2021
Bộ Kinh Thánh nào thích hợp cho tôi?
Bộ Kinh Thánh nào thích hợp cho tôi?
Chọn một bộ Kinh Thánh thích hợp có phải là một vấn đề khó khăn không? Ðã gọi là Kinh Thánh thì cứ đọc việc gì phải thắc mắc hay đặt vấn đề, chúng ta thường nghĩ như vậy! Chẳng có gì sai lầm trong lập luận ấy nhưng ở một xứ sở như Hoa Kỳ có quá nhiều bản dịch Kinh Thánh lưu hành khiến người công giáo chúng ta đâm ra hoài nghi đâu mới là bản dịch chính thức được Giáo Hội Công Giáo công nhận.
Ðôi khi cũng một đoạn Kinh Thánh nhưng ba ấn bản có ba lối dịch khác nhau khiến chúng ta đôi khi tự đặt câu hỏi chẳng biết đoạn văn nguyên thủy có ý muốn nói gì. Bài viết này không nhằm nêu lên vấn đề đúng sai của các văn bản Kinh Thánh đang lưu hành nhưng chỉ với mục đích lược qua lịch sử các bản dịch để độc giả tự chọn cho mình một bộ Kinh Thánh thích hợp hầu việc suy niệm Lời Chúa đem lại ích lợi cho đời sống chứng nhân của mình.
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ CÁC BẢN DỊCH KINH THÁNH (ANH NGỮ)
Văn bản Anh ngữ đầu tiên của toàn pho Kinh Thánh ra đời khoảng giữa các năm 1380 và 1382. Ðây là công trình của John Wycliffe đã chuyển dịch từ văn bản La Tinh Vulgata. Bản dịch này bị Giáo Hội lên án và sau này văn bản này bị cháy mất. Năm 1525, William Tyndale hoàn thành việc chuyển dịch bộ Tân Ước từ bản văn Hy Lạp. Pho Tân Ước này cũng không được Giáo Hội công nhận vì thế bản văn này bị tịch thu và người dịch sau này bị án tử.
Khi Giáo Hội Anh ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo Roma dưới thời vua Henry VIII, Thomas Cromwell đã chính thức phê chuẩn bản dịch Anh Ngữ của ông Miles Coverdale. Bộ Kinh Thánh này đặt căn bản vào công trình của William Tyndale. Ngày 10 tháng 2 năm 1604, vua James I ra lệnh chuyển dịch pho Kinh Thánh mới và hoàn hảo hơn bằng Anh ngữ. Ông đã chọn lựa một số dịch giả và các nhà nghiên cứu chuyên môn cho công việc này. Pho Kinh Thánh mới này được chuyển dịch trực tiếp từ bản văn Hy Lạp và Do Thái. Kết quả bản dịch Anh Ngữ này có tầm quan trọng nhất và được những người Thệ Phản (Protestants) sử dụng thường xuyên nhất. Người ta gọi đó là ấn bản King James I năm 1611.
Trong khi đó, một văn bản Anh ngữ khác cũng được chuyển dịch, tuy không cùng năm nhưng cũng cùng kỷ nguyên với văn bản Anh ngữ của King James I, dựa trên văn bản Vulgata được người Công Giáo chú ý và sử dụng (Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo Hội bành trướng khắp đế quốc Rôma. Vì ngôn ngữ chính trong đế quốc là tiếng Latinh, nên Thánh Jêrôme đã dịch Kinh Thánh ra tiếng này và sau thường gọi đó là bộ Kinh Thánh Vulgata ( -vulgatus trong tiếng Latinh có nghĩa là thông dụng, thường ngày -). Văn bản này là công trình chuyển dịch của George Martin, một nhà nghiên cứu Kinh Thánh Oxford. Pho Kinh Thánh này được nổi bật nhờ sự bảo trợ của Ðức Hồng Y William Allen (ÐHY Allen đã bị trục xuất khỏi Anh Quốc năm 1565, Ngài sang cư ngụ tại Douay Pháp quốc và mở trường Ðại Học nơi đây nhằm đào tạo các linh mục Công Giáo chuẩn bị cho ngày trở về hoán cải Giáo Hội Anh quốc). Bản dịch này xuất hiện ở hai thành phố Douay và Rheims nước Pháp vào khoảng năm 1609 và 1610, vì vậy được gọi là bản Douay&Rheims. Bản dịch này được người Công Giáo nói tiếng Anh sử dụng trong suốt 350 năm và chỉ được thay thế dần khi ấn bản Kinh Thánh mới của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ chính thức xuất bản vào thập niên 1970.
Trong khi đó, Ấn bản của King James I cũng được giáo phái Thệ Phản thường xuyên sử dụng trong suốt 250 năm. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, một vài bản dịch Anh ngữ khác đã xuất hiện. Trong khoảng các năm 1952 và năm 1989, tốc độ chuyển dịch tăng nhanh một cách đột ngột, ít nhất đã có 26 bản dịch Anh ngữ được xuất bản trong thời gian này. Có nhiều lý do người ta dùng để biện hộ cho sự kiện trên:
Trước hết, vì khoa khảo cổ ngày càng tiến bộ nhờ thế các nhà nghiên cứu Kinh Thánh đã thu lượm được nhiều thủ bản Kinh Thánh bằng tiếng Hi Lạp, Do Thái và Aram giúp cho việc phiên dịch thêm chuẩn xác trong nhiều đoạn văn hiện còn tối nghĩa.
