2022
Các bí tích trong sách giáo lý của Giáo hội Công giáo
Các bí tích trong sách giáo lý của Giáo hội Công giáo
Một vài ý kiến đề nghị cho đợt tái bản sắp tới
Tháng 9, 1992, cuốn Giáo lý của Giáo hội Công giáo đã ra mắt công chúng trong nguyên bản tiếng Pháp, và ngay sau đó, đã được phổ biến hết sức nhanh chóng rộng rãi. Tiếp liền sau đợt phát hành đó, các bản dịch Cuốn Giáo lý mới (CGLM) đã được xuất bản trong nhiều thứ tiếng khác; nhưng vì gặp phải nhiều khó khăn kỹ thuật, nên bản dịch tiếng Anh phải chờ cho đến mùa thu năm 1994 mới chào đời được, tại một nhà xuất bản ở bên Dublin (Ailen). Tháng 6, 1993, Vaticanô đã thành lập một Ủy ban đặc trách công tác biên soạn một văn bản Latinh cho CGLM mới, làm văn liệu chuẩn đích chính thức, cho dù trong thực tế bản viết bằng tiếng Pháp mới chính là nguyên bản. Công tác dịch thuật ra tiếng Latinh là một việc làm khó khăn, đòi nhiều công sức, và theo dự trù thì khó mà hoàn thành sớm hơn được trước cuối năm 1995.
Rồi chi cũng còn có chuyện nới thêm công trình biên soạn rộng ra nhiều hơn, và nếu thế, thì kỳ hạn xuất bản cũng phải dời lui chậm muộn hơn nữa. Quả thế, tạp chí Ý Trenta giorni (Ba mươi ngày), thuộc giới thân cận đức hồng y Ratzinger, trong số báo tháng giêng 1996, đã tiết lộ cho biết là việc biên soạn văn bản Latinh sẽ thực hiện một số điểm sửa đổi hoặc chỉnh lý nhằm bổ túc cho nguyên bản. Dựa vào những nhận xét của các giám mục và các thần học gia, các thành viên trong Ủy ban đặc trách công tác biên soạn, cùng với một số nhân viên của giáo triều Rôma, sẽ đề xuất một văn bản “đã được xem lại và sửa chữa” của cuốn CGLM ra mắt hồi cuối năm 1992. Căn cứ theo nguồn tin được coi là rất chính xác, tác giả bài viết đăng trong tạp chí nói trên, cho biết là “Ủy ban của Vaticanô hiện chưa quyết định để xem sẽ chọn những nhận xét nào trong các ý kiến đã thâu thập được.”
Thế nên, thiết tưởng đây đúng là lúc thích hợp để đưa ra một vài đề nghị theo chiều hướng nói trên. Từ 20 năm nay và cả bây giờ, đã và đang dạy thần học bí tích tại Rôma, rồi suốt trong hai năm qua cũng đã từng đọc đi đọc lại nhiều lần Phần II trong CGLM, bàn về Việc cử hành mầu nhiệm kitô, và đã lấy phần này làm đề tài không những cho giáo trình của khoa mình dạy, mà còn cho nhiều khóa hội thảo dành cho các sinh viên tha thiết đối với chủ đề, tác giả bài viết này cảm thấy là không thể bỏ lỡ cơ hội mà không nói lên suy tư của mình đối với cách thức CGLM trình bày về các bí tích, một lối trình bày vén mở cho thấy nhiều tiềm năng phong phú, nhưng đồng thời cũng để lộ nhiều khiếm khuyết và giới hạn cần xét lại, cũng như không thể bỏ qua mà không đề nghị một số ý kiến tu chính cho đợt tái bản sắp tới đã được dự trù.
- TỪ KẾ HOẠCH BÍ TÍCH CHO TỚI BẢY BÍ TÍCH TRONG GIÁO HỘI
Tiếp theo sau Phần I bàn về Thái độ tuyên xưng đức tin, trong Phần II, CGLM đã dành cả chú tâm để suy tư về Việc cử hành mầu nhiệm kitô. Phần II này dĩ nhiên là được chia thành hai phân đoạn với các đề mục như sau: kế hoạch bí tích, và việc học hỏi về bảy bí tích cũng như về các á bí tích và nghi thức an táng.
