2022
Ba hình thức rửa tội khác nhau trong Hội thánh Công giáo
Trong Hội thánh Công giáo, có 3 hình thức rửa tội, nó cho chúng ta biết những người chưa được rửa tội có thể đến được cửa thiên đàng như thế nào.
Hội thánh Công giáo dạy : “Chính Chúa Giêsu khẳng định Bí tích Rửa tội là cần thiết để được cứu độ” (GLCG 1257). Khi nghe những chỉ bảo đó, hầu hết mọi người lập tức nghĩ đến tất cả những người chưa được rửa tội trên thế giới.
Có vẻ Thiên Chúa bất công và hà khắc, buộc nhiều người chưa đến được với Bí tích Rửa tội xuống địa ngục. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, Hội thánh đã dạy rằng rửa tội có ba “hình thức” khác nhau.
- RỬA TỘI BẰNG NƯỚC
Rửa tội bằng nước là hình thức “thông thường” quen thuộc nhất mà chúng ta thấy.
“Tiếp đến là nghi thức chính yếu của bí tích : nghi thức dìm xuống nước biểu thị và thực hiện việc người dự tòng chết đối với tội lỗi và bước vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, nhờ nên giống Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua. Nghi thức Thánh Tẩy được thực hiện một cách có ý nghĩa trước nhất, qua ba lần dìm người dự tòng trong nước rửa tội. Nhưng từ xa xưa, bí tích có thể được trao ban bằng cách đổ nước ba lần trên đầu của người dự tòng” (GLCG 1239).
Cách rửa tội này bắt chước Chúa Giêsu trong Tin Mừng và là biểu thị cho việc được đắm mình trong đời sống ân sủng.
Phép rửa bằng nước không bảo đảm cho chúng ta một vé vào thiên đàng, nhưng nó đặt nền tảng cho ân sủng mà tất cả các kitô hữu có thể đón nhận hay từ chối. Nếu chúng ta chấp nhận thì Thiên Chúa sẽ hướng dẫn chúng ta đi trên chính lộ, trong vòng tay yêu thương của Chúa.
- RỬA TỘI DO LÒNG MUỐN
Hình thức rửa tội thứ hai này khó hiểu nhất và cũng là một trong những hình thức giải thích cởi mở nhất.
Ví dụ rõ ràng nhất về hình thức rửa tội do lòng muốn, tức là khi một người đang trên tiến trình nhận phép rửa nhưng không thể hoàn thành nó.
“Đối với những người dự tòng chết trước khi được rửa tội, nếu họ minh nhiên ước muốn được rửa tội, đồng thời sám hối tội lỗi và sống đức mến, thì họ được bảo đảm ơn cứu độ, dù chưa thể lãnh nhận bí tích” (GLCG 1259)
Tuy nhiên, điều này cũng bao gồm bất cứ ai có thể đã “khao khát” được rửa tội, ngay cả khi họ chưa hề biết gì về bí tích.
“Vì Chúa Kitô đã chết cho tất cả và vì mọi người chỉ có một ơn gọi cuối cùng là kết hợp với Thiên Chúa, nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh, cách nào đó chỉ có Chúa biết”. Bất kỳ ai, dù không nhận biết Tin Mừng và Hội Thánh của Chúa Kitô, nhưng tìm kiếm và thực thi ý muốn của Thiên Chúa theo sự hướng dẫn của lương tâm, có thể được cứu độ. Chúng ta có thể giả thiết họ sẽ khao khát lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, nếu họ biết đến sự cần thiết của bí tích này” (GLCG 1260).
Đây là hình thức rửa tội bao quát nhất, vì nó bao gồm bất kỳ ai khao khát được rửa tội “nếu họ biết đến sự cần thiết của bí tích này”. Cuối cùng điều đó phụ thuộc vào lòng thương xót của Thiên Chúa và quyết định của Ngài về việc người đó đã đi theo con đường đã vạch ra cho mình như thế nào.
Mấu chốt ở đây chính là người đó không biết được tầm quan trọng của phép rửa.
- RỬA TỘI BẰNG MÁU
Sau rửa tội bằng nước, hình thức rửa tội này là rõ ràng nhất. Về cơ bản đó là khi một người chưa được rửa tội nhưng chết vì đức tin Kitô giáo.
