2021
Linh đạo giáo dân
Linh đạo giáo dân
Thánh Âutinh nói: “Làm giám mục cho anh em, tôi rất sợ; làm tín hữu đối với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là danh hiệu đem lại ơn cứu độ”.
DẪN NHẬP
Khởi đi từ những mệnh lệnh của Tin Mừng: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không thể nào che dấu được” (Mt 5,13-14), thiết tưởng những Lời này phù hợp với người giáo dân hơn cả; họ là những con người sống giữa lòng trần thế, là muối, là ánh sáng cho đời, là “những nắm men” đang làm cho thế giới dậy men Tin Mừng (x. Mt 13,13). Dưới ánh sáng Công đồng Vatican II, một Công đồng đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, lưu tâm và đề cao vai trò của người giáo dân giữa lòng trần thế, chúng ta phác thảo một nền linh đạo giáo dân.
Trước tiên, chúng ta xác định người giáo dân là ai; kế đến, tìm hiểu vị trí của người giáo dân trong Giáo Hội; và cuối cùng xác định linh đạo giáo dân qua vai trò và sứ mạng của người giáo dân giữa lòng trần thế; đồng thời cũng vạch ra những thách đố và một vài gợi hướng để suy tư.
- NGƯỜI GIÁO DÂN LÀ AI?
- Khởi đi từ một cách nhìn tiêu cực
Xưa nay, người giáo dân không được nhìn nhận và đánh giá một cách đúng mức; họ thường được định nghĩa cách tiêu cực: giáo dân là những tín hữu không làm linh mục, không khấn dòng. Hồng y Gasquet, trong quyển “The Layman in the Pre-Reformation Parish” – “Giáo Hội trong thời kỳ tiền cải cách giáo xứ”, đã kể mẩu truyện dí dỏm:
Một Kitô hữu dự tòng hỏi linh mục: “Vai trò của giáo dân trong Giáo Hội như thế nào?”
Linh mục trả lời: “Giáo dân có hai vai trò, thứ nhất: quỳ trước bàn thờ; thứ hai: ngồi quay mặt về toà giảng”.
Sau đó, Đức Hồng y còn hài hước thêm: người ta còn quên vài trò quan trọng nữa của người giáo dân là đưa tay vào túi móc tiền ra bỏ vào rổ![1]
Quả thực, suốt nhiều thế kỷ, người giáo dân như “một người ở trọ” ngay trong chính nhà của mình! Trong bối cảnh một xã hội “nặng óc gia trưởng”, một Giáo Hội thượng tôn hàng giáo sĩ, thì vai trò người giáo dân thật là mờ nhạt. Trong đời sống đức tin, giáo dân đóng vai trò thụ động, mang tâm trạng được ban phát. Vô tình, đức tin bị tách ra khỏi đời sống xã hội; chỉ có Tin Mừng ở nhà thờ, nơi toà giảng; chứ không thể có Tin Mừng nơi công sở, nơi phố chợ hay sạp cá! Và ngay cả việc nên thánh cũng là đặc quyền của hàng giáo sĩ, giới tu hành; giáo dân hoàn toàn lo việc đời và thuộc về thế gian, muốn nên thánh thì phải rập khuôn theo nếp sống của những bậc tu hành. Một não trạng như thế khá phổ biến nơi phần đồng những tín hữu đơn thành, chân chất.
Thiết tưởng, chúng ta cần vượt qua những quan niệm thiển cận như thế, người giáo dân phải được trả lại vị trí đúng đắn của mình, vì họ có một nền linh đạo, hay một đường hướng nên thánh đặc thù, chứ không phải là một thứ bản sao của hàng giáo sĩ.
Chúng ta tìm hiểu cách nhìn tích cực này về người giáo dân dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II.
- Cách nhìn tích cực về người giáo dân dưới ánh sáng Công đồng Vatican II
Công đồng Vatican II (Hiến chế về Hội Thánh, số 31), định nghĩa người giáo dân cách tích cực: giáo dân là tín hữu sống giữa đời, đặc trưng của giáo dân là trần thế.
Tuy nhiên, không ít tác giả phản ứng lại định nghĩa này, vì không chỉ có giáo dân mới sống giữa đời, mà ngay cả giáo sĩ, tu sĩ cũng sống giữa đời (thế giới của họ đâu phải là sa mạc hay cung trăng đâu!). Hơn nữa, phải hiểu thế nào là “giáo dân”, trẻ mới rửa tội đã là giáo dân, hay phải là người tín hữu trưởng thành?…
Theo Cha Hans Urs Von Balthasar, thì không có linh đạo nào đặc trưng của giáo dân cả, họ chỉ là những tín hữu và gắng nên thánh trong những điều kiện sinh sống cụ thể hằng ngày.[2]
Như vậy, người giáo dân là ai? Họ có sứ mạng gì không? Để trả lời câu hỏi “người giáo dân là ai?”, Công đồng Vatican II đã loại bỏ giải pháp dễ dãi của một định nghĩa tiêu cực, mà nhìn nhận vai trò người giáo dân một cách tích cực hơn. Công đồng bày tỏ ý hướng nền tảng của mình qua việc khẳng định rằng người giáo dân hoàn toàn thuộc về Giáo Hội, cũng như thuộc về mầu nhiệm của Giáo Hội; và nét đặc trưng trong ơn gọi của họ có mục đích riêng là “tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách quản trị các sự việc trần thế và xếp đặt chúng theo thánh ý Thiên Chúa một cách đặc biệt”.[3]
Hiến chế Ánh sáng Muôn dân quảng diễn tư tưởng trên như sau:
Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả giáo hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì[4] được Giáo Hội công nhận: nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô nhờ phép Thanh tẩy, đã trở nên Dân Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình.[5]
Đức Piô XII, trong diễn từ đọc trước các tân Hồng y (20.2.1946), đã khẳng định:
Các tín hữu, hay chính xác hơn, người giáo dân, có mặt ở hàng ngũ tiên phong trong đời sống Giáo hội; nhờ họ, Giáo Hội trở thành nguyên lý sống động cho xã hội nhân loại. Chính vì thế, họ là những người trước hết phải có một ý thức luôn luôn sáng suốt rằng không những mình thuộc về Giáo Hội, mà còn là chính Giáo Hội, tức là cộng đoàn tín hữu trên trần gian, dưới sự lãnh đạo của một vị thủ lãnh chung, là đức giáo hoàng, và các vị giám mục hiệp thông với ngài. Người giáo dân là Giáo Hội.[6]
Khẳng định trên của Đức Thánh Cha đã gây ý thức và có ảnh hưởng lớn trong Giáo Hội. Về sau, Thượng Hội đồng Giám mục 1987, và Tông huấn Kitô hữu Giáo dân của Đức Gioan Phaolô II cũng đã nhắc lại ý tưởng đó.[7]
Từ một góc nhìn mới mẻ về người giáo dân như thế, chúng ta tìm hiểu về vị trí của họ trong Giáo Hội.
- VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI
Trước khi tìm hiểu về vị trí của người giáo dân, thiết tưởng chúng ta cần xác định lại quan điểm thế nào là Giáo Hội; bởi vì đã có không ít những quan điểm phiến diện, lệch lạc. Công đồng cho chúng ta lối nhìn căn bản:
- Giáo Hội là Dân Thiên Chúa
“Dân Thiên Chúa” là một ý niệm giữ vị trí then chốt trong toàn thể tư tưởng của Hiến chế Ánh sáng Muôn dân. Ý niệm này được xây dựng trên nền tảng lịch sử và Kinh Thánh: từ một dân tộc được Chúa chọn làm Dân riêng, đến một Giáo Hội lữ hành tiến về quê trời như Dân riêng tiến về đất hứa. Giáo Hội chính là một Dân mới có tính phổ quát và hoàn hảo hơn, đó cũng chính là Dân Chúa chọn để làm nên một “dân tư tế, dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2,9).