- Kế hoạch bí tích
Trước hết, xin lưu ý đến các thuật ngữ được sử dụng trong văn bản CGLM.Thay vì dùng từ ngữ “Các bí tích nói chung” như xưa nay thần học vẫn thường dùng, thì CGLM đã dùng thuật ngữ đến “Kế hoạch bí tích,” theo đường hướng mà từ 15-20 năm nay một dạng thần học chủ trương tìm về với gốc rễ Kinh Thánh, đã đề ra; dùng đến từ “kế hoạch” như thế, tất có ý nêu cho thấy là đời sống bí tích nằm ngay ở giữa lòng “kế hoạch cứu độ.” Cũng như từ đầu đã có một kế hoạch cứu độ, tức là phương án Thiên Chúa đề xuất nhằm cứu độ loài người, thì cũng thế, kể từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, đã có một kế hoạch bí tích có sức năng kéo dài lịch sử cứu độ mà cùng lúc lại hòa nhập vào trong lịch sử ấy. Như thế, tính chất năng động của các bí tích được nêu bật, tức là muốn cho thấy rằng chúng đã được thiết lập nhằm biến đổi con người, hay nói cho đúng hơn, để giải phóng và thần hóa con người.
Ðặt xong tựa đề cho phân đoạn, là CGLM tiến ngay lên đến bình diện suy tư cao thẳm hơn để giới thiệu về phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành các bí tích, coi đó là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi lẽ, để cử hành các bí tích, thì Thiên Chúa Cha, Ðức Kitô và Thánh Linh đều phải ra tay hành động: mọi bí tích, từ phép rửa tội cho đến bí tích xức dầu cho bệnh nhân, đều được thông ban “nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần.” Trước khi hướng nhìn về con người lãnh nhận bí tích, CGLM đã bỡ ngỡ hướng nhìn lên các Vị thông ban các bí tích, những tác nhân chính của các bí tích, là: Thiên Chúa Cha, Ðức Kitô và Thánh Linh.
CGLM đã dành một trong những trang viết đẹp nhất cho Thiên Chúa Cha, là cội nguồn và là cùng đích của mọi thể dạng phụng vụ cũng như của mọi kế hoạch bí tích: một trang viết đầy thần hứng, giới thiệu toàn bộ công trình của Ngôi Cha như là “một phúc lành vô bờ Thiên Chúa ban.”
Sau phần suy tư thực sự mới mẻ này về công trình bí tích hiểu theo nghĩa là một phúc lành, CGLM trở lại với lối diễn đạt cổ điển — ít nhất là thường được dùng kể từ sau công đồng Vaticanô II — để giải thích rằng Ðức Kitô phục sinh chính là Ðấng hiện đang hoạt động ở trong phụng vụ và các bí tích. Chẳng hạn như câu văn sau đây — thật xinh xắn mà cũng thật bí nhiệm — đọc thấy ở trong số 1085: “Mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô… thông phần vào tính chất vĩnh viễn của Thiên Chúa, vượt lên trên mọi thời đại, và được hiện diện hóa ở giữa mọi thời đại.” Vì thế,CGLM nhấn mạnh nói rằng hết thảy các bí tích đều là những bước nối dài của mầu nhiệm vượt qua, và đều là những hành động ứng dụng mầu nhiệm ấy, bởi vì Ðấng họat động trong các bí tích, chính là Ðức Kitô đã chịu chết và đã sống lại, là Ðấng “đang ngồi bên hữu Thiên Chúa Cha” (số 1084), hay “đang ngự bên hữu của Thiên Chúa” (số 1090).
Ngược lại, một lần nữa và quả là chí lý CGLM đã đề xuất thêm một sáng kiến mới qua việc dành đến bốn trang trọn để bàn về tác động của Thánh Thần (và của Giáo hội là thực thể gắn liền với tác động ấy một cách không thể tách rời được) ở trong phụng vụ và các bí tích. Nếu CGLM đã dành bốn trang trọn để bàn về Thánh Thần — trong khi đó, cũng trong chủ đề phụng vụ– bí tích, CGLM chỉ dành có một trang, dù là tuyệt hay, để đề cập đến Thiên Chúa Cha, và hai trang để viết về Ðức Kitô — thì chính là vì Giáo hội tây phương cảm thấy cần phải tranh thủ thời gian để đi cho kịp đà tiến trong lãnh vực này: từ thời Trung cổ trở về sau, Giáo hội làm như mắc phải chứng hay bẵng quên mất Thánh Thần: có nhớ thì hầu như chỉ nhớ đến trong ngày chịu phép Thêm sức, mà không nhớ rằng Ngài đóng giữ vai trò then chốt trong các bí tích. Rất may là CGLM đã bổ khuyết cho điểm thiếu sót to lớn ấy.