Thứ đến, người ta cho rằng ngôn ngữ và nhất là Anh ngữ ngày một biến thiên và thay đổi, việc cập nhật hóa những ngôn từ Kinh Thánh trong Anh ngữ là cần thiết. Một đoạn tiêu biểu chẳng hạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu 2,16, bản văn năm 1946 trong ấn bản Revised Standard Version dịch là: “Then Herod saw that he had been tricked by the wise men, was in a furious rage, and he sent and killed all the male children in Bethlehem.” và cũng cùng câu đó trong ấn bản New American Bible’s năm 1986 dịch là: “When Herod realized that he had been deceived by the magi, he became furious. He ordered the massacre of all the boys in Bethlehem.” Giữa hai bản dịch chỉ cách nhau 4 thập niên, chúng ta đã cảm được lối hành văn khác biệt, văn phong nhẹ nhàng và dễ hiểu hơn nhiều thì thử hỏi nếu đọc lên những đoạn văn của John Wycliffe năm 1382 và của King James I năm 1611 làm sao chúng ta hiểu nổi.
Các dịch giả hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống chuẩn xác nhưng thêm phần dễ đọc. Chẳng hạn đoạn thư Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Philippê đoạn 1, 12 được dịch như sau: ” To know now you brethren I want that the things to me rather for the advancement of the gospel have come.” Một vài dịch giả lại dịch bản văn thật sát nghĩa theo từng chữ (word-for-word) và chỉ chuyển đổi vị trí của chữ hoặc những thay đổi khác khi cần thiết và đoạn văn được dịch và viết như sau: ” Now I want you to know, brethen, that the things (which have happened) to me have come for the advancement of the gospel”. Cũng có những dịch giả lại chỉ nhắm vào ý nghĩa câu văn (meaning-for-meaning) hơn là chú trọng vào nghĩa từng chữ và đoạn văn được dịch lại như sau: “Now I want you to know, brothers, that what has happened to me has really served to advance the gospel.” Ða số những dịch giả này chú trọng vào việc truyền bá Tin Mừng cho người nói tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai (English as second language) và các ấn bản Kinh Thánh này được gọi là International version. Trong những ấn bản này ý nghĩa câu văn được coi là “không thay đổi” nhưng những chữ sử dụng đôi khi không còn là những từ ngữ chính xác dùng trong văn bản Do Thái.
KINH THÁNH CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ CỦA GIÁO HỘI THỆ PHẢN.
Pho Kinh Thánh của Giáo Hội Công Giáo và pho Kinh Thánh của Giáo Hội thệ phản có hoàn toàn giống nhau không? Công Giáo và Thệ Phản giáo đều công nhận 27 cuốn sách của phần Tân Ước, nhưng phần Cựu Ước lại có nhiều phần khác biệt.
Giáo Hội Công Giáo không xác định chính xác số sách trong Cựu Ước được chấp nhận là có sự Linh Hứng của Chúa Thánh Thần cho mãi tới năm 1546 qua Công Ðồng Trentô. Công Ðồng chỉ công nhận 46 cuốn sách trong Cựu Ước theo truyền thống của Giáo Hội từ thuở sơ khai. Trong khi đó lãnh tụ Thệ Phản Giáo, Lutherô, lại quyết liệt phản đối quyết định này của Công Ðồng. Ông không chấp nhận 7 cuốn sách: Tôbia, Judith, Khôn Ngoan, Sirach, Baruch, Maccabê I và II. Ðồng thời một vài phần trong sách Esther và Daniel cũng bị Ông cho là thiếu sự Linh Hứng của Thánh Linh. Thệ Phản Giáo gọi 7 quyển sách này là Ngụy Thư nhưng Công Giáo thì coi đây là những sách Thứ Luật (Quy điển thứ).
Ngày nay có rất nhiều bản dịch Kinh Thánh hiện đại tại Hoa Kỳ với các ấn bản Công Giáo. Những bản dịch này luôn mang chữ imprimatur (sự bảo đảm của các Giám Mục Công Giáo về văn bản nằm trong đường hướng giảng dạy của Giáo Hội) và bao gồm cả bảy cuốn sách Thứ Luật.
NHỮNG ẤN BẢN KINH THÁNH TẠI HOA KỲ
Revised Standard Version (RSV) Bản dịch này dựa trên văn bản của King James I, có phần tham chiếu cho việc nghiên cứu Kinh Thánh. Bản dịch có tính chính xác và vẫn giữ nguyên các thành ngữ cổ. Có ấn bản Công Giáo.
New Revised Standard Version (NRSV) Bản dịch này vẫn theo đường hướng của bản dịch trên (RSV) nhưng với sự bén nhậy của ngôn ngữ. Những ngôn từ truyền thống khi nói về Thiên Chúa vẫn được giữ nguyên vẹn nhưng với các thành ngữ diễn tả văn hóa của người Hoa Kỳ đã được cập nhật theo văn chương hiện đại. Có ấn bản Công Giáo.
New American Bible With Revised New Testament and Psalms (BAB-RNT) Bản dịch này là ấn bản tiêu chuẩn của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ về Kinh Thánh. Ðây là ấn bản đã được cập nhật do Hội New American Bible (1952-1970) với sự chuẩn xác và cập nhật trong ngôn ngữ. Bản dịch này hiện đang chính thức được sử dụng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa tại các thánh đường Công Giáo Hoa Kỳ và nhiều quốc gia sử dụng Anh ngữ khác.