Hạn từ “Dân Thiên Chúa” gợi lên cho chúng ta cách nhìn xuyên suốt, liên tục trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Giáo Hội là Israel mới, là dân cánh chung; và mọi người luôn được mời gọi gia nhập dân này qua Bí tích Thánh Tẩy, và được mang một danh xưng đặc biệt: người Kitô hữu.
“Dân Thiên Chúa” cũng là một hạn từ có khả năng diễn tả sống động hình ảnh cụ thể của Giáo Hội, hình ảnh một đoàn dân quy tụ.[8] Cách nhìn này cho thấy sự bình đẳng của mọi người tín hữu, đánh đổ một lối nhìn về Giáo Hội theo lối hình chóp; hoăc lối nhìn chỉ thấy Giáo Hội là hàng giáo phẩm.
Ngoài hình ảnh sống động Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, Giáo Hội còn được diễn tả là Nhiệm thể Chúa Kitô;[9] trong nhiệm thể này, các chi thể đều bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Từ nền tảng hai ý niệm quan trọng này về Giáo hội, chúng ta tìm hiểu vị trí của người giáo dân trong Giáo Hội.
- Vị trí căn bản của người giáo dân trong Giáo Hội
Sau Công đồng Vatican II, một Thượng Hội đồng Giám mục đã nhóm họp vào tháng 10-1987 để bàn về ơn gọi và sứ mạng người giáo dân trong Giáo Hội và thế giới; thành quả được đúc kết trong Tông huấn Christifideles Laici, do Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 31-12-1988. Trong văn kiện, chân dung người tín hữu giáo dân được diễn tả qua vị trí của họ trong Giáo Hội nhìn từ 3 chiều kích: mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.[10]
– Chiều kích mầu nhiệm: Người giáo dân được hưởng trọn vẹn phẩm giá của Kitô hữu, nghĩa là con cái của Thiên Chúa, thân thể của Đức Kitô, đền thờ của Chúa Thánh Thần (số 11-13). Họ được thông dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô (số 14)[11], vì là đền thờ của Chúa Thánh Thần, nên người giáo dân được mời gọi nên thánh bằng cách phát triển những hoa trái của Thánh Linh (số 16).[12]
– Chiều kích hiệp thông: người giáo dân được lãnh những đặc sủng khác nhau, tất cả những đặc sủng này đều nhằm mưu ích cho cộng đoàn, xây dựng, duy trì những mối dây liên kết với những phần tử khác trong các cấp độ cộng đoàn khác nhau (giáo họ, giáo xứ, giáo phận, Giáo Hội hoàn vũ).[13]
– Chiều kích sứ vụ: người giáo dân tham gia vào sứ mệnh của Giáo Hội trong thế giới, đặc biệt nơi những môi trường mà Tin Mừng chưa thấm nhập: những môi trường ngoài Kitô giáo; những môi trường phản kháng, chống đối Kitô giáo…[14]
Liên kết 3 chiều kích trên, ta thấy người giáo dân có một vị trí đặc biệt trong Giáo Hội, người giáo dân là chính Giáo Hội,[15] là Dân Thiên Chúa, là Thân thể Mầu nhiệm Chúa Kitô, họ bình đẳng với mọi thành phần khác về vị trí và giá trị như bất cứ thành phần nào trong Thân Thể Huyền Nhiệm.[16]
III. LINH ĐẠO GIÁO DÂN
Nếu người giáo dân có vị thế căn bản trong Giáo Hội, thì cũng có một linh đạo dành riêng cho họ. Linh đạo này được đặt nền trên Bí tích Thanh Tẩy.
- Nền tảng căn bản: Bí tích Thánh Tẩy
Khi lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, người Kitô hữu được chia sẻ ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô. Tuy nhiên, người giáo dân, do tính cách trần thế, đã hành xử 3 chức vụ này khác với hàng giáo sĩ. Chúng tìm hiểu nét đặc thù của từng vai trò đó.
- Vai trò tư tế
Chúa Kitô là vị thượng tế duy nhất, duy mình Người mới có thể dâng lên Chúa Cha hiến lễ đích thực có giá trị vĩnh viễn cứu độ con người. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng trao quyền tế lễ cho các thừa tác viên của Người khi thiết lập tác vụ linh mục. Để thi hành chức vụ này cách trọn vẹn, Đức Giêsu mời gọi một dân là Giáo Hội, dân được thánh hoá để trở thành dân thánh, dân tư tế (x. 1 Pr 2,9).
Người giáo dân được chia sẻ chức tư tế Chúa ban cho Giáo Hội, gọi là chức tư tế cộng đồng.[17] Nhờ chức tư tế này, người giáo dân có thể thực sự thánh hoá đời sống mình, thánh hoá mọi sinh hoạt trần thế, mọi chức vụ, và ngay cả những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Tất cả được kết hợp với hiến tế duy nhất của Đức Kitô, dâng lên Chúa Cha, để nên lời ca khen chúc tụng cũng như mang lại ơn cứu độ cho chính mình và cho nhân loại.[18]
Mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công việc làm hằng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô.[19]
- Vai trò ngôn sứ
Ngôn sứ hay tiên tri là những người được Chúa tuyển chọn, thay mặt Chúa để nói Lời và ý muốn của Người cho nhân loại. Đức Giêsu là vị ngôn sứ vĩ đại, Người đến và nói “những điều đã nghe biết nơi Chúa Cha”. Đức Giêsu là điểm thành toàn của tất cả các ngôn sứ; nói cách khác, tất cả các ngôn sứ đều là chuẩn bị và loan báo Đức Giêsu sẽ đến.
Người giáo dân tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Đức Giêsu bằng cách góp phần vào sứ vụ loan báo ý định cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại: họ bày tỏ đức tin và đức ái cho những người chung quanh, trong lĩnh vực nghề nghiệp, và nhất là trong đời sống gia đình.
Được thánh hoá do Bí tích Hôn Nhân, hai vợ chồng cùng làm chứng cho nhau và con cái về lòng tin và tình yêu của Chúa, để cho gia đình Kitô giáo vừa là nơi huấn luyện tuyệt diệu cho công cuộc tông đồ, vừa bày tỏ sức mạnh của Tin Mừng giữa lòng thế giới.[20]
Thiết tưởng vai trò ngôn sứ của người giáo dân trong thời đại hôm nay, còn là đọc ra ý định của Thiên Chúa qua dấu chỉ và các biến cố của thời đại, một thời đại đầy biến động, đổi thay chóng mặt. Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với con người, nhưng điều quan trọng là con người có nhận ra và đáp trả hay không.
- Vai trò vương giả
Đức Giêsu đã vâng phục Chúa Cha cho đến chết. Khi mọi sự hoàn tất, khi Người tiêu diệt hết mọi quản thần, quyền thần và dũng thần, Người trao lại vương quyền cho Thiên Chúa là Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi sự và cho mọi người (x. 1 Cr 15,20-28).
Khi lãnh nhận chức vụ vương giả của Đức Kitô, người giáo dân được hưởng một sự tự do đích thực, tự do hào hùng của con cái Chúa, không còn làm nô lệ cho ác thần, và được ban sức mạnh để chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi mình. Chức vụ vượng giả này cũng thúc đẩy người giáo dân có trách nhiệm phải hăng say hoạt động để đưa tất cả mọi anh em của mình về với Thiên Chúa.
