh mẽ của Mẹ dành cho chúng con, để khi thời gian trọng đại xảy đến, Chúa Giêsu của chúng con sẽ không gặp phải bất kỳ chướng ngại nào trong việc tiến vào cõi lòng chúng con. [Amen]
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
Bộ Phụng tự trả lời mười một nghi vấn về Tự sắc “Traditionis Custodes”
Bộ Phụng tự trả lời mười một nghi vấn về Tự sắc “Traditionis Custodes”
Hôm 18 tháng Mười Hai vừa qua, Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích đã công bố câu trả lời cho mười một nghi vấn được nêu lên, liên quan đến Tự sắc Traditionis Custodes, những người gìn giữ Truyền thống, xác nhận việc giới hạn việc làm lễ bằng tiếng Latinh theo nghi thức tiền Công đồng Vatican II, do Đức Thánh cha Gioan XXIII ban hành hồi năm 1962.
Bản giải đáp mang chữ ký của Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bích, nhưng đã được Đức Thánh cha Phanxicô phê chuẩn trước đó. Nói chung, các giải đáp này siết chặt và giải thích ngặt hơn những qui định Đức Thánh cha đưa ra trong tự sắc.
Trong số các giải đáp có qui định rằng tại nơi nào còn được phép cử hành thánh lễ tiếng Latinh theo nghi thức cũ thì các bài đọc phải dùng tiếng địa phương. Những linh mục mới chịu chức gần đây phải được phép rõ ràng của Đức Thánh cha mới có thể cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ; khuyên các giám mục chỉ cho phép cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ một cách nhất thời; trong trường hợp vắng mặt linh mục được phép cửa hành lễ nghi thức cũ thì linh mục thay thế phải được phép chính thức; cần có phép của Đức giám mục giáo phận để truyền chức phó tế và trao các tác vụ đã được Giáo hội thiết định; phép cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ đối với linh mục giáo phận thì chỉ có giá trị trong giáo phận đó. Không được cử hành lễ cũ trong các nhà thờ giáo xứ và thánh lễ này không thuộc đời sống hằng ngày của giáo xứ.
Trong thư gửi các giám mục trên thế giới, kèm theo bản trả lời thắc mắc, Đức Tổng giám mục Roche viết rằng: “thật là buồn khi thấy mối liên hệ sâu xa nhất về sự hiệp nhất và tham gia Bánh Duy Nhất được bẻ ra là Thân Mình của Chúa dâng hiến để tất cả mọi người được trở nên một (Xc Ga 17,21) lại trở thành lý do để chia rẽ: bổn phận của các giám mục – cum Petro et sub Petro – cùng với Phêrô và dưới Phêrô, là giữ gìn tình hiệp thông, là điều kiện thiết yếu để có thể tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, như thánh Phaolô tông đồ đã nhắc nhở. (Xc 1 Cr 11,17-34)”
Nhiều báo chí nhận xét rằng những giải đáp trên đây xiết chặt các qui luật đã được Đức Thánh cha ban hành trong Tự sắc “Những người bảo tồn truyền thống”.
(Vatican News 18-12-2021)
- Trần Đức Anh, O.P.