New International Version (NIV) Bản dịch này nhằm mục đích phổ biến Kinh Thánh cho những người sử dụng Anh ngữ trên toàn thế giới. Bản dịch tương đối trung thành với ngôn từ Thánh Kinh hơn bản NRSV ở trên. Không có ấn bản Công giáo.
Today English Version (TEV)/ Good News Bible Bản dịch này được hội American Bible Society bảo trợ và hoàn thành khoảng giữa các năm 1976 và 1979. Các ấn bản của bản dịch này thường được biết đến qua tên gọi Good News Bible. Bản dịch này với mục đích tôn trọng sự chuẩn xác qua ngôn từ giản lược nên đã chuyển dịch theo nghĩa của đoạn văn. Có ấn bản Công Giáo.
Comtemporary English Version (CEV) Ðây là bản dịch mới của hội American Bible Society, phát hành năm 1995 với văn phong nhẹ nhàng, trong sáng và hiện đại. Hiện bản dịch còn đang chờ Giáo quyền phê chuẩn nên chưa có ấn bản Công Giáo.
New Jerusalem Bible (NJB) Lần đầu xuất bản năm 1982. Ấn bản này là hậu thân của bộ Kinh Thánh Jêrusalem Bible (JB) xuất bản năm 1966. Cả hai bản dịch trên được cảm hứng từ những bản dịch Pháp ngữ của các nhà nghiên cứu Công Giáo Dòng Ða Minh tại viện Kinh Thánh Jêrusalem. Bản dịch Anh ngữ này dựa trên nguyên bản tiếng Do Thái, Aram và Hy Lạp và đối chiếu với bản dịch Pháp ngữ. Văn bản đầy tính thơ. Bộ Kinh Thánh Công Giáo này được ca ngợi là đầy đủ tham chiếu và trích dẫn.
New King James Version (NKJV)hoàn thành năm 1982, bộ Kinh Thánh này nhằm cập nhật bản dịch của King James I mà không sửa đổi nhiều trong bản dịch. Những thành ngữ hay những chữ quá cổ như Thou, Thee sẽ được thay đổi hoặc những câu văn quá dài sẽ được cắt đoạn cho gọn gàng hơn. Những từ ngữ không có trong văn bản Do Thái, Aram và Hy Lạp đã được đổi thành chữ nghiêng. Các nhà biên soạn đã dựa phần Tân Ước vào văn bản Hy Lạp thế kỷ XVI thay vì những văn bản Hy Lạp cổ xưa mới tìm thấy. Không có ấn bản Công Giáo.
NHỮNG BỘ KINH THÁNH VIỆT NGỮ (GIÁO HỘI CÔNG GIÁO)
Tại Việt Nam, cũng có nhiều vị đã dịch Kinh Thánh nhưng đa số dịch từng phần chẳng hạn phần Tân Ước, Phúc Âm Nhất Lãm, Thánh Vịnh…. Những bản dịch trọn bộ chỉ có bốn ấn bản sau đây:
Cha Ð. M. Trần Ðức Huân: là người đầu tiên có công dịch trọn bộ Kinh Thánh được Giáo quyền Việt Nam chuẩn ấn. Bộ Kinh Thánh của ngài được coi là bộ Kinh Thánh duy nhất tại Việt Nam được sử dụng cách rộng rãi trong nhiều thập niên. Tuy nhiên vì thiếu sự cập nhật nên một số giáo sư Kinh Thánh cho là nhiều phần thiếu chuẩn xác và nhiều đoạn không rõ nghĩa.
Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn: Bộ Kinh Thánh do Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn chuyển dịch đã sớm được sử dụng nhưng chính thức ra đời khoảng đầu thập niên 80, được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội Công Giáo Miền Bắc. Văn phong bình dân. Ðây là một nỗ lực rất đáng quí trong hoàn cảnh nhưng lại không có giá trị chuyên môn và thiếu chuẩn xác. Sau biến cố 1975, bộ Kinh Thánh này dường như không còn ai sử dụng nữa.
Cha Nguyễn Thế Thuấn: Năm 1975, bản dịch trọn bộ của Cha Nguyễn Thế Thuấn ra đời. Pho Kinh Thánh này đã được Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chuẩn ấn tháng 11 năm 1975. Ðây là công trình biên soạn được đánh giá rất cao, tiện lợi cho việc tham khảo và nghiên cứu. Lối dịch rất chuẩn xác nhưng không đánh mất vẻ mạch lạc và trong sáng trong văn bản. Tuy nhiên theo một số giáo sư Kinh Thánh, Cha Thuấn đã sử dụng một số ngôn từ địa phương của Ngài nên đôi khi gây khó hiểu cho người đọc.
Nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh: Năm 1998, xuất hiện bản dịch của nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh do Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chuẩn ấn phần Tân Ước và Ðức Tổng Giám Mục J.B Phạm Minh Mẫn chuẩn ấn phần Cựu Ước. Bản dịch này được quảng bá rộng rãi và được nồng nhiệt đón nhận. Bộ Kinh Thánh này được dịch theo thể văn hiện đại. Văn phong nhẹ nhàng, dễ đọc và dễ nghe. Tiện ích cho việc sử dụng trong quần chúng, nhưng không tiện cho việc nghiên cứu và tham khảo như bản dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn. Cũng có nhiều người chê trách việc phiên âm các tên riêng theo kiểu phát âm tiếng Việt làm việc hình dung nhân vật quen tên thêm khó khăn và khó đọc.