Để thi hành vai trò này, Công đồng nhắc nhở người giáo dân cần phải nhận biết bản tính sâu xa của các thụ tạo, cứu cánh của chúng phải hướng về Thiên Chúa, chờ đợi ngày Thiên Chúa cứu độ trọn vẹn; cho nên người giáo dân giữa môi trường trần thế, cần phải nỗ lực làm cho trần gian thấm nhuần ơn cứu độ của Đức Kitô và đạt tới cùng đích cách hữu hiệu hơn trong công lý, hoà bình và bác ái.[21]
- Sứ mạng thánh hoá trần thế
Có thể nói sứ mạng đặc trưng của người giáo dân là thánh hoá trần thế, là nên men, nên muối cho đời.
- Lời mời gọi nên thánh của mọi Kitô hữu
Nên thánh không phải là đặc quyền của riêng thành phần nào, tất cả mọi người đều được mời gọi trở nên hoàn thiện, và phải trở nên hoàn thiện. Các phương tiện nên thánh của người giáo dân cũng là những phương chung cho tất cả mọi tín hữu: đời sống nhân đức, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và các bí tích, việc cầu nguyện, hy sinh, bác ái… và những sinh hoạt hằng ngày; nhờ thế, toàn thể cuộc đời trở nên hiến tế tinh tuyền đẹp lòng Chúa và góp phần thánh hoá nhân loại.[22]
Người giáo dân nên thánh trong những điều kiện cụ thể của cuộc sống: nơi gia đình, nơi phố chợ, nơi công sở… Nhờ sống đạo giữa lòng nhân loại như vậy, họ góp phần tích cực “Tin Mừng hoá” thế giới; một thế giới còn quá nhiều chọn lựa nghịch với giá trị của Tin Mừng. Nét đặc trưng của người giáo dân là nên thánh gữa đời, giữa những xô bồ náo nhiệt chứ không phải nơi sa mạc hoang vu hay tu viện bốn bề yên tĩnh.
- Tính cách trần thế trong sứ sứ mạng của người giáo dân
Đức Piô XII, trong bài phát biểu tại đại hội thế giới năm 1957, đã đưa ra những nhận định khá rõ nét về tính cách đặc thù trong sứ mạng của người giáo dân:
Mối tương quan giữa Giáo Hội và thế giới đòi phải có sự can thiệp của các tông đồ giao dân. Việc “thánh hiến trần gian”, trong cốt yếu, chính là công việc của người giáo dân, là những người hoà nhập một cách chặt chẽ vào đời sống kinh tế xã hội.
Nhìn lại lịch sử nhân loại, sau đệ nhị thế chiến, trước một xã hội đổ vỡ tan nát nhưng cũng đang manh nha nhiều yếu tố mới mẻ, Đức Gioan XXIII đề cập đến vai trò người giáo dân như là lời đáp trả tiếng kêu khẩn thiết của thế giới:
Giáo Hội hôm nay phải đương đầu với một trách nhiệm lớn lao: đem sắc thái nhân bản và Kitô giáo vào trong nền văn minh hiện đại, sắc thái mà nền văn minh này đòi hỏi và dường như khẩn khoản nài xin, nhằm lợi ích phát triển và sự hiện hữu của nền văn minh ấy. Giáo Hội chu toàn cách trách nhiệm ấy, đặc biệt nhờ các giáo dân, là những người phải cảm thấy mình dấn thân vào việc thực hiện những hoạt động nghề nghiệp như là việc chu toàn một nghĩa vụ, như là một dịch vụ mà do họ thực hiện trong sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, trong Đức Kitô, để làm vinh danh Người.[23]
Như vậy, với vị thế đặc biệt của mình, người giáo dân có thể thi hành những sứ mạng mà hàng giáo sĩ không thể nào chu toàn nổi. Họ đang là men Tin Mừng, là muối ướp trần gian. Người giáo dân đang nỗ lực xây dựng Nước trời ngang qua những nẻo đường trần thế, họ là lời nhắc nhở một thời cánh chung đã khởi đầu và đang tiến về sự viên mãn. Lời của Đức Gioan Phaolô II, trong bài giảng bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục 1987, càng cho ta xác tín hơn sứ mạng đặc thù của người giáo dân:
Người tín hữu giáo dân được đặt vào tận biên thuỳ của lịch sử: gia đình, văn hóa, xã hội, thế giới lao động, kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật, truyền thông đại chúng, những vấn đề lớn của sự sống, của liên đới, hoà bình, đạo đức nghiệp vụ, nhân quyền, giáo dục, tự do tôn giáo.
- Những thách đố
Ở trên, chúng ta đã phác thảo linh đạo của người giáo dân dựa trên nền tảng căn bản là bí tích Thánh tẩy; thực ra, Bí tích Thánh Tẩy là nền tảng chung cho mọi Kitô hữu, chẳng kỳ họ là giáo dân hay giáo sĩ. Thiết tưởng ngay trong cách phân chia này, dù có nhìn tích cực đến đâu, người giáo dân vẫn bị xếp hạng. Phải nói rằng Công đồng Vatican II đã có bước đột phá rất lớn trong việc xác định lại vai trò của người giáo dân trong Giáo Hội, đưa ra những suy tư định hướng cho một nền linh đạo giáo dân; tuy nhiên, đây mới chỉ là lý thuyết, hay những biểu ngữ sáo rỗng; về phương diện thực hành, Công đồng không đưa ra những chỉ dẫn cụ thể để người giáo dân có thể tham gia một cách tích cực vào những tác vụ của Giáo Hội;[24] cho nên sứ mạng chung của cả Giáo Hội vẫn thường bị coi như là công việc riêng của hàng giáo sĩ, đặc biệt là trong công tác quản trị.
Một chút nhìn lại lịch sử, trong thiên niên kỷ thứ nhất, giáo dân và giáo sĩ phát triển song hành; bước sang thiên niên kỷ thứ hai, hình ảnh người giáo dân mờ nhạt, hàng giáo sĩ thượng tôn. Nếu dự đoán một chút về tương lai, phải chăng thiên niên kỷ thứ ba này phải là thiên niên kỷ của người giáo dân? Phải chăng cần một lối nhìn thần học mới về người giáo dân, tránh những địa vị, chức tước quá nhiều? Ở một số vùng sâu xa hẻo lánh, người giáo dân được chia sẻ một số tác vụ mà từ trước đến nay chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, ví dụ như: quản trị cộng đoàn, trao Mình Thánh Chúa, thăm viếng và trao Của Ăn Đàng cho kẻ liệt…; tuy nhiên, những tác vụ này chỉ được thực thi một cách ngoại thường, như một biện pháp chữa cháy, chứ không phải là tác vụ chính thức người giáo dân được trao phó.
Cũng có những trường hợp người giáo dân lạm dụng chức quyền, chi phối cả những hoạt động của Giáo Hội. Điều này đã từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: Vào thế kỷ 10, người giáo dân có quyền bầu giám mục; và rồi nhiều giáo dân có vai vế, xen mình cả vào việc bầu giáo hoàng. Do vậy, từ thế kỷ 11, Giáo Hội dần dần bị cơ cấu hoá và dẫn đến tình trạng giáo sĩ trị, quyền bính của hàng giáo sĩ ngày càng được củng cố và đẩy lui vị trí của người giáo dân. Tình trạng thái quá bất cập này còn được Công đồng Trentô củng cố vững mạnh hơn nữa. Suốt cả 10 thế kỷ, người giáo dân một cách vô tình chỉ được coi là một Kitô hữu hạng hai; cho tới Vatican II, lối nhìn này mới được đặt lại. Tuy nhiên, để có thể thay đổi não trạng, cả về phía giáo sĩ lẫn giáo dân, cần phải có một “cuộc cách mạng” và phải cần thời gian nữa.
KẾT LUẬN
Thánh Âutinh nói: “Làm giám mục cho anh em, tôi rất sợ; làm tín hữu đối với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là danh hiệu đem lại ơn cứu độ”.