Không thể đọc và bình giải hết cả bốn trang đầy thần hứng này ở đây được, nên chỉ xin nêu lên sau đây một vài công thức mới mẻ được CGLM dùng đến, và có sức động viên những ai trong giới thần học gia cũng như tín hữu, biết lưu tâm để ý:
Trong phụng vụ, Thánh Thần là thầy giáo huấn đức tin cho dân Chúa (số 1091).
Thánh Thần là tác giả làm nên những “kiệt tác của Thiên Chúa,” là các bí tích (số 1091).
Ước vọng và công trình của Thánh Thần ở giữa lòng Giáo hội, là làm cho chúng ta sống thực chính sự sống của Ðức Kitô phục sinh (số 1091).
Phụng vụ trong Lễ tạ ơn và các bí tích khác, chính là cuộc tưởng niệm mầu nhiệm cứu độ. Thánh Thần là “ký ức sống động của Giáo hội” — như Ga 14,26 đã nói rõ: “Thánh Thần sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em” (số 1099).
Trong phụng vụ, là Ðấng thức tỉnh ký ức của Giáo hội, Thánh Thần cũng là Ðấng khơi dậy tâm tình tạ ơn và tán tụng (số 1103).
Epiclesis, tức là kinh khẩn cầu Thiên Chúa Cha phái gửi Thần Khí thánh hóa của Ngài đến, luôn có mặt ở giữa lòng của mọi nghi thức cử hành bí tích (số 1106).
Việc khẳng định cương quyết như thế — và nếu có lưu ý về sự kiện đó thì không phải là chuyện thừa — tất sẽ cho phép dự kiến về đường hướng nhận thức đối với một số bí tích: ngay cả sau công đồng Vaticanô II, Sách Nghi thức hôn phối cũng không đề cập gì đến Thánh Thần; phải đợi cho đến lần tái bản bằng tiếng Latinh ấn hành năm 1991, mới đọc thấy được một lời kinh ngăn ngắn khẩn cầu Thánh Linh; Sách Nghi thức hôn phối trong các thứ tiếng khác vẫn còn chưa biết đến lời kinh ngắn này. Trong bí tích cáo giải, việc đặt tay — là hành động đáng lẽ ra phải đi kèm theo với lời kinh giải tội — cũng bị quên lãng, không thấy có. Và sau này, khi bàn về các bí tích, chính CGLM cũng thường lãng quên, không nhắc gì đến những điều đã nói về kinh khẩn cầu Thánh Linh.
Hoa trái của Thánh Thần ban qua phụng vụ và các bí tích, là được thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa và cùng lúc, với cộng đoàn huynh đệ (số 1108).
Vậy, thái độ chú tâm đăm nhìn về Ba Ngôi Thiên Chúa đang hoạt động trong các bí tích, chính là điểm đổi mới đầu tiên và cơ bản mà CGLM đã mang lại. Từ nay, các trẻ em học giáo lý theo CGLM 1992, sẽ thấu biết rằng hết thảy mọi bí tích, ngay cả những bí tích cử hành một cách hoàn toàn thầm kín, thì đều tiến hành qua hoạt động của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và mỗi bí tích một cách, đều làm cho chúng ta tham dự vào sự sống nhiệm mầu cùng vô biên của Ba Ngôi chí thánh.
Ðâm rễ sâu vào trong truyền thống Giáo hội, và phục hồi tốt đẹp được nhiều yếu tố đã từng bị lãng quên, công trình suy tư như thế về kế hoạch bí tích chi rồi cũng sẽ đâm hoa kết trái với những thành quả hết sức tích cực. Và thế là một phương pháp mới mẽ đã được cổ vũ và sắp sẵn cho việc nghiên cứu về các bí tích. Tuy nhiên, còn cần phải xác minh xem những đường hướng đề ra trong phân đoạn một này có được thực sự áp dụng vào trong phân đoạn hai hay không. Có thực sự có một đà liên tục và một mối nhất quán giữa các nguyên tắc tốt đẹp đề ra trên đây, và việc áp dụng chúng vào trong trường hợp của từng bí tích, cũng như vào trong đời sống bí tích của các kitô hữu và của các cộng đoàn kitô hay không?