“Hội Thánh luôn xác tín rằng những người chịu chết vì đức tin mà trước đó chưa được rửa tội, thì coi như đã được thanh tẩy, vì đã chết cho Đức Kitô và với Đức Kitô” (GLCG 1258).
Dù không phải là một tín hữu, nhưng nếu bạn chết vì Chúa Kitô, thì điều chắc chắn đó là bạn đã “được rửa tội”.
- Võ Tá Hoàng chuyển ngữ từaleteia.org (08.01.2022)
2022
Tại sao nhiều giếng rửa tội lại có hình bát giác?
Tại sao nhiều giếng rửa tội lại có hình bát giác?
Giếng rửa tội theo truyền thống được làm theo hình bát giác để tượng trưng cho các chân lý trong Kinh Thánh liên quan đến ơn cứu độ.
Thực tế cho thấy rằng nhiều giếng rửa tội đã được dựng nên với tám cạnh. Đây có vẻ là một điều bình thường, nhưng đó lại là một con số mang nhiều tính biểu tượng.
Trước hết, số tám có sự liên kết mật thiết nhất với sự Phục sinh và cuộc sáng tạo mới. Chúa Giêsu đã sống lại vào ngày thứ tám, một ngày sau ngày sa-bát của người Do Thái.
Thứ hai, các bé trai Do Thái chịu phép cắt bì vào ngày thứ tám và Thánh Phaolô đã giải thích cho các cộng đoàn của ngài rằng “Phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, nơi thân xác. Nhưng người Do Thái chính hiệu là người Do Thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn”(Rm 2,28-29). Giếng rửa tội thường được thiết kế theo hình bát giác để đại diện cho sự sống mới và “phép cắt bì trong tâm hồn” này.
Thứ ba, con số tám gợi lại hình ảnh con tàu của ông Noê và cách mà tám người đã được cứu thoát nhờ nước.
Trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nôê đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu thoát nhờ nước. (1 Pr 3,20)
Lần tới khi bạn nhìn thấy một cái giếng rửa tội, hãy đếm các cạnh của nó và xem nó có phải là con số tám hay không. Nếu đúng như vậy, thì bạn cũng hãy nhận biết ý nghĩa biểu tượng phong phú đằng sau con số đó.
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2022
14 Câu Kinh Thánh chứng tỏ chúng ta được cứu độ nhờ Bí tích Rửa Tội
14 Câu Kinh Thánh chứng tỏ chúng ta được cứu độ nhờ Bí tích Rửa Tội
“Bí tích Rửa Tội là việc sinh ra trong đời sống mới trong Đức Kitô. Theo ý muốn của Chúa, bí tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu độ cũng như chính Hội Thánh mà bí tích Rửa Tội tháp nhập vào.” (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1277)
Kinh Thánh liên kết trực tiếp Bí tích Rửa Tội với ơn cứu độ:
Mc 16,16: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.”
Ga 3,5: “Đức Giêsu đáp: ‘Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.’”(x. Ga 3,3: “nếu không được sinh ra một lần nữa…”)
Cv 2,38-41: “Ông Phêrô đáp: ‘Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.’ Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói: ‘Hãy tự cứu mình khỏi thế hệ gian tà này.’ Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.” (x. Cv 9,17-18; 1Cr 12,13: cả hai đều liên kết Chúa Thánh Thần với Bí tích Rửa Tội)
Cv 22,16: “Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa? Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người.” (x. Cv 9,17-18)
Rm 6,3-4: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta mới có thể sống một đời sống mới.”
1Cr 6,11: “Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!”
Tt 3,5: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu độ chúng ta nhờ phép rửa tái sinh và đổi mới trong Chúa Thánh Thần…”
1Pr 3,21: “…phép rửa nay cứu thoát anh em.”
Chỉ trong Cv 2,38-41, chúng ta mới biết rằng Bí tích Rửa Tội mang lại: (1) “ơn tha tội;” (2) sự ngự trị của Chúa Thánh Thần, điều mà chỉ có những ai đã được tái sinh mới có được; (3) ơn cứu độ (“hãy tự cứu mình”); và (4) được xếp vào hàng ngũ những “linh hồn” đã được cứu độ (x. Gl 3:27).