Quả thực, ơn gọi căn bản và cao quý nhất của mỗi người, đó là ơn gọi được làm Kitô hữu. Qua Bí tích Thanh Tẩy, người tín hữu được tháp nhập vào Thân thể Mầu nhiệm của Đức Kitô, được quy tụ thành dân Thiên Chúa, được chia sẻ 3 chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô. Dù là giáo dân hay giáo sĩ, tất cả đều bình đẳng và được trân trọng như những bộ phận khác nhau trong cùng một thân thể. Mỗi bộ phận có chức năng riêng, nhưng tất cả đều nhằm phục vụ cho lợi ích chung. Có lẽ trong thiên niên kỷ thứ ba này, cần phải triển khai ơn gọi là Kitô hữu, như ơn gọi nền tảng của mọi thành phần dân Chúa, và đặc biệt phải giúp người giáo dân nhận ra phẩm giá và vai trò đặc biệt của mình là một Kitô hữu sống ơn gọi giáo dân, cũng như những Kitô hữu khác sống ơn gọi tu sĩ, linh mục.
Chính từ ý thức này, người giáo dân dấn thân vào trần thế như một chức năng riêng biệt. Ứng với từng hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo nghề nghiệp, tuổi tác, tình trạng bản thân, môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị… người giáo dân phải thích ứng và đem vào đó những giá trị Tin Mừng.
________________________________________
Tài liệu tham khảo:
– Thánh Công đồng chung Vatican II.
– Phanxicô Xaviê Nguyễn Hữu Tấn, Linh đạo giáo dân, Đại Chủng viện Thánh Giuse, 1990-1991.
– Phan Tấn Thành, Đời sống Tâm linh, tập III, Rôma 2003, chương 12.
– Nguyễn Trọng Viễn, Linh đạo Giáo dân và Linh đạo Giáo dân Đaminh, Tài liệu tham khảo khóa học tập về giáo dân Đaminh.
– Thiện Cẩm, Giáo Hội, Cộng đồng Dân Thiên Chúa, 1994.
– F. Antonisamy, An introduction to Christian spirituality, St. Pauls, 2000.
Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP
[1] x. Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Hữu Tấn, tr. 2.
[2] x. Phan Tấn Thành, tr. 378.
[3] x. Hiến chế Ánh sáng Muôn dân, số 31,2.
[4] Nên có sự phân biệt ở đây, theo Giáo luật, những tu sĩ không có chức thánh, cũng thuộc vào hàng giáo dân. Theo cấp độ phẩm trật, chỉ phân biệt hàng giáo dân và giáo sĩ (đây là chú thích của người viết chứ không phải của bản văn).
[5] x. Hiến chế Ánh sáng muôn dân, số 31.
[6] Trích theo Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Hữu Tấn, tr. 251.
[7] x. Nguyễn Trọng Viễn, tr. 2.
[8] Giáo Hội, theo tiếng Hylạp là Ekklesia, nghĩa là sự quy tụ.
[9] x. Cr 12, 12-30; LG 7.
[10] x. Phan Tấn Thành, tr. 378.
[11] Chúng ta sẽ khai triển riêng ba chức vụ này khi bàn về vai trò của giáo dân giữa lòng trần thế.
[12] x. Chương I của Tông huấn Christifideles laici, nói về chiều kích mầu nhiệm trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi.
[13] x. Chương II của Tông huấn Christifideles laici, nói về nội bộ của Giáo hội.
[14] x. Chương III của Tông huấn Christifideles laici.
[15] Cách diễn tả của Đức Piô XII.
[16] x. 1 Cr 12,12.
[17] Chức tư tế cộng đồng phân biệt với chức tư tế của các linh mục là chức tư tế thừa tác.
[18] Hiến chế Ánh sáng Muôn dân, số 32.
[19] Ibidem, số 32.
[20] Ibidem, số 32.
[21] x. Nguyễn Trọng Viễn, tr. 7.
[22] x. Phan Tấn Thành, tr. 379.
[23] Đức Gioan XXIII, Thông điệp Mẹ và Thầy, ban hành ngày 15-5-1961.
[24] Những tác vụ tư tế, ngôn sứ, vương giả, chỉ được giải thích một cách hạn hẹp, một chiều. Trong thức tế: phải là người có chức thánh mới được công bố Tin Mừng, phải là linh mục chánh xứ mới có quyền tài phán… Không phải là cào bằng tất cả những tác vụ ở đây, nhưng thực tế là vai trò của người giáo dân rất bị hạn chế.
2021
Bộ Kinh Thánh nào thích hợp cho tôi?
Bộ Kinh Thánh nào thích hợp cho tôi?
Chọn một bộ Kinh Thánh thích hợp có phải là một vấn đề khó khăn không? Ðã gọi là Kinh Thánh thì cứ đọc việc gì phải thắc mắc hay đặt vấn đề, chúng ta thường nghĩ như vậy! Chẳng có gì sai lầm trong lập luận ấy nhưng ở một xứ sở như Hoa Kỳ có quá nhiều bản dịch Kinh Thánh lưu hành khiến người công giáo chúng ta đâm ra hoài nghi đâu mới là bản dịch chính thức được Giáo Hội Công Giáo công nhận.
Ðôi khi cũng một đoạn Kinh Thánh nhưng ba ấn bản có ba lối dịch khác nhau khiến chúng ta đôi khi tự đặt câu hỏi chẳng biết đoạn văn nguyên thủy có ý muốn nói gì. Bài viết này không nhằm nêu lên vấn đề đúng sai của các văn bản Kinh Thánh đang lưu hành nhưng chỉ với mục đích lược qua lịch sử các bản dịch để độc giả tự chọn cho mình một bộ Kinh Thánh thích hợp hầu việc suy niệm Lời Chúa đem lại ích lợi cho đời sống chứng nhân của mình.
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ CÁC BẢN DỊCH KINH THÁNH (ANH NGỮ)
Văn bản Anh ngữ đầu tiên của toàn pho Kinh Thánh ra đời khoảng giữa các năm 1380 và 1382. Ðây là công trình của John Wycliffe đã chuyển dịch từ văn bản La Tinh Vulgata. Bản dịch này bị Giáo Hội lên án và sau này văn bản này bị cháy mất. Năm 1525, William Tyndale hoàn thành việc chuyển dịch bộ Tân Ước từ bản văn Hy Lạp. Pho Tân Ước này cũng không được Giáo Hội công nhận vì thế bản văn này bị tịch thu và người dịch sau này bị án tử.
Khi Giáo Hội Anh ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo Roma dưới thời vua Henry VIII, Thomas Cromwell đã chính thức phê chuẩn bản dịch Anh Ngữ của ông Miles Coverdale. Bộ Kinh Thánh này đặt căn bản vào công trình của William Tyndale. Ngày 10 tháng 2 năm 1604, vua James I ra lệnh chuyển dịch pho Kinh Thánh mới và hoàn hảo hơn bằng Anh ngữ. Ông đã chọn lựa một số dịch giả và các nhà nghiên cứu chuyên môn cho công việc này. Pho Kinh Thánh mới này được chuyển dịch trực tiếp từ bản văn Hy Lạp và Do Thái. Kết quả bản dịch Anh Ngữ này có tầm quan trọng nhất và được những người Thệ Phản (Protestants) sử dụng thường xuyên nhất. Người ta gọi đó là ấn bản King James I năm 1611.