- Bảy bí tích của Giáo hội
Trước hết, xin nêu lên một vài nhận xét về đề cương và phương pháp dùng đến trong phân đoạn (II) này. Trong khi Hiến chế về Phụng vụ của công đồng Vaticanô II dành một chương riêng cho “mầu nhiệm Thánh Thể” và chương tiếp đó cho “các bí tích khác,” làm như có một siêu bí tích, còn sáu bí tích kia chỉ là nhữnh bí tích thứ yếu; thì CGLM lại liệt kê theo thứ tự thời gian diễn tiến tự nhiên của các bí tích: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể — là ba bí tích khai tâm kitô giáo; trong số đó, Thánh Thể cũng đã được CGLM dành một chỗ đứng đặc biệt nổi bật, và được gọi là “bí tích của các bí tích” (số 1330); — rồi đến các bí tích Cáo giải và Xức dầu — là hai bí tích điều trị — và cuối cùng là các bí tích Chức thánh và Hôn phối — đã được xếp chung dưới cùng một tiêu đề hơi lạ, là “bí tích dịch vụ hiệp thông,” xét ra còn có thể hiểu được đối với trường hợp bí tích Chức thánh, nhưng đối với bí tích Hôn phối, thì cần phải có nhiều thiện chí hay cần phải giải thích cho rõ hơn, may ra mới hiểu nổi.
Tất cả và mỗi bí tích đều được trình bày theo cùng một sơ đồ hay đề cương nhất định, thường gồm sáu câu hỏi như sau:
- Bí tích này được gọi bằng tên gì? Phần trả lời cho biết về các danh xưng khác nhau, được dùng ở bên Ðông phương hay bên Tây phương, để đặt tên cho bí tích ấy: các danh xưng khác nhau như thế làm cho nổi bật những khía cạnh khác nhau của bí tích.
- Chỗ đứng của bí tích này ở trong kế hoạch cứu độ. Phần trả lời nêu cho thấy những hình ảnh trong Cựu Ước chỉ về bí tích ấy, mối quan hệ nó có đối với cuộc sống và hoạt động của Ðức Giêsu, cũng như chỗ đứng của các bí tích ở trong đời sống của Giáo hội.
- Bí tích này được cử hành như thế nào? Phần trả lời giải thích cho biết về nghi thức phụng vụ của bí tích, và thường thì có một vài suy tư đi kèm theo để giúp nhận định về những hình thức khác nhau trong cách cử hành bí tích.
- Ai có thể lãnh nhận bí tích này? Tức là có thể làm chủ thể của bí tích.
- Ai có thể ban bí tích này? Tức là bàn đến vấn đề thừa tác viên: một vấn đề phức tạp hơn là người ta thường tưởng.
- Những hiệu quả, hay đúng hơn, ân sủng bí tích này mang lại.
Cách trình bày dựa theo đề cương trên đây có hai điểm lợi: một đàng là giúp cho có được cơ hội nghiên cứu hành động bí tích theo viễn cảnh Kinh Thánh, bằng cách đọc lại toàn bộ kế hoạch cứu độ, là cội nguồn xuất phát của kế hoạch bí tích; và đàng khác là chỉ giới thiệu về thần học và quy cách của bí tích, — tức là nói về chủ thể, thừa tác viên và hiệu quả — 19 sau khi đã trình bày về thể thức cử hành bí tích. Nói cách khác, thần học căn cứ theo phụng vụ; lex credendi dựa vào lex orandi hay lex celebrandi. Không có chuyện: một bên là nền thần học về bí tích Rửa tội hay Thánh Thể, được các nhà thần học thông thái soạn thảo ra, và bên kia là quy cách thực hành bí tích, mà có may mắn lắm thì được xếp vào hàng các sinh hoạt mục vụ. Cả Sách Lễ lẫn Sách Nghi thức đều được trưng dẫn như là những nguồn liệu của giáo lý và thần học. Sơ đồ dựa theo sáu điểm như thế không phải là một thứ khuôn mẫu ngay đơ cứng nhắc. CGLM đã không áp dụng nó một cách tuyệt đối và nhất luật cho tất cả các bí tích. Quả vậy, ai cũng thừa biết là giữa bảy bí tích, hễ có bao nhiêu điểm giống nhau, thì cũng có bấy nhiêu điểm khác nhau, và rằng cứ cố dùng những phương cách phân tích như nhau để cùng đồng loạt nghiên cứu về mọi bí tích, là một việc làm nguy hiểm và có tính cách giản lược: thần học kinh viện đã từng bị lâm vào thế lúng túng khi muốn áp dụng cho hết cả bảy bí tích, các thứ phạm trù chất thể và mô thức, là những phạm trù không chút thích đáng đối với Hôn phối và Cáo giải, và đã bị CGLM sáng suốt can đảm gạt bỏ hoàn toàn.