CHỌN LỰA MỘT BỘ KINH THÁNH THÍCH HỢP
Giữa một rừng bản dịch như thế chúng ta liệu sẽ chọn cho mình bộ Kinh Thánh nào bây giờ? Ðể đơn giản hóa câu trả lời trước hết chúng ta phải xác định rõ ràng mình là người Công Giáo, chúng ta chỉ chọn những sách có sự bảo đảm của Giáo quyền về văn bản của bộ sách (imprimatur) và những sách có bao gồm bảy cuốn Thứ Luật. Thứ đến chúng ta muốn chọn cho mình một bản dịch thế nào? Bộ Kinh Thánh để đọc hay bộ Kinh Thánh để tham khảo? Một bộ Kinh Thánh dùng để đọc thường không có những phần tham chiếu bên lề hoặc bên dưới trang sách. Nên đọc thử vài phần trong nhiều bộ Kinh Thánh khác nhau để so sánh xem bộ nào mình thấy thoải mái và dễ dàng khi đọc.
Ðiều quan trọng nhất không phải là hay hoặc dở nhưng là chúng ta cảm nhận được gì qua trang sách chúng ta đọc. Nói cách khác, chúng ta nhận ra tiếng Chúa thế nào qua trang Kinh Thánh chúng ta vừa đọc.
____________________
Sách tham khảo: Catholic Digest, Summer 2000
(Ðào Ngọc Ðiệp, Catholic Update, April 1999)
2021
Tại sao Đức Mẹ Guadalupe là bổn mạng của những em bé chưa được sinh ra?
Tại sao Đức Mẹ Guadalupe là bổn mạng của những em bé chưa được sinh ra?
Khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh Juan Diego cách đây gần 500 năm, trước hết, Mẹ đã đến với tư cách là một người mẹ – mẹ của Thiên Chúa, và là mẹ của chúng ta.
Mẹ nói cùng thánh Juan: “Hỡi con yêu dấu của Mẹ, hãy lắng nghe và ghi khắc trong lòng con; đừng để lo lắng hoặc đau buồn chi phối con. Đừng sợ bất kỳ bệnh tật hay điều gì phật ý, lo lắng hoặc đau đớn. Mẹ ở đây như là Mẹ của con! Con không núp dưới bóng Mẹ và sự bảo vệ của Mẹ sao? Mẹ không phải là nguồn sống của con sao? Con không núp trong bóng dưới áo choàng của Mẹ sao? Trong vòng tay của Mẹ, con còn điều gì cần không?”
Mẹ nói với tư cách là mẹ của thánh nhân và như mẹ của những em bé chưa được sinh ra chào đời, khi Mẹ xuất hiện trên Đồi Tepeyac ở Thành phố Mexico, vào năm 1531. Hình ảnh kỳ diệu của Mẹ, được in trên chiếc áo choàng của vị thánh, cho thấy Mẹ đeo một chiếc khăn quàng cổ màu đen, dấu hiệu một người nữ đang mang thai trong văn hóa bản địa.
Đức Mẹ Guadalupe không chỉ trông giống như một phụ nữ bản địa, mà còn nói cùng một ngôn ngữ bản địa. Mẹ đến vào thời điểm xung đột giữa người Tây Ban Nha và các dân tộc bản địa để yêu cầu Thánh Juan Diego thuyết phục Đức Giám Mục xây dựng một nhà thờ. Dấu hiệu cho giám mục tin là Mẹ đã hướng dẫn vị thánh hái hoa hồng Castilian nở rộ ngay giữa mùa đông. Khi thánh Juan tặng hoa cho Đức Giám Mục, thánh nhân phát hiện ra hình ảnh của Mẹ được in trên chiếc áo choàng của thánh nhân.
Ngày nay, Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe ở Thành phố Mexico lưu giữ hình ảnh đó, nơi được hàng triệu người hành hương kính viếng hàng năm. Mẹ không chỉ được coi là đấng bảo hộ của châu Mỹ, mà còn là Mẹ của các thai nhi. Đây là lý do tại sao vào năm 1999, Thánh Giáo hoàng John Paul II đã thiết lập ngày 12 tháng 12 là ngày lễ kính Đức Mẹ Guadalupe.
Thánh Giáo hoàng đã tuyên bố tại vương cung thánh đường: “Đây là tiếng kêu xin của chúng ta cho cuộc sống xứng với phẩm giá cho tất cả mọi người! Cho tất cả những ai đã được thụ thai trong lòng mẹ, cho những đứa trẻ đường phố, cho Guadalupe!”
Gần 20 năm sau, vào năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ủy thác cho Mẹ Guadalupe “những em bé đang chờ đợi được chào đời…”
Thanh Quảng sdb
2021
Tại sao Công đồng Vatican II thấy cần phải cải cách phụng vụ?
Tại sao Công đồng Vatican II thấy cần phải cải cách phụng vụ?
Đây là bài đầu tiên trong loạt bài về việc cải cách phụng vụ Giáo hội.
Ngày 16/7/2021, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành một Tông thư [dưới dạng Tự sắc có tựa đề Traditionis Custodes (Những người gìn giữ truyền thống)] hạn chế việc cử hành thường gọi là Thánh lễ Latinh (Latin Mass) hay hình thức ngoại thường (extraordinary form)*. Hình thức ngoại thường là cử hành những nghi thức của Giáo hội theo các sách phụng vụ trước Công đồng Vatican II bao gồm Sách lễ năm 1962 của Đức Gioan XXIII.