Trong khi đó, một văn bản Anh ngữ khác cũng được chuyển dịch, tuy không cùng năm nhưng cũng cùng kỷ nguyên với văn bản Anh ngữ của King James I, dựa trên văn bản Vulgata được người Công Giáo chú ý và sử dụng (Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo Hội bành trướng khắp đế quốc Rôma. Vì ngôn ngữ chính trong đế quốc là tiếng Latinh, nên Thánh Jêrôme đã dịch Kinh Thánh ra tiếng này và sau thường gọi đó là bộ Kinh Thánh Vulgata ( -vulgatus trong tiếng Latinh có nghĩa là thông dụng, thường ngày -). Văn bản này là công trình chuyển dịch của George Martin, một nhà nghiên cứu Kinh Thánh Oxford. Pho Kinh Thánh này được nổi bật nhờ sự bảo trợ của Ðức Hồng Y William Allen (ÐHY Allen đã bị trục xuất khỏi Anh Quốc năm 1565, Ngài sang cư ngụ tại Douay Pháp quốc và mở trường Ðại Học nơi đây nhằm đào tạo các linh mục Công Giáo chuẩn bị cho ngày trở về hoán cải Giáo Hội Anh quốc). Bản dịch này xuất hiện ở hai thành phố Douay và Rheims nước Pháp vào khoảng năm 1609 và 1610, vì vậy được gọi là bản Douay&Rheims. Bản dịch này được người Công Giáo nói tiếng Anh sử dụng trong suốt 350 năm và chỉ được thay thế dần khi ấn bản Kinh Thánh mới của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ chính thức xuất bản vào thập niên 1970.
Trong khi đó, Ấn bản của King James I cũng được giáo phái Thệ Phản thường xuyên sử dụng trong suốt 250 năm. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, một vài bản dịch Anh ngữ khác đã xuất hiện. Trong khoảng các năm 1952 và năm 1989, tốc độ chuyển dịch tăng nhanh một cách đột ngột, ít nhất đã có 26 bản dịch Anh ngữ được xuất bản trong thời gian này. Có nhiều lý do người ta dùng để biện hộ cho sự kiện trên:
Trước hết, vì khoa khảo cổ ngày càng tiến bộ nhờ thế các nhà nghiên cứu Kinh Thánh đã thu lượm được nhiều thủ bản Kinh Thánh bằng tiếng Hi Lạp, Do Thái và Aram giúp cho việc phiên dịch thêm chuẩn xác trong nhiều đoạn văn hiện còn tối nghĩa.
Thứ đến, người ta cho rằng ngôn ngữ và nhất là Anh ngữ ngày một biến thiên và thay đổi, việc cập nhật hóa những ngôn từ Kinh Thánh trong Anh ngữ là cần thiết. Một đoạn tiêu biểu chẳng hạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu 2,16, bản văn năm 1946 trong ấn bản Revised Standard Version dịch là: “Then Herod saw that he had been tricked by the wise men, was in a furious rage, and he sent and killed all the male children in Bethlehem.” và cũng cùng câu đó trong ấn bản New American Bible’s năm 1986 dịch là: “When Herod realized that he had been deceived by the magi, he became furious. He ordered the massacre of all the boys in Bethlehem.” Giữa hai bản dịch chỉ cách nhau 4 thập niên, chúng ta đã cảm được lối hành văn khác biệt, văn phong nhẹ nhàng và dễ hiểu hơn nhiều thì thử hỏi nếu đọc lên những đoạn văn của John Wycliffe năm 1382 và của King James I năm 1611 làm sao chúng ta hiểu nổi.
Các dịch giả hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống chuẩn xác nhưng thêm phần dễ đọc. Chẳng hạn đoạn thư Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Philippê đoạn 1, 12 được dịch như sau: ” To know now you brethren I want that the things to me rather for the advancement of the gospel have come.” Một vài dịch giả lại dịch bản văn thật sát nghĩa theo từng chữ (word-for-word) và chỉ chuyển đổi vị trí của chữ hoặc những thay đổi khác khi cần thiết và đoạn văn được dịch và viết như sau: ” Now I want you to know, brethen, that the things (which have happened) to me have come for the advancement of the gospel”. Cũng có những dịch giả lại chỉ nhắm vào ý nghĩa câu văn (meaning-for-meaning) hơn là chú trọng vào nghĩa từng chữ và đoạn văn được dịch lại như sau: “Now I want you to know, brothers, that what has happened to me has really served to advance the gospel.” Ða số những dịch giả này chú trọng vào việc truyền bá Tin Mừng cho người nói tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai (English as second language) và các ấn bản Kinh Thánh này được gọi là International version. Trong những ấn bản này ý nghĩa câu văn được coi là “không thay đổi” nhưng những chữ sử dụng đôi khi không còn là những từ ngữ chính xác dùng trong văn bản Do Thái.
KINH THÁNH CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ CỦA GIÁO HỘI THỆ PHẢN.
Pho Kinh Thánh của Giáo Hội Công Giáo và pho Kinh Thánh của Giáo Hội thệ phản có hoàn toàn giống nhau không? Công Giáo và Thệ Phản giáo đều công nhận 27 cuốn sách của phần Tân Ước, nhưng phần Cựu Ước lại có nhiều phần khác biệt.
Giáo Hội Công Giáo không xác định chính xác số sách trong Cựu Ước được chấp nhận là có sự Linh Hứng của Chúa Thánh Thần cho mãi tới năm 1546 qua Công Ðồng Trentô. Công Ðồng chỉ công nhận 46 cuốn sách trong Cựu Ước theo truyền thống của Giáo Hội từ thuở sơ khai. Trong khi đó lãnh tụ Thệ Phản Giáo, Lutherô, lại quyết liệt phản đối quyết định này của Công Ðồng. Ông không chấp nhận 7 cuốn sách: Tôbia, Judith, Khôn Ngoan, Sirach, Baruch, Maccabê I và II. Ðồng thời một vài phần trong sách Esther và Daniel cũng bị Ông cho là thiếu sự Linh Hứng của Thánh Linh. Thệ Phản Giáo gọi 7 quyển sách này là Ngụy Thư nhưng Công Giáo thì coi đây là những sách Thứ Luật (Quy điển thứ).
Ngày nay có rất nhiều bản dịch Kinh Thánh hiện đại tại Hoa Kỳ với các ấn bản Công Giáo. Những bản dịch này luôn mang chữ imprimatur (sự bảo đảm của các Giám Mục Công Giáo về văn bản nằm trong đường hướng giảng dạy của Giáo Hội) và bao gồm cả bảy cuốn sách Thứ Luật.
NHỮNG ẤN BẢN KINH THÁNH TẠI HOA KỲ
Revised Standard Version (RSV) Bản dịch này dựa trên văn bản của King James I, có phần tham chiếu cho việc nghiên cứu Kinh Thánh. Bản dịch có tính chính xác và vẫn giữ nguyên các thành ngữ cổ. Có ấn bản Công Giáo.
New Revised Standard Version (NRSV) Bản dịch này vẫn theo đường hướng của bản dịch trên (RSV) nhưng với sự bén nhậy của ngôn ngữ. Những ngôn từ truyền thống khi nói về Thiên Chúa vẫn được giữ nguyên vẹn nhưng với các thành ngữ diễn tả văn hóa của người Hoa Kỳ đã được cập nhật theo văn chương hiện đại. Có ấn bản Công Giáo.
New American Bible With Revised New Testament and Psalms (BAB-RNT) Bản dịch này là ấn bản tiêu chuẩn của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ về Kinh Thánh. Ðây là ấn bản đã được cập nhật do Hội New American Bible (1952-1970) với sự chuẩn xác và cập nhật trong ngôn ngữ. Bản dịch này hiện đang chính thức được sử dụng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa tại các thánh đường Công Giáo Hoa Kỳ và nhiều quốc gia sử dụng Anh ngữ khác.