Thế nên, tuy vẫn giữ sáu câu hỏi cơ bản, CGLM đã không ngần ngại dựa theo bản chất của mỗi bí tích mà ghi thêm những nhận định bổ túc xét thấy hợp lý, chẳng hạn: đối với bí tích Rửa tội, vấn đề cần phải chịu phép Rửa (bằng nước) và dùng đến các cách thức thay thế — tức là rửa tội “bằng máu” (=chịu tử đạo) và rửa tội “bằng lửa” (=ước muốn chịu phép Rửa), những khi cần — đã được bàn đến; đối với bí tích Thánh Thể, suy tư thần học đã được khai triển thích đáng qua ba khía cạnh khác nhau: hy lễ bí tích, bữa tiệc tạ ơn, và chiều hướng cánh chung của bí tích; còn trong thiên bàn đến bí tích Chức thánh, thì một phần phụ bổ đã được ghép thêm vào để phác trình về vấn đề gay cấn mà lý thú, do các thừa tác vụ của ba bậc chức thánh — phó tế, linh mục và giám mục — đặt ra. Chỉ trong thiên bàn về bí tích Cáo giải, sơ đồ nói trên mới bị đảo lộn hoàn toàn, một cách khó hiểu như sẽ thấy trình bày trong một phần sau của bài viết này.
Cũng cần vui mừng mà nói thêm rằng khi trình bày về các bí tích, hầu như bao giờ CGLM cũng dùng đến hình thức đối chiếu theo kiểu nhất lãm để song song giới thiệu truyền thống hay lề lối thực hành của Ðông phương và của Tây phương. Xin đan cử thí dụ bí tích Hôn phối: Giải đáp cho câu hỏi ai là thừa tác viên của bí tích này, CGLM đã trả lời cho biết là có hai truyền thống khác nhau, nhưng cũng đều là chính thống cả:
“Trong Giáo hội Latinh, chính các người kết hôn thường được coi là những thừa tác viên của ơn Chúa, tức là chính họ ban bí tích Hôn phối cho nhau bằng cách nói lên sự ưng thuận của mình trước mặt Giáo hội. Trong các dạng thể phụng vụ đông phương, linh mục hoặc giám mục làm thừa tác viên cho bí tích (được gọi là “lễ gia miện”), tức là làm người giữ vai lần lượt đặt vòng hoa lên đầu hôn phu và hôn phụ như là dấu chỉ của hôn ước, một khi đã ghi nhận sự ưng thuận của hai phía” (số 1623).
Khẳng định một cách tế nhị như thế là CGLM quả đã nêu rõ cho thấy bản chất thực sự công giáo của mình: chứ không chỉ là một Cuốn Giáo lý Rôma như cuốn giáo lý đã được ấn hành tiếp theo sau công đồng Trentô. Lại một lần nữa, CGLM đã dựa theo một nhãn quan rộng rãi hơn, phong phú hơn, và có tính cách đại kết hơn để trình bày về các mầu nhiệm bí tích.