* Sau cuộc cải cách Phụng vụ năm 1970 của thánh Giáo hoàng Phaolô VI, các linh mục vẫn có thể cử hành thánh lễ như hiện nay bằng tiếng Latinh, được gọi là “Thánh lễ bằng tiếng Latinh” (Mass in latin). Trong khi đó, “Thánh lễ Latinh” (Latin Mass), “Thánh lễ Triđentinô” hay “Thánh lễ hình thức ngoại thường” có nguồn gốc từ Sách lễ được Đức Giáo hoàng Piô V phê chuẩn năm 1570 sau Công đồng Triđentinô, và sau này được Đức Gioan XXIII tái công bố năm 1962. Thánh lễ hiện nay theo Sách lễ Rôma 1970 được gọi là “hình thức thông thường”.
Đối với nhiều người Công giáo, điều này nêu lên một vấn đề then chốt. Tại sao phải cải cách phụng vụ như thế? Việc cải cách đã diễn ra thế nào?
Việc canh tân Phụng vụ đã bắt đầu sôi nổi trước Công đồng Vatican II. Nó vừa có chiều kích học thuật vừa mang tính mục vụ.
Bối cảnh
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu XX, thần học bắt đầu trở lại xem xét các nguồn thần học. Chủng sinh và sinh viên thần học bắt đầu đọc không chỉ các sách giáo khoa nêu bật tư tưởng của thánh Augustinô và thánh Tôma Aquinô, mà còn bắt đầu đọc chính [tác phẩm của] các tác giả này.
Việc “trở về nguồn” thần học như vậy bao gồm việc nghiên cứu phụng vụ thánh. Các nhà sử học công nhận rằng những lời nguyện trong phụng vụ không phải từ trời rơi xuống. Các bản văn lời nguyện này đã phát triển dần dần theo thời gian.
Hơn nữa, những thực hành như rước lễ dưới hai hình bánh rượu đã là quy tắc trong Giáo hội sơ khai. Tuy nhiên, không người Công giáo đã rửa tội nào rước Máu thánh nơi nhà thờ giáo xứ của mình. Tác phẩm Mass of the Roman Rite (Thánh lễ Nghi thức Rôma – 1948) của nhà phụng vụ-tu sĩ dòng Tên người Áo – Josef Jungmann, đã có đôi chỗ sai sót, nhưng không bao giờ thiếu những trình thuật xuất sắc về sự phát triển của phụng vụ Thánh Thể Rôma.
Việc trở về nguồn này không chỉ nối kết với lịch sử phụng vụ, đúng hơn nó cũng liên kết với thần học. Trong tác phẩm Catholicism: Christ and the Common Destiny of Man – 1938 (Giáo hội Công giáo: Đức Kitô và vận mạng chung của con người), nhà thần học Dòng Tên là Henri de Lubac lập luận rằng Giáo hội không chỉ là một tổ chức gồm có giáo hoàng, giám mục, linh mục và giáo dân. Đúng hơn, Giáo hội là sự hiệp thông phụng vụ hay Thánh Thể. Qua việc cử hành phụng vụ, Giáo hội xuất hiện như một cộng đoàn của những người được tạo dựng để chúc tụng và tôn thờ Thiên Chúa hằng sống. Cộng đoàn chúc tụng Thiên Chúa này phải hoạt động như là men giữa lòng xã hội, dẫn đưa mọi người trở nên điều mà các tín hữu lãnh nhận trong Bí tích Thánh Thể cực thánh. Mình và Máu Đức Kitô đã đổ ra để thế gian được sống.
Việc trở về nguồn thần học được liên kết chặt chẽ với một cuộc canh tân mục vụ. Kể từ thời Cải cách, Giáo hội Công giáo Rôma nhận thức được tầm quan trọng của các nghi thức phụng vụ để canh tân Giáo hội. Nhiều nghi thức – chẳng hạn như rửa tội cho trẻ sơ sinh hoặc hôn phối – được cử hành một phần bằng tiếng địa phương. Điều này giả định rằng mọi người nên hiểu những gì diễn ra nơi những nghi thức này.
Nhưng vào cuối thế kỷ XIX, rõ ràng là nền văn hóa Kitô giáo vững mạnh từng tồn tại ở châu Âu đang dần phai nhạt. Các nghi lễ diễn ra trong bối cảnh lòng đạo đức bình dân đang nở rộ lại trở nên buồn tẻ khi người ta đổ xô đến các thành phố nơi việc công nghiệp hóa và phát triển kinh tế đã thành tôn giáo mới. Ngoài ra, một cung cách cử hành Lễ đọc (Low Mass)** đã có trong Giáo hội Công giáo Rôma vào đầu thế kỷ XX. Thay vì hát, trong thánh lễ [Lễ đọc] chủ tế đọc thầm (sotte voce) những phần riêng (như kinh Vinh danh hoặc kinh Thánh, Thánh, Thánh…). Từ đó đã phát xuất mong muốn tham dự Thánh lễ với sách lễ bản ngữ. Nhưng ngoại trừ lúc truyền phép và thỉnh thoảng lúc rước Mình Thánh Chúa [phải đọc bằng tiếng Latinh], ít người hiểu chính xác tại sao người Công giáo lại chú trọng đến phụng vụ thánh như vậy.
** Lễ đọc: Low Mass hay Read Mass, một trong hai hình thức chính của Thánh lễ bằng tiếng Latinh trước Công đồng Vatican II, hình thức còn lại là Lễ hát (High Mass hay Sung Mass).