New International Version (NIV) Bản dịch này nhằm mục đích phổ biến Kinh Thánh cho những người sử dụng Anh ngữ trên toàn thế giới. Bản dịch tương đối trung thành với ngôn từ Thánh Kinh hơn bản NRSV ở trên. Không có ấn bản Công giáo.
Today English Version (TEV)/ Good News Bible Bản dịch này được hội American Bible Society bảo trợ và hoàn thành khoảng giữa các năm 1976 và 1979. Các ấn bản của bản dịch này thường được biết đến qua tên gọi Good News Bible. Bản dịch này với mục đích tôn trọng sự chuẩn xác qua ngôn từ giản lược nên đã chuyển dịch theo nghĩa của đoạn văn. Có ấn bản Công Giáo.
Comtemporary English Version (CEV) Ðây là bản dịch mới của hội American Bible Society, phát hành năm 1995 với văn phong nhẹ nhàng, trong sáng và hiện đại. Hiện bản dịch còn đang chờ Giáo quyền phê chuẩn nên chưa có ấn bản Công Giáo.
New Jerusalem Bible (NJB) Lần đầu xuất bản năm 1982. Ấn bản này là hậu thân của bộ Kinh Thánh Jêrusalem Bible (JB) xuất bản năm 1966. Cả hai bản dịch trên được cảm hứng từ những bản dịch Pháp ngữ của các nhà nghiên cứu Công Giáo Dòng Ða Minh tại viện Kinh Thánh Jêrusalem. Bản dịch Anh ngữ này dựa trên nguyên bản tiếng Do Thái, Aram và Hy Lạp và đối chiếu với bản dịch Pháp ngữ. Văn bản đầy tính thơ. Bộ Kinh Thánh Công Giáo này được ca ngợi là đầy đủ tham chiếu và trích dẫn.
New King James Version (NKJV)hoàn thành năm 1982, bộ Kinh Thánh này nhằm cập nhật bản dịch của King James I mà không sửa đổi nhiều trong bản dịch. Những thành ngữ hay những chữ quá cổ như Thou, Thee sẽ được thay đổi hoặc những câu văn quá dài sẽ được cắt đoạn cho gọn gàng hơn. Những từ ngữ không có trong văn bản Do Thái, Aram và Hy Lạp đã được đổi thành chữ nghiêng. Các nhà biên soạn đã dựa phần Tân Ước vào văn bản Hy Lạp thế kỷ XVI thay vì những văn bản Hy Lạp cổ xưa mới tìm thấy. Không có ấn bản Công Giáo.
NHỮNG BỘ KINH THÁNH VIỆT NGỮ (GIÁO HỘI CÔNG GIÁO)
Tại Việt Nam, cũng có nhiều vị đã dịch Kinh Thánh nhưng đa số dịch từng phần chẳng hạn phần Tân Ước, Phúc Âm Nhất Lãm, Thánh Vịnh…. Những bản dịch trọn bộ chỉ có bốn ấn bản sau đây:
Cha Ð. M. Trần Ðức Huân: là người đầu tiên có công dịch trọn bộ Kinh Thánh được Giáo quyền Việt Nam chuẩn ấn. Bộ Kinh Thánh của ngài được coi là bộ Kinh Thánh duy nhất tại Việt Nam được sử dụng cách rộng rãi trong nhiều thập niên. Tuy nhiên vì thiếu sự cập nhật nên một số giáo sư Kinh Thánh cho là nhiều phần thiếu chuẩn xác và nhiều đoạn không rõ nghĩa.
Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn: Bộ Kinh Thánh do Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn chuyển dịch đã sớm được sử dụng nhưng chính thức ra đời khoảng đầu thập niên 80, được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội Công Giáo Miền Bắc. Văn phong bình dân. Ðây là một nỗ lực rất đáng quí trong hoàn cảnh nhưng lại không có giá trị chuyên môn và thiếu chuẩn xác. Sau biến cố 1975, bộ Kinh Thánh này dường như không còn ai sử dụng nữa.
Cha Nguyễn Thế Thuấn: Năm 1975, bản dịch trọn bộ của Cha Nguyễn Thế Thuấn ra đời. Pho Kinh Thánh này đã được Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chuẩn ấn tháng 11 năm 1975. Ðây là công trình biên soạn được đánh giá rất cao, tiện lợi cho việc tham khảo và nghiên cứu. Lối dịch rất chuẩn xác nhưng không đánh mất vẻ mạch lạc và trong sáng trong văn bản. Tuy nhiên theo một số giáo sư Kinh Thánh, Cha Thuấn đã sử dụng một số ngôn từ địa phương của Ngài nên đôi khi gây khó hiểu cho người đọc.
Nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh: Năm 1998, xuất hiện bản dịch của nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh do Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chuẩn ấn phần Tân Ước và Ðức Tổng Giám Mục J.B Phạm Minh Mẫn chuẩn ấn phần Cựu Ước. Bản dịch này được quảng bá rộng rãi và được nồng nhiệt đón nhận. Bộ Kinh Thánh này được dịch theo thể văn hiện đại. Văn phong nhẹ nhàng, dễ đọc và dễ nghe. Tiện ích cho việc sử dụng trong quần chúng, nhưng không tiện cho việc nghiên cứu và tham khảo như bản dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn. Cũng có nhiều người chê trách việc phiên âm các tên riêng theo kiểu phát âm tiếng Việt làm việc hình dung nhân vật quen tên thêm khó khăn và khó đọc.
CHỌN LỰA MỘT BỘ KINH THÁNH THÍCH HỢP
Giữa một rừng bản dịch như thế chúng ta liệu sẽ chọn cho mình bộ Kinh Thánh nào bây giờ? Ðể đơn giản hóa câu trả lời trước hết chúng ta phải xác định rõ ràng mình là người Công Giáo, chúng ta chỉ chọn những sách có sự bảo đảm của Giáo quyền về văn bản của bộ sách (imprimatur) và những sách có bao gồm bảy cuốn Thứ Luật. Thứ đến chúng ta muốn chọn cho mình một bản dịch thế nào? Bộ Kinh Thánh để đọc hay bộ Kinh Thánh để tham khảo? Một bộ Kinh Thánh dùng để đọc thường không có những phần tham chiếu bên lề hoặc bên dưới trang sách. Nên đọc thử vài phần trong nhiều bộ Kinh Thánh khác nhau để so sánh xem bộ nào mình thấy thoải mái và dễ dàng khi đọc.
Ðiều quan trọng nhất không phải là hay hoặc dở nhưng là chúng ta cảm nhận được gì qua trang sách chúng ta đọc. Nói cách khác, chúng ta nhận ra tiếng Chúa thế nào qua trang Kinh Thánh chúng ta vừa đọc.
____________________
Sách tham khảo: Catholic Digest, Summer 2000
(Ðào Ngọc Ðiệp, Catholic Update, April 1999)
2021
Tại sao Đức Mẹ Guadalupe là bổn mạng của những em bé chưa được sinh ra?
Tại sao Đức Mẹ Guadalupe là bổn mạng của những em bé chưa được sinh ra?
Khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh Juan Diego cách đây gần 500 năm, trước hết, Mẹ đã đến với tư cách là một người mẹ – mẹ của Thiên Chúa, và là mẹ của chúng ta.
Mẹ nói cùng thánh Juan: “Hỡi con yêu dấu của Mẹ, hãy lắng nghe và ghi khắc trong lòng con; đừng để lo lắng hoặc đau buồn chi phối con. Đừng sợ bất kỳ bệnh tật hay điều gì phật ý, lo lắng hoặc đau đớn. Mẹ ở đây như là Mẹ của con! Con không núp dưới bóng Mẹ và sự bảo vệ của Mẹ sao? Mẹ không phải là nguồn sống của con sao? Con không núp trong bóng dưới áo choàng của Mẹ sao? Trong vòng tay của Mẹ, con còn điều gì cần không?”