Rm 6,3-4 kết hợp máu và cái chết cứu chuộc của Chúa Giêsu vào Bí tích Rửa Tội bằng cách đề cập đến “cái chết” của Người. Điều tương tự cũng đã được đề cập đến trong một đoạn dài hơn ở 1Pr 3,14-22;4,1.
Thánh Phêrô khẳng định rằng “phép rửa…cứu thoát” chúng ta (1Pr 3,21). Nếu có một cuộc tranh luận nảy sinh về việc liệu “phép rửa có cứu được” chúng ta hay không, thì một đoạn Kinh Thánh được linh hứng chỉ ra rằng “phép rửa sẽ cứu được”, và Mc 16,16 cũng khẳng định rằng: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ.” – tất cả chẳng phải là những câu trả lời cho chính vấn đề đang được đặt ra hay sao? Làm thế nào để có thể tìm được thêm những câu trả lời nào khác rõ ràng và hiển nhiên hơn chính những câu trả lời này được?
Đoạn văn dài hơn trong 1Pr 3 rất có tính soi dẫn. Kinh Thánh thường sử dụng những điều tự nhiên làm biểu tượng cho những điều siêu nhiên – ví dụ, ngôn sứ Giôna ở trong bụng cá voi ba ngày và sau đó thoát ra mà vẫn còn sống là một biểu tượng của việc Chúa Giêsu chịu chết trong ba ngày và sau đó sống lại; nhiều dụ ngôn cũng sử dụng lối diễn tả song song như vậy.
“Được cứu” khi tham chiếu về Con tàu của Nôê có nghĩa là “sự cứu thoát” cách thể lý và hoàn toàn tự nhiên khỏi việc chết đuối. Nhưng sau đó Thánh Phêrô sử dụng từ này như một hình ảnh minh họa cho Bí tích Rửa Tội siêu nhiên, bí tích này “tương ứng” với Con tàu của Nôê như một phép loại suy (Con tàu là nguyên mẫu tự nhiên của một điều siêu nhiên).
Thánh Phêrô không nói rằng việc Bí tích Rửa Tội này “cứu thoát” chúng ta cũng chỉ đơn thuần là mang tính biểu tượng. Thánh Phêrô không hề nói như vậy! Ngài nhấn mạnh rằng Bí tích Rửa Tội này không chỉ đơn thuần là “tẩy sạch bụi bẩn khỏi cơ thể” (không chỉ đơn thuần là một điều tự nhiên, thuộc thể lý), mà còn liên quan đến việc chịu đau khổ (3,14.16-17;4,1) và được phục sinh cùng với Đức Kitô (3:21), giống như những lời Thánh Phaolô đã dạy (thậm chí còn rõ ràng hơn) trong Rm 6,3-4.
Trong khắp Tân Ước, Bí tích Rửa Tội được xem là lệnh truyền và là phương tiện mà để qua đó Giáo Hội sơ khai có thể nhận biết một người nào đó có người thuộc về đoàn chiên của mình hay không. Điều này cũng đúng với Thánh Phaolô (Cv 22,16; x. 9,17-18). Ngay sau khi được “thuyết phục” theo Kitô giáo, việc đầu tiên Thánh Phaolô làm là chịu phép rửa để tẩy sạch tội lỗi củamình.
Cv 8,12-13: “Nhưng khi họ tin lời ông Philipphê loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và về danh Đức Giêsu Kitô, thì họ đã chịu phép rửa, có cả đàn ông lẫn đàn bà. Cả ông Simôn nữa cũng đã tin theo, và sau khi chịu phép rửa, ông cứ theo sát ông Philipphê,…”
Cv 8,34-38: “Viên thái giám ngỏ lời với ông Philipphê: ‘Xin ông cho biết: vị ngôn sứ nói thế về ai? Về chính mình hay về một ai khác?’ Ông Philípphê lên tiếng, và khởi từ đoạn Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giêsu cho ông.Dọc đường, các ông tới một chỗ có nước, viên thái giám mới nói: ‘Sẵn nước đây, có gì ngăn trở tôi chịu phép rửa không?’ Ông Philipphê đáp: ‘Nếu ngài tin hết lòng, thì được.’ Viên thái giám thưa: ‘Tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.’ Ông truyền dừng xe lại. Ông Philipphê và viên thái giám, cả hai cùng xuống chỗ có nước, và ông Philipphê làm phép rửa cho ông quan.”