Canh tân mục vụ
Việc canh tân mục vụ đối với phụng vụ thánh được thực hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau. Tại Đức, đã bắt đầu thử nghiệm hát các thánh thi (hymn) trong Thánh lễ. Dom Prosper Guéranger, tu viện trưởng Solemnes ở Pháp từ năm 1837–75, đã xuất bản một loạt sách có tựa đề Năm Phụng vụ (The Liturgical year). Bản văn mục vụ của loạt tài liệu này nhằm mời gọi giáo dân nhận thức sâu sắc hơn các nghi thức của Giáo hội.
Trên khắp Âu châu, những nhân vật của thế kỷ XX như tu sĩ Dòng Biển Đức người Bỉ Lambert Beauduin và triết gia-thần học gia người Đức gốc Ý là Romano Guardini đã tìm cách phản ứng với chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa dân tộc thông qua sự đổi mới chú ý đến thần học và cử hành phụng vụ. Nếu mọi người đều hiểu được những diễn tiến trong phụng vụ, tham gia đầy đủ vào hành vi cầu nguyện, thì Giáo hội Công giáo có thể tạo ra một nền văn hóa mới, có khả năng ứng phó với những thách đố thời hiện đại.
Việc canh tân mục vụ và học thuật trong phụng vụ thánh được gọi là phong trào phụng vụ. Phong trào này được du nhập vào Hoa Kỳ bởi tu sĩ Dòng Biển Đức Virgil Michel, người thường xuyên trao đổi với những nhân vật như Dorothy Day, nữ sáng lập phong trào Công nhân Công giáo.
Những nhận định của Đức Giáo hoàng
Tuy nhiên, phong trào phụng vụ đã trở thành một phần trong huấn quyền chính thức của Giáo hội. Việc cải cách và canh tân phụng vụ bắt đầu với thánh Piô X: hạ thấp tuổi rước lễ, khuyến khích tham gia thường xuyên các nghi thức của Giáo hội và canh tân sách kinh Thần vụ vì lợi ích của hàng giáo sĩ. Trong Tông thư về thánh nhạc, Tự sắc Tra Le Sollecitudini – 1903, thánh Piô X là vị giáo hoàng đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tham gia tích cực” trong một văn kiện. Tông thư nhằm thúc đẩy sự đổi mới của thánh nhạc trong phụng vụ và khuyến khích tất cả các tín hữu hát những phần riêng của Thánh lễ.
Đức Giáo hoàng Piô XII thậm chí còn đi xa hơn, khi với Thông điệp Nhiệm Thể Chúa Kitô (Mystici Corporis Christi – 1943), ngài trở lại quan điểm xem Giáo hội như là Thân thể Chúa Kitô trên trần gian, một sự hiện diện thực sự nơi phụng vụ Thánh Thể. Thông điệp Đấng Trung Gian của Thiên Chúa (Mediator Dei – 1947) của ngài bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với phong trào phụng vụ, khuyến khích tham gia bên trong lẫn bên ngoài vào phụng vụ thánh vì lợi ích canh tân đời sống trong Đức Kitô. Huấn thị Thánh nhạc (Musicae Sacrae – 1955) của Đức Piô XII một lần nữa đề cao giá trị của thánh nhạc trong phụng vụ, cũng như cổ võ thánh ca tiếng địa phương bên ngoài các cử hành phụng vụ chính thức của Giáo hội.
Do đó, phong trào phụng vụ đã tìm cách đề cao kinh nguyện phụng vụ nơi tâm điểm của lòng đạo đức Công giáo và của việc đổi mới văn hóa. Tại Công đồng Vatican II, do thánh Giáo hoàng Gioan XXIII triệu tập, tầm nhìn này về kinh nguyện phụng vụ đã được đưa vào Hiến chế Phụng vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium – 1963), là hiến chế đầu tiên được các nghị phụ Công đồng phê chuẩn. Kinh nguyện phụng vụ được trình bày không chỉ như những nghi thức và lễ nghi của Giáo hội. Đúng hơn, phụng vụ là cách diễn tả đầy đủ nhất về Giáo hội với tư cách chiêm niệm và hoạt động, một cộng đoàn thần linh hoạt động như muối men tốt lành trong lịch sử.
Văn kiện này trình bày mong muốn canh tân phụng vụ thánh. Công việc này được thực hiện do một Ủy ban thành lập năm 1964, gồm các thần học gia, các nhà phụng vụ và các giám mục. Hiến chế đã tham khảo kiến thức lịch sử để canh tân kinh nguyện phụng vụ. Những cải cách này diễn ra trên phạm vi rộng. Chẳng hạn, trong phụng vụ Thánh Thể, đã có nhiều lựa chọn hơn về các Kinh Tiền tụng trước Kinh nguyện Thánh Thể. Các Kinh nguyện Thánh Thể bổ sung đã được soạn ra, mô phỏng từ các bản văn kinh nguyện lịch sử trong Giáo hội. Trong thập niên tiếp theo, những nghi thức này đã được phê chuẩn và ban hành.
Cũng ngay sau Công đồng, các giám mục yêu cầu phụng vụ được cử hành bằng tiếng địa phương. Điều này được chấp thuận cho cả thế giới, và một tiến trình dịch thuật được triển khai xoay quanh các nghi thức trong Giáo hội. Ngay cả ngày nay, khi Rôma phát hành một ấn bản nghi thức mới thì ấn bản đó phải được một ủy ban chuyên viên dịch thuật, được các giám mục địa phương, rồi Rôma [tức là Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích] chấp nhận.