Mẹ nói với tư cách là mẹ của thánh nhân và như mẹ của những em bé chưa được sinh ra chào đời, khi Mẹ xuất hiện trên Đồi Tepeyac ở Thành phố Mexico, vào năm 1531. Hình ảnh kỳ diệu của Mẹ, được in trên chiếc áo choàng của vị thánh, cho thấy Mẹ đeo một chiếc khăn quàng cổ màu đen, dấu hiệu một người nữ đang mang thai trong văn hóa bản địa.
Đức Mẹ Guadalupe không chỉ trông giống như một phụ nữ bản địa, mà còn nói cùng một ngôn ngữ bản địa. Mẹ đến vào thời điểm xung đột giữa người Tây Ban Nha và các dân tộc bản địa để yêu cầu Thánh Juan Diego thuyết phục Đức Giám Mục xây dựng một nhà thờ. Dấu hiệu cho giám mục tin là Mẹ đã hướng dẫn vị thánh hái hoa hồng Castilian nở rộ ngay giữa mùa đông. Khi thánh Juan tặng hoa cho Đức Giám Mục, thánh nhân phát hiện ra hình ảnh của Mẹ được in trên chiếc áo choàng của thánh nhân.
Ngày nay, Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe ở Thành phố Mexico lưu giữ hình ảnh đó, nơi được hàng triệu người hành hương kính viếng hàng năm. Mẹ không chỉ được coi là đấng bảo hộ của châu Mỹ, mà còn là Mẹ của các thai nhi. Đây là lý do tại sao vào năm 1999, Thánh Giáo hoàng John Paul II đã thiết lập ngày 12 tháng 12 là ngày lễ kính Đức Mẹ Guadalupe.
Thánh Giáo hoàng đã tuyên bố tại vương cung thánh đường: “Đây là tiếng kêu xin của chúng ta cho cuộc sống xứng với phẩm giá cho tất cả mọi người! Cho tất cả những ai đã được thụ thai trong lòng mẹ, cho những đứa trẻ đường phố, cho Guadalupe!”
Gần 20 năm sau, vào năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ủy thác cho Mẹ Guadalupe “những em bé đang chờ đợi được chào đời…”
Thanh Quảng sdb
2021
Tại sao Công đồng Vatican II thấy cần phải cải cách phụng vụ?
Tại sao Công đồng Vatican II thấy cần phải cải cách phụng vụ?
Đây là bài đầu tiên trong loạt bài về việc cải cách phụng vụ Giáo hội.
Ngày 16/7/2021, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành một Tông thư [dưới dạng Tự sắc có tựa đề Traditionis Custodes (Những người gìn giữ truyền thống)] hạn chế việc cử hành thường gọi là Thánh lễ Latinh (Latin Mass) hay hình thức ngoại thường (extraordinary form)*. Hình thức ngoại thường là cử hành những nghi thức của Giáo hội theo các sách phụng vụ trước Công đồng Vatican II bao gồm Sách lễ năm 1962 của Đức Gioan XXIII.
* Sau cuộc cải cách Phụng vụ năm 1970 của thánh Giáo hoàng Phaolô VI, các linh mục vẫn có thể cử hành thánh lễ như hiện nay bằng tiếng Latinh, được gọi là “Thánh lễ bằng tiếng Latinh” (Mass in latin). Trong khi đó, “Thánh lễ Latinh” (Latin Mass), “Thánh lễ Triđentinô” hay “Thánh lễ hình thức ngoại thường” có nguồn gốc từ Sách lễ được Đức Giáo hoàng Piô V phê chuẩn năm 1570 sau Công đồng Triđentinô, và sau này được Đức Gioan XXIII tái công bố năm 1962. Thánh lễ hiện nay theo Sách lễ Rôma 1970 được gọi là “hình thức thông thường”.
Đối với nhiều người Công giáo, điều này nêu lên một vấn đề then chốt. Tại sao phải cải cách phụng vụ như thế? Việc cải cách đã diễn ra thế nào?
Việc canh tân Phụng vụ đã bắt đầu sôi nổi trước Công đồng Vatican II. Nó vừa có chiều kích học thuật vừa mang tính mục vụ.
Bối cảnh
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu XX, thần học bắt đầu trở lại xem xét các nguồn thần học. Chủng sinh và sinh viên thần học bắt đầu đọc không chỉ các sách giáo khoa nêu bật tư tưởng của thánh Augustinô và thánh Tôma Aquinô, mà còn bắt đầu đọc chính [tác phẩm của] các tác giả này.
Việc “trở về nguồn” thần học như vậy bao gồm việc nghiên cứu phụng vụ thánh. Các nhà sử học công nhận rằng những lời nguyện trong phụng vụ không phải từ trời rơi xuống. Các bản văn lời nguyện này đã phát triển dần dần theo thời gian.
Hơn nữa, những thực hành như rước lễ dưới hai hình bánh rượu đã là quy tắc trong Giáo hội sơ khai. Tuy nhiên, không người Công giáo đã rửa tội nào rước Máu thánh nơi nhà thờ giáo xứ của mình. Tác phẩm Mass of the Roman Rite (Thánh lễ Nghi thức Rôma – 1948) của nhà phụng vụ-tu sĩ dòng Tên người Áo – Josef Jungmann, đã có đôi chỗ sai sót, nhưng không bao giờ thiếu những trình thuật xuất sắc về sự phát triển của phụng vụ Thánh Thể Rôma.
Việc trở về nguồn này không chỉ nối kết với lịch sử phụng vụ, đúng hơn nó cũng liên kết với thần học. Trong tác phẩm Catholicism: Christ and the Common Destiny of Man – 1938 (Giáo hội Công giáo: Đức Kitô và vận mạng chung của con người), nhà thần học Dòng Tên là Henri de Lubac lập luận rằng Giáo hội không chỉ là một tổ chức gồm có giáo hoàng, giám mục, linh mục và giáo dân. Đúng hơn, Giáo hội là sự hiệp thông phụng vụ hay Thánh Thể. Qua việc cử hành phụng vụ, Giáo hội xuất hiện như một cộng đoàn của những người được tạo dựng để chúc tụng và tôn thờ Thiên Chúa hằng sống. Cộng đoàn chúc tụng Thiên Chúa này phải hoạt động như là men giữa lòng xã hội, dẫn đưa mọi người trở nên điều mà các tín hữu lãnh nhận trong Bí tích Thánh Thể cực thánh. Mình và Máu Đức Kitô đã đổ ra để thế gian được sống.
Việc trở về nguồn thần học được liên kết chặt chẽ với một cuộc canh tân mục vụ. Kể từ thời Cải cách, Giáo hội Công giáo Rôma nhận thức được tầm quan trọng của các nghi thức phụng vụ để canh tân Giáo hội. Nhiều nghi thức – chẳng hạn như rửa tội cho trẻ sơ sinh hoặc hôn phối – được cử hành một phần bằng tiếng địa phương. Điều này giả định rằng mọi người nên hiểu những gì diễn ra nơi những nghi thức này.
Nhưng vào cuối thế kỷ XIX, rõ ràng là nền văn hóa Kitô giáo vững mạnh từng tồn tại ở châu Âu đang dần phai nhạt. Các nghi lễ diễn ra trong bối cảnh lòng đạo đức bình dân đang nở rộ lại trở nên buồn tẻ khi người ta đổ xô đến các thành phố nơi việc công nghiệp hóa và phát triển kinh tế đã thành tôn giáo mới. Ngoài ra, một cung cách cử hành Lễ đọc (Low Mass)** đã có trong Giáo hội Công giáo Rôma vào đầu thế kỷ XX. Thay vì hát, trong thánh lễ [Lễ đọc] chủ tế đọc thầm (sotte voce) những phần riêng (như kinh Vinh danh hoặc kinh Thánh, Thánh, Thánh…). Từ đó đã phát xuất mong muốn tham dự Thánh lễ với sách lễ bản ngữ. Nhưng ngoại trừ lúc truyền phép và thỉnh thoảng lúc rước Mình Thánh Chúa [phải đọc bằng tiếng Latinh], ít người hiểu chính xác tại sao người Công giáo lại chú trọng đến phụng vụ thánh như vậy.