- MẦU NHIỆM VƯỠT QUA VÀ THÁNH THẦN CÓ MẶT HAY KHÔNG Ở TRONG VĂN BẢN CGLM
Khi ngẫm đọc cho kỹ 25 trang CGLM dành để trình bày về Kế hoạch bí tích (các số 1076-1209), thì không ai mà không khỏi lưu ý đến cung cách nhấn mạnh và thái độ hào hứng lộ rõ qua phần giáo lý này những lúc đề cập — hoặc xem ra đề cập — đến hai nguồn mạch của đời sống bí tích là mầu nhiệm vượt qua và Thánh Thần. Ðối với thần học bí tích, đó là một điểm đề xuất mới; vì thế, cần phải khảo sát cho kỹ hơn để xem hai mầu nhiệm ấy đã được trình bày như thế nào, và tại sao chúng có thể mang lại — hay không mang lại được — sinh khí cho giáo huấn về các bí tích.
- Mầu nhiệm vượt qua
Ngày từ đầu phân đoạn này, CGLM đã tuyên bố rằng “điều mà Truyền thống chung bên Ðông phương cũng như bên Tây phương gọi là kế hoạch bí tích, là chính việc chuyển thông (hay phân phát) những hoa trái do mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô mang lại, qua phương thức cử hành phụng vụ bí tích của Giáo hội” (số 1076). Các chương của phân đoạn này mang những tựa đề quả là rạng rỡ: “Mầu nhiệm vượt qua trong thời đại của Giáo hội,” “Mầu nhiệm vượt qua trong các bí tích của Giáo hội,” “Việc cử hành mầu nhiệm vượt qua theo phương thức bí tích.”
Tuy nhiên, có điều lạ là chẳng thấy nội dung ứng đáp được gì cho xứng hợp với những tiêu đề rạng rỡ kia, và suốt trong 25 trang trình bày ấy, vỏn vẹn chỉ có một tiểu đoạn (số 1085) duy nhất là thực sự nói đến mầu nhiệm vượt qua mà Ðức Kitô “biểu chỉ và thực hiện” ở trong phụng vụ và các bí tích. Ðiều đó đã đưa đến cảm nghĩ cho rằng tác giả đã đặt ra những tựa đề cao đẹp ấy, hẳn không phải là chính soạn giả đã viết ra nội dung của phân đoạn này. Ngoài ra, còn có sự kiện đập thẳng vào mắt và chất đầy ý nghĩa này nữa là không thấy thành ngữ “mầu nhiệm vượt qua” được liệt kê ở trong phần mục lục các chủ đề. Nhưng cũng nên ghi nhận là mầu nhiệm vượt qua xuất hiện trở lại — xác đáng dù là ngắn ngủi — khi CGLM bàn đến việc cử hành ngày của Chúa (Chúa nhật: các số 1166-1167) và năm phụng vụ là chu kỳ kính mừng khơi mạch “cội nguồn ánh sáng của mình” từ trong Tam nhật (thánh) vượt qua (các số 1168-1171).
Rồi tiến thêm một bước, độc giả tò mò sẽ tiếp tục theo dõi cách thức trình bày về bảy bí tích, để tìm xem mầu nhiệm vượt qua — đã từng được đoạn mở đầu và ba tựa đề các chương đề cao, nhưng lại không được nội dung văn bản đào sâu cho mấy, — có được kính mừng và thực thi ra giữa cuộc sống qua bảy giai đoạn trong tiến trình bí tích hay không, và nếu có, thì bằng cách nào.
Khởi sự trình bày về bí tích Rửa tội, là CGLM đã lưu ý ngay rằng từ gốc Hy lạp dùng làm danh xưng cho bí tích, có nghĩa là “dìm sâu,” và vì thế, đối với người kitô “hành động dìm sâu xuống nước tượng trưng cho việc người dự tòng được chôn vùi vào trong sự chết của Ðức Kitô, để rồi từ đó trỗi dậy mà sống lại cùng với Người” (số 1214). Giáo huấn thần học này của thánh Phaolô về bí tích Rửa tội — được coi như là hành động thông phần vào trong mầu nhiệm vượt qua — đã được biểu đạt rõ, đặc biệt là qua đoạn viết nổi tiếng Rm 6,3-4 mà số 1227 đã trích dẫn nguyên văn.