Bí tích Rửa Tội dành cho toàn bộ “người trong gia đình” cũng ngụ ý mạnh mẽ đến Bí tích Rửa Tội của trẻ sơ sinh:
Cv 16,14-15: “Có một bà tên là Lyđia, quê ở Thyatira, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói. Sau khi bà và cả nhà đã chịu phép rửa,…”
Cv 16,32-33: “Hai ông liền giảng lời Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy. Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức ông ấy được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà.”
Cv 18,8: “Ông Cơrítpô, trưởng hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Côrintô đã nghe ông Phaolô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa.”
1Cr 1,16: “Tôi còn làm phép rửa cho gia đình Têphana nữa…”
(Bản dịch Kinh Thánh có tham khảo của nhóm Phiên dịch các Giờ kinh Phụng vụ)
Tác giả: Dave Armstrong
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
Mẹ Maria và Thánh Gioan Tẩy Giả: Hai cách trở thành Kitô hữu
Mẹ Maria và Thánh Gioan Tẩy Giả: Hai cách trở thành Kitô hữu
Có hai cách cơ bản để gặp được Lời Chúa.
Cách đầu tiên là tiếp nhận Lời Chúa. Cách thứ hai là chia sẻ Lời Chúa. Mẹ Maria là gương mẫu cho cách đầu tiên; Thánh Gioan Tẩy giả là gương mẫu cho cách thứ hai. Giáo Hội đặt hai nhân vật này trước mặt chúng ta như những tâm điểm của việc chiêm ngắm.
Chúng ta đến được với đức tin vào Chúa Kitô nhờ việc lắng nghe lời Ngài, như Thánh Phaolô nói trong Rôma 10:17: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô.” Theo nghĩa này, Đức Maria là Kitô hữu nguyên mẫu: đức tin của Mẹ có được nhờ việc lắng nghe lời Chúa, như được sứ thần Gabriel truyền tin: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà…Nghe lời ấy, bà rất bối rối…Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa…Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”…Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Luca 1: 28,30, 35,38).
Thời điểm quyết định của Mẹ không phải trong khi Mẹ đọc Kinh thánh, khi Mẹ lãnh nhận một bí tích, hoặc khi Mẹ gặp gỡ một Kitô hữu khác. Mẹ chỉ có lời của Thiên Chúa.
Thoạt tiên, Mẹ Maria “bối rối”, thậm chí có thể sợ hãi trước lời chào của sứ thần. Khi chúng ta đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta muốn tập trung chú ý đến phần này. Chúng ta muốn bỏ qua phần Mẹ Maria đáp lại lời mời gọi thánh thiêng này với lời xin vâng hết lòng! Nhưng phản ứng ban đầu của Mẹ là điều kiện tiên quyết cho những gì tiếp sau. Mẹ Maria phản ứng như bất kỳ con người nào trước những lời như vậy – như tác giả này lưu ý. Chính con người đích thực của Mẹ đã làm cho sự đồng ý của Mẹ trở nên đáng giá như vậy.