** Lễ đọc: Low Mass hay Read Mass, một trong hai hình thức chính của Thánh lễ bằng tiếng Latinh trước Công đồng Vatican II, hình thức còn lại là Lễ hát (High Mass hay Sung Mass).
Canh tân mục vụ
Việc canh tân mục vụ đối với phụng vụ thánh được thực hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau. Tại Đức, đã bắt đầu thử nghiệm hát các thánh thi (hymn) trong Thánh lễ. Dom Prosper Guéranger, tu viện trưởng Solemnes ở Pháp từ năm 1837–75, đã xuất bản một loạt sách có tựa đề Năm Phụng vụ (The Liturgical year). Bản văn mục vụ của loạt tài liệu này nhằm mời gọi giáo dân nhận thức sâu sắc hơn các nghi thức của Giáo hội.
Trên khắp Âu châu, những nhân vật của thế kỷ XX như tu sĩ Dòng Biển Đức người Bỉ Lambert Beauduin và triết gia-thần học gia người Đức gốc Ý là Romano Guardini đã tìm cách phản ứng với chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa dân tộc thông qua sự đổi mới chú ý đến thần học và cử hành phụng vụ. Nếu mọi người đều hiểu được những diễn tiến trong phụng vụ, tham gia đầy đủ vào hành vi cầu nguyện, thì Giáo hội Công giáo có thể tạo ra một nền văn hóa mới, có khả năng ứng phó với những thách đố thời hiện đại.
Việc canh tân mục vụ và học thuật trong phụng vụ thánh được gọi là phong trào phụng vụ. Phong trào này được du nhập vào Hoa Kỳ bởi tu sĩ Dòng Biển Đức Virgil Michel, người thường xuyên trao đổi với những nhân vật như Dorothy Day, nữ sáng lập phong trào Công nhân Công giáo.
Những nhận định của Đức Giáo hoàng
Tuy nhiên, phong trào phụng vụ đã trở thành một phần trong huấn quyền chính thức của Giáo hội. Việc cải cách và canh tân phụng vụ bắt đầu với thánh Piô X: hạ thấp tuổi rước lễ, khuyến khích tham gia thường xuyên các nghi thức của Giáo hội và canh tân sách kinh Thần vụ vì lợi ích của hàng giáo sĩ. Trong Tông thư về thánh nhạc, Tự sắc Tra Le Sollecitudini – 1903, thánh Piô X là vị giáo hoàng đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tham gia tích cực” trong một văn kiện. Tông thư nhằm thúc đẩy sự đổi mới của thánh nhạc trong phụng vụ và khuyến khích tất cả các tín hữu hát những phần riêng của Thánh lễ.
Đức Giáo hoàng Piô XII thậm chí còn đi xa hơn, khi với Thông điệp Nhiệm Thể Chúa Kitô (Mystici Corporis Christi – 1943), ngài trở lại quan điểm xem Giáo hội như là Thân thể Chúa Kitô trên trần gian, một sự hiện diện thực sự nơi phụng vụ Thánh Thể. Thông điệp Đấng Trung Gian của Thiên Chúa (Mediator Dei – 1947) của ngài bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với phong trào phụng vụ, khuyến khích tham gia bên trong lẫn bên ngoài vào phụng vụ thánh vì lợi ích canh tân đời sống trong Đức Kitô. Huấn thị Thánh nhạc (Musicae Sacrae – 1955) của Đức Piô XII một lần nữa đề cao giá trị của thánh nhạc trong phụng vụ, cũng như cổ võ thánh ca tiếng địa phương bên ngoài các cử hành phụng vụ chính thức của Giáo hội.
Do đó, phong trào phụng vụ đã tìm cách đề cao kinh nguyện phụng vụ nơi tâm điểm của lòng đạo đức Công giáo và của việc đổi mới văn hóa. Tại Công đồng Vatican II, do thánh Giáo hoàng Gioan XXIII triệu tập, tầm nhìn này về kinh nguyện phụng vụ đã được đưa vào Hiến chế Phụng vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium – 1963), là hiến chế đầu tiên được các nghị phụ Công đồng phê chuẩn. Kinh nguyện phụng vụ được trình bày không chỉ như những nghi thức và lễ nghi của Giáo hội. Đúng hơn, phụng vụ là cách diễn tả đầy đủ nhất về Giáo hội với tư cách chiêm niệm và hoạt động, một cộng đoàn thần linh hoạt động như muối men tốt lành trong lịch sử.
Văn kiện này trình bày mong muốn canh tân phụng vụ thánh. Công việc này được thực hiện do một Ủy ban thành lập năm 1964, gồm các thần học gia, các nhà phụng vụ và các giám mục. Hiến chế đã tham khảo kiến thức lịch sử để canh tân kinh nguyện phụng vụ. Những cải cách này diễn ra trên phạm vi rộng. Chẳng hạn, trong phụng vụ Thánh Thể, đã có nhiều lựa chọn hơn về các Kinh Tiền tụng trước Kinh nguyện Thánh Thể. Các Kinh nguyện Thánh Thể bổ sung đã được soạn ra, mô phỏng từ các bản văn kinh nguyện lịch sử trong Giáo hội. Trong thập niên tiếp theo, những nghi thức này đã được phê chuẩn và ban hành.
Cũng ngay sau Công đồng, các giám mục yêu cầu phụng vụ được cử hành bằng tiếng địa phương. Điều này được chấp thuận cho cả thế giới, và một tiến trình dịch thuật được triển khai xoay quanh các nghi thức trong Giáo hội. Ngay cả ngày nay, khi Rôma phát hành một ấn bản nghi thức mới thì ấn bản đó phải được một ủy ban chuyên viên dịch thuật, được các giám mục địa phương, rồi Rôma [tức là Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích] chấp nhận.
Do đó, việc cải cách và canh tân phụng vụ bắt nguồn từ mong muốn là Giáo hội đáp ứng với thời hiện đại qua tầm nhìn mầu nhiệm và bí tích của đời sống Giáo hội. Vấn đề còn tồn tại là liệu cuộc cải cách và canh tân này có lợi ích cho Giáo hội hay không.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Tất cả phải cảm thấy được chào đón”
“Phụng vụ đưa ra giải đáp sâu sắc và hiệu quả nhất cho niềm khát khao gặp gỡ Chúa. Cách đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, nơi đó chúng ta được thông phần với hy tế của Chúa Kitô và được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Người. Tuy nhiên, các mục tử phải đảm bảo rằng lương tâm mình được thấm nhập ý thức mầu nhiệm. . . . Đặc biệt, nhiệm vụ của các chủ chăn là cổ võ những việc cử hành xứng đáng, dành sự quan tâm thích đáng đến các hạng người khác nhau: trẻ em, người trẻ, người lớn, người già và người khuyết tật. Tất cả họ phải cảm thấy được tiếp đón khi qui tụ, để họ có thể hít thở bầu khí của cộng đoàn tín hữu đầu tiên là ‘chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện’ (Cv 2,42)”.
(Số 12 – Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư Spiritus et Sponsa – 2003 đánh dấu kỷ niệm 40 năm Hiến chế về Phụng vụ Thánh của Công đồng Vatican II).
Timothy P. O’Malley
Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