Bổ sung một cách độc đáo giáo huấn của thánh Phaolô — mà Giáo hội hằng bảo toàn — CGLM nói rõ rằng: “Lúc tiến hành cuộc vượt qua của Ngài, là chính lúc Ðức Kitô mở rộng các nguồn suối phép rửa cho hết thảy mọi người. Quả thế, nói trước về cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu tại Giêrusalem, Ngài đã coi đó như là một cuộc tẩy rửa Ngài sắp phải chịu (Mc 10,38)” (số 1225). Như thế, mối giây liên hệ nối liền phép rửa lại với mầu nhiệm vượt qua, không phải chỉ được một mình Phaolô nói đến — dĩ nhiên là Gioan trình bày giáo lý ấy theo một cung cách khác, tức là coi phép rửa như là một cuộc tái sinh bởi nước, và nhất là bởi Thần Khí (Ga 3,5) — nhưng thực sự đã được chính Ðức Kitô khẳng định khi Ngài nói rõ về mối quan hệ giữa phép rửa và cuộc khổ nạn Ngài chịu, như Máccô đã kể lại (10,38-39, và như Luca đã cho thấy một cách âm thầm hơn (12,50). Là một điều thích đáng sự việc CGLM mời gọi người kitô cũng như nhà thần học để tâm gẫm suy về ý nghĩa phép rửa của cuộc khổ nạn Ðức Kitô đã chịu.
Trong phần nói về bí tích Thêm sức, là bí tích giữ vai trò bổ sung hay củng cố cho phép Rửa, tuyệt nhiên không hề thấy có một lời nào trực tiếp nhắc đến mầu nhiệm vượt qua; và biến cố Hiện xuống được coi là mầu nhiệm quy chiếu của bí tích này.
Trái lại và là chuyện dĩ nhiên, bí tích Thánh Thể được giới thiệu qua biến cố thiết lập ngay ở trong bối cảnh vượt qua, như là “việc hồi niệm cuộc khổ nạn và phục sinh của Ðức Chúa” và như là hy lễ “hiện tại hóa cuộc hiến tế duy nhất của Ðức Kitô Cứu Thế” (số 1330). Cả một phần khai triển gồm 4 số được dành để trình bày về việc thiết lập Thánh Thể, là cuộc hy tế “đưa lễ Vượt qua của Do thái giáo đến mức thành tựu, và tiên báo về lễ Vượt qua cách chung mà Giáo hội sẽ mừng trong vinh quang Nước Trời” (các số 1337-1340). Thánh Lễ là “cuộc cử hành phụng vụ… của việc hồi niệm về Ðức Kitô: về cuộc sống, cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, cũng như về sự việc Ngài hằng bầu cử (cho chúng ta) bên cạnh Thiên Chúa Cha” (số 1341). CGLM cũng đã trình bày dài rộng như thế về Thánh Lễ, coi đó là việc hồi niệm cuộc vượt qua hay cuộc hy tế của Ðức Kitô (các số 1362-1372).
Tuy nhiên, có điều này sẽ làm cho độc giả bỡ ngỡ không ít, đó là: sau phần trình bày dài rộng về hy lễ và sự hiện diện của Chúa, lúc bước sang đoạn giới thiệu về phần chịu lễ, độc giả sẽ đọc thấy một tiêu đề thật là đẹp: “Bữa tiệc vượt qua,” nhưng một lần nữa, lại gặp phải cảnh tiêu đề và nội dung không ăn khớp với nhau. Trong 4 trang nói về “bữa tiệc vượt qua,” từ ngữ “vượt qua” chỉ được dùng đến có một lần duy nhất (và như là đồng nghĩa với từ “phục sinh”), để nhắc nhở cho người kitô nhớ là mình có bổn phận phải chịu lễ một năm ít là một lần, và “nếu có thể thì trong mùa phục sinh” (số 1389). Còn điều mà tiêu đề loan báo thì khác hẳn; và lẽ ra những gì đã được nói lên trước đó về Thánh Thể — coi Thánh Thể là cuộc hồi niệm biến cố tử nạn và phục sinh của Ðức Chúa — cần phải được tiếp tục khai triển với một thể dạng huấn giáo thích đáng về việc chịu lễ, coi đó là cách thức người kitô và cộng đoàn đoàn tham dự thông hiệp vào trong mầu nhiệm vượt qua ấy. Chú ý ắt độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên đặt nghi vấn về tình trạng bất nhất, đứt đoạn và bỏ sót như thế kia.