Điều quan trọng là Mẹ Maria vẫn mở lòng đón nhận lời Chúa. Mẹ không quay vào trong bản thân mình. Mẹ không khép kín tâm trí hoặc con tim của mình khi nghe thấy thông điệp của sứ thần. Sau đó khi Mẹ cất tiếng nói, Mẹ đã sẵn sàng chấp nhận lời Chúa rằng Mẹ sẽ sinh một người con. Mẹ chỉ đặt câu hỏi “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào”, vì Mẹ là một trinh nữ “không biết đến việc vợ chồng!” (Luca 1: 34)
Sự đồng trinh tuyệt đối của Đức Maria hóa ra là một điều kiện thiết yếu cho vai trò của Mẹ trong công cuộc Nhập thể. Rốt cuộc đó là dấu hiệu cho thấy sự đón nhận trinh trong của Mẹ đối với Thiên Chúa. Như Đức Hồng Y Ratzinger lúc bấy giờ đã từng nhận xét, việc Mẹ đón nhận cưu mang Thiên Chúa Nhập Thể bắt nguồn từ sự cởi mở của Mẹ với lời Chúa. “Mẹ Maria đón Chúa Thánh Thần vào trong chính mình. Sau khi trở thành người lắng nghe thuần khiết, Mẹ hoàn toàn tiếp nhận Lời Chúa đến nỗi Lời đó trở nên xác thịt trong Mẹ” (Joseph Cardinal Ratzinger & Hans Urs von Balthasar, Mary: The Church at the Source – Maria: Hội Thánh Nơi Nguồn Cội, Dịch giả sang tiếng Anh: Adrian Walker, Nhà xuất bản: Ignatius Press, 2005, trang 190 và tiếp theo).
Là “người chỉ lắng nghe”, Mẹ Maria là một hình mẫu về ý nghĩa của việc trở thành Kitô hữu. Chúng ta cũng phải đón nhận Lời Thiên Chúa một cách trọn vẹn để lời Chúa “thấm nhậpvào máu thịt” của chúng ta.
Nhưng có một cách thứ hai. Sau khi đón nhận Lời của Thiên Chúa, Tin Mừng, chúng ta phải công bố Lời đó. Điều này được thể hiện qua hình ảnh của Gioan Tẩy giả. Giống như Mẹ Maria là “người chỉ lắng nghe”, Gioan Tẩy giả trở thành “chỉ là tiếng nói.” Chúng ta hãy lắng nghe Ông tự nhận mình như thế nào khi bị các thầy tư tế và Lêvi chất vấn:
“Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông? ” Ông nói: Tôi là tiếng hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Thiên Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói.” ( Gioan 1: 22-23).
Câu trả lời của Gioan quá quen thuộc với chúng ta đến nỗi chúng ta thường không nhận ra nó kỳ quặc đến mức nào. Hãy nghe lại những gì ông nói: Tôi là tiếng hô trong hoang địa. Để ý những gì ông không nói. Ông không tự nhận mình là “một người đang hô trong sa mạc.” Một lần nữa, ông không phải là “một người trong sa mạc cất lên tiếng hô.” Không phải thế, ông chỉ là tiếng hô.
Giống như Mẹ Maria “chỉ là người lắng nghe”, Gioan Tẩy giả “chỉ là tiếng nói.” Đối với Mẹ Maria, sự đón nhận Thiên Chúa cách triệt để đã khẳng định con người của Mẹ sâu xa đến mức Thiên Chúa “đã mặc lấy xác thịt” trong Mẹ. Tương tự đối với Gioan Tẩy giả cũng như vậy, việc công bố Lời Chúa đã làm tiêu hao toàn bộ con người của ông, thế chỗ cho sự hiện hữu của cá nhân ông: “Tôi là tiếng nói của một người đang hô to.” Tiếng nói của ông, công bố lời tiên báo của Thiên Chúa, mới là điều quan trọng. Còn cá nhân ông – “một người hô to” – chỉ là thứ yếu.
Như chính Gioan đã nói, “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Gioan 3:30). Đối với Gioan, ông đã làm hết sức mình tất cả những việc đó. Mẹ Maria cũng khẳng định cùng một thực tại: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” — chứ không phải, Chúa đã ngợi khen tôi (Luca 1:46).
Điều này đã trở thành khuôn mẫu cho tất cả các Kitô hữu sau này. Hãy lắng nghe những gì Phaolô nói trong Galát 2:20, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” Và, giống như Gioan Tẩy giả, Phaolô là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất. Ngay cả Mẹ Maria cũng là một nhà thuyết giáo tầm cỡ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Luca 1:49).
Chúng ta cần có cả hai cách thức để đáp lại sứ điệp Tin Mừng: tiếp nhận và công bố. Giống như Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi trở nên “chỉ là người lắng nghe” thế thôi, và giống như Gioan Tẩy giả, chúng ta trở thành “chỉ là tiếng nói” cất lên trong sa mạc vì Chúa Kitô.
Stephen Beale
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ,
từ catholicexchange.com.