Do đó, việc cải cách và canh tân phụng vụ bắt nguồn từ mong muốn là Giáo hội đáp ứng với thời hiện đại qua tầm nhìn mầu nhiệm và bí tích của đời sống Giáo hội. Vấn đề còn tồn tại là liệu cuộc cải cách và canh tân này có lợi ích cho Giáo hội hay không.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Tất cả phải cảm thấy được chào đón”
“Phụng vụ đưa ra giải đáp sâu sắc và hiệu quả nhất cho niềm khát khao gặp gỡ Chúa. Cách đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, nơi đó chúng ta được thông phần với hy tế của Chúa Kitô và được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Người. Tuy nhiên, các mục tử phải đảm bảo rằng lương tâm mình được thấm nhập ý thức mầu nhiệm. . . . Đặc biệt, nhiệm vụ của các chủ chăn là cổ võ những việc cử hành xứng đáng, dành sự quan tâm thích đáng đến các hạng người khác nhau: trẻ em, người trẻ, người lớn, người già và người khuyết tật. Tất cả họ phải cảm thấy được tiếp đón khi qui tụ, để họ có thể hít thở bầu khí của cộng đoàn tín hữu đầu tiên là ‘chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện’ (Cv 2,42)”.
(Số 12 – Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư Spiritus et Sponsa – 2003 đánh dấu kỷ niệm 40 năm Hiến chế về Phụng vụ Thánh của Công đồng Vatican II).
Timothy P. O’Malley
Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ
2021
Thi hành chức vụ Giám mục giáo phận từ khi nào?
Thi hành chức vụ Giám mục giáo phận từ khi nào?
Đôi khi có những thắc mắc liên quan đến vị tân Giám mục giáo phận; hỏi rằng, khi một linh mục được Đức Giáo hoàng bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận, thì ngài là Giám mục giáo phận chưa; ngài đã có quyền tài phán trên Giáo phận mà ngài được bổ nhiệm hay chưa; tên của ngài đã được nêu trong kinh nguyện Thánh thể hay chưa.
Trước tiên cần phân biệt “chức thánh” Giám mục, linh mục, phó tế với “chức vụ” mà các vị ấy đảm nhiệm.
Đối với Giáo hội địa phương là một giáo phận, Đức Giáo hoàng ra Tông sắc bổ nhiệm một linh mục, với “chức vụ”, hoặc:
– Giám mục giáo phận;
– Giám mục phó;
– Giám mục phụ tá.
Khi mới ra Tông sắc bổ nhiệm một linh mục làm Giám mục giáo phận mà thôi thì:
a- Linh mục đó chưa có “chức thánh” Giám mục và cũng chưa nhận “chức vụ” Giám mục giáo phận, hay Giám mục phó, Giám mục phụ tá;
b- Ngài chưa có quyền lãnh đạo hay tài phán trên giáo phận;
c- Tên của ngài có thể nêu trong kinh nguyện Thánh Thể, tuy không buộc.
Xin lý giải như sau:
1- Chưa là Giám mục, chưa là Giám mục giáo phận
Tiến chức Giám mục phải được tấn phong Giám mục thì mới có chức Thánh Giám mục. Điều này thì khá rõ.
Còn việc thi hành quyền lãnh đạo hay tài phán, Giáo luật quy định là không được thi hành chức vụ trước khi đảm nhận giáo phận, nghĩa là trước khi nhậm chức:
Điều 382
- l. Giám mục được tiến chức không được xen vào việc thi hành chức vụ đã được trao phó trước khi đảm nhận giáo phận theo Giáo luật; tuy nhiên, ngài có thể thi hành các chức vụ ngài đã giữ trong giáo phận đó trước khi được tiến chức, miễn là vẫn tôn trọng những quy định của điều 409§2.
Điều 382§l, tuy không có quy định là “vô hiệu” nếu tiến chức “xen vào việc thi hành chức vụ“, nhưng nếu tìm hiểu những quy tắc luật khác, thì sẽ thấy việc thi hành chức vụ ấy là vô hiệu. Và như vậy, khi chưa nhậm chức thì tiến chức Giám mục giáo phận chưa có quyền lãnh đạo hay quyền tài phán trên giáo phận.
Có thể căn cứ vào những điều luật như sau:
a- Nhậm chức là cần thiết để thành sự
Việc nhậm chức là rất cần thiết để “trở thành” Giám mục giáo phận hay Giám mục phó. Vì lẽ, nếu Giám mục phó mà đã không nhậm chức hợp lệ thì ngài không thể trở thành Giám mục phó và cũng không trở thành Giám mục giáo phận khi Tòa Giám mục khuyết vị, theo như quy định của điều 409§1.
Điều 409
- 1. Khi toà Giám mục khuyết vị, Giám mục phó tức khắc trở thành Giám mục của giáo phận vì đó mà ngài đã được đặt lên, miễn là ngài đã nhậm chức hợp luật.
b- Liên quan đến khuyết vị
Sự nhậm chức vô hiệu có thể do Tòa chưa khuyết vị:
Điều 153
- 1. Việc trao ban một chức vụ mà không khuyết vị theo luật thì vô hiệu do chính sự kiện, và không trở thành hữu hiệu do sự khuyết vị sau đó.
Hãy thử xét một trường hợp cụ thể: Đức Giáo hoàng ban Tông sắc thuyên chuyển một Giám mục giáo phận A đến giáo phận B, và bổ nhiệm một linh mục làm tân Giám mục giáo phận cho giáo phận A.
Khi Giám mục giáo phận A chưa “nhậm chức” ở giáo phận B do thuyên chuyển, thì tòa A “chưa bị khuyết vị”, như điều 418§1 quy định:
Điều 418
- 1. Trong vòng hai tháng kể từ khi nhận được tin chắc chắn về sự thuyên chuyển, Giám mục phải đến giáo phận mà ngài được sai đến và nhậm chức theo Giáo luật; và kể từ ngày ngài nhậm chức trong giáo phận mới, giáo phận cũ của ngài trở thành khuyết vị.
Mà khi Tòa chưa khuyết vị thì sự trao ban hay bổ nhiệm một chức vụ vào Tòa đó sẽ không hữu hiệu, căn cứ vào điều 153§1 kể trên.
Điều này chứng tỏ rằng, khi Tông sắc được ban ra, nó không hữu hiệu tức thời, nghĩa là linh mục được tiến chức Giám mục giáo phận không tức khắc trở thành Giám mục giáo phận. Khi giáo phận chưa khuyết vị thì làm sao tiến chức, có thể là Giám mục giáo phận với quyền lãnh đạo hay tài phán hữu hiệu ở giáo phận đó được.
c- Giá trị Tông sắc
Phản biện có thể cho rằng:
Vậy Tông sắc của Đức Giáo hoàng lại không có giá trị hay sao?
– Tông sắc của Đức Giáo hoàng tất nhiên là có giá trị (valide) hoàn toàn, nhưng hiệu lực (effetto) của Tông sắc lại còn tùy thuộc những nguyên tắc luật hay những điều kiện khác.
Rõ ràng nhất là Giáo luật có quy định là bổ nhiệm trước, rồi hiệu lực đến sau, kể từ ngày chức vụ bị khuyết vị.
Điều 153
- 2. Tuy nhiên, nếu là một chức vụ, chiếu theo luật, được trao ban (conferito) trong một thời gian nhất định, thì việc trao ban có thể được thực hiện trong vòng sáu tháng trước khi hết hạn, và có hiệu lực (effetto) kể từ ngày chức vụ khuyết vị.
Cũng tương tự, bộ Giáo luật được thiết lập (istituita) khi được công bố trên Công báo của Tòa Thánh (Acta Apostolicae Sedis), nhưng chỉ có hiệu lực (in vigore) sau ba tháng kể từ ngày được công bố trên Công báo. Còn luật địa phương thì chỉ hiệu lực sau khi công bố được một tháng (đ. 8).
Vậy sự chưa có hiệu lực của một sắc lệnh, một bộ luật… là tùy theo quy định luật. Không được cho rằng sắc lệnh đó là không có giá trị khi thấy nó chưa hay không hiệu lực.
Hơn nữa, có thể kể vài điều kiện liên quan đến sự hữu hiệu như:
Chức vụ Giám mục giáo phận sẽ vô hiệu nếu chức thánh linh mục của tiến chức là giả hoặc linh mục ấy chưa được Rửa tội. Nên biết: Hành vi pháp lý hễ bị vô hiệu thì cho dù do sự lầm lẫn hay không biết, hành vi ấy vẫn là vô hiệu (đ.15§1).
Chức vụ Giám mục giáo phận cũng sẽ vô hiệu, nếu tiến chức đã lãnh nhận vô hiệu chức thánh phó tế hay chức thánh linh mục. Ví dụ, được truyền chức linh mục bởi một vị tưởng là Giám mục mà thực sự là không có chức thánh Giám mục.
Các nhà chú giải cũng đồng ý rằng, khi chưa nhận quyền theo giáo luật, vị tiến chức Giám mục giáo phận nếu có thi hành quyền lãnh đạo thì cũng vô hiệu. S. Sipos trong quyển Bách khoa tự điển Giáo luật giải thích rằng, để có thể thực hiện quyền tài phán cách hữu hiệu (valide), cần phải có sự nhậm chức trước (ut iurisdictio per institutionem canonicam iam obtenta excercere valide possit, nessaria est introdutio in possessionem, quae est verbali set realis), (S. SIPOS, Enchiridion iuris canonici, §50, 205. Cf. F.X. WERNZ – P VIDAL, Ius Canonicum, n 597, 629.)
- Nêu danh tiến chức Giám mục trong Kinh nguyện Thánh Thể
Trong quyển Nghi thức của các Giám mục (Cerimoniale dei Vescovi) có quy định:
- Dal giorno della presa di possesso del vescovo, tutti i sacerdoti che celebrano la messa nella sua diocesi, anche nelle chiese e negli oratori degli esenti, devonoinserire il suo nome nella preghiera eucaristica.
- Kể từ ngày nhận chức của Giám mục, tất cả các linh mục cử hành thánh lễ trong giáo phận của ngài, ngay cả trong các nhà thờ và nhà nguyện của những dòng miễn trừ, đều phảinêu tên ngài trong kinh nguyện Thánh Thể.
Có người cho rằng chỉ nêu tên Giám mục sau khi ngài đã nhậm chức, căn cứ vào chính quy định của số 1147 này.
Tuy nhiên, cần phân biệt, đây là quy định đòi “phải” (devono), chứ không là quy định “cấm”. Quy định 1147 đòi “phải” nêu tên khi ngài đã nhậm chức, nhưng không cấm nêu tên khi chưa nhậm chức. Việc này cũng tương tự như trong một giáo phận, nếu có Giám mục đã về hưu hoặc Giáo mục nào khác, chúng ta cũng thường cầu nguyện cho cả Giám mục giáo phận và các Giám mục đó trong kinh nguyện Thánh Thể.
J.B. Lê Ngọc Dũng