Lắng lo là cảm tưởng khó mà tránh được lúc phải bàn đến bí tích Thống hối và Hòa giải. CGLM trình bày về bí tích này trong một cách thức hoàn toàn khác thường. Giữa các danh xưng dành cho bí tích này, CGLM đã sắp tên gọi “bí tích hòa giải” vào cuối danh sách, và giới thiệu việc hòa giải này như là một hồng ân do lòng thương của Thiên Chúa ban xuống, mà chẳng đề cập gì đến Ðức Kitô (số 1424). CGLM trưng dẫn lời khuyên sắc bén của thánh Phaolô: “Hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2Cr 5,20), nhưng lại tách nó xa ra khỏi văn cảnh của nó:
“Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải. Thật vậy, trong Ðức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người… Vậy, nhân danh Ðức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Ðấng chẳng hề biết tội là gì, Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2Cr 5,18-21).
Khó mà thánh Phaolô nhận ra cho được lời viết của chính mình trong câu trưng dẫn đã bị cắt cụt kiểu đó; và phải nói là câu trưng dẫn cắt cụt ấy sẽ đưa đến chỗ làm cho tư tưởng thần học về hòa giải của ngài “mất hẳn đi tính chất kitô.” Lẽ ra CGLM phải lấy lại đoạn mở đầu ở trong Sách nghi thức thống hối, giới thiệu về một nền thần học hòa giải đượm thắm tính chất kitô và vượt qua như sau: “Thiên Chúa Cha đã tỏ lòng xót thương của Ngài nơi Ðức Giêsu, Con Ngài: nơi Người và qua Người, Chúa Cha đã muốn hòa giải mọi sự với mình và đem lại bình an nhờ máu Ðức Kitô đổ ra trên thập giá (xem 2Cr 5,18tt; Cl 1,20).” Thể dạng thần học hòa giải đượm đầy tính chất kitô và vượt qua như thế xem ra chính xác hơn là mẫu thần học đơn thuần “thiên chúa” mà CGLM giới thiệu.
Dẫu vậy, một cách gián tiếp và mặc nhiên, CGLM cũng đã ngầm chỉ về mầu nhiệm vượt qua, bằng cách giới thiệu bí tích hòa giải như là bí tích bổ sung hay nối dài cho phép rửa (số 1425-1426).
Mầu nhiệm vượt qua không có và không thể có được một chỗ đứng đúng với địa vị của mình, ở trong phần trình bày dài rộng kia về bí tích thống hối và hòa giải, bởi một lẽ rất đơn giản là: vì bỏ hẳn đi phương thức vẫn được dùng đến để giới thiệu các bí tích khác, CGLM không còn bước theo tiến trình và đà phát triển của bí tích hòa giải trong kế hoạch cứu độ nữa; và như thế, những bước chuẩn bị cho bí tích đọc thấy ở trong Cựu Ước, những lời Ðức Kitô kêu gọi hoán cải, thái độ nhân hậu của Ngài đối với các tội nhân, mầu nhiệm cốt lõi về cuộc tử nạn và sống lại, tức là mầu nhiệm làm cho con người được hòa giải với Thiên Chúa Cha, v.v… đều bị gạt bỏ ra ngoài, không còn được lưu ý tới.
Trong tất cả những trang dành riêng để trình bày về bí tích Cáo giải, mầu nhiệm vượt qua chỉ được gợi lên vỏn vẹn có hai lần: lần đầu là nơi đoạn giới thiệu công thức xá giải dùng trong Giáo hội Latinh kể từ khi công bố Sách Nghi thức mới: “Cha nhân từ là nguồn mọi sự tha thứ. Người làm cho những tội nhân được hòa giải nhờ cuộc vượt qua của Con mình và ân huệ của Thần Khí Người, qua lời cầu khẩn và thừa tác vụ của Giáo hội” (số 1449). Tiếp theo đó là công thức xá giải quen thuộc, trong đó, có nói rõ là Thiên Chúa, Cha chúng ta, “đã dùng sự chết và sự sống lại của Con Một Người mà giao hòa thế gian với Người.”
Lần thứ hai nhắc đến mầu nhiệm vượt qua là lần ngầm chỉ về mầu nhiệm này ở trong đoạn kết luận mang tựa đề Tóm kết: “Buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ và nói với họ rằng: Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha; anh em cầm tội ai, thì tội người bị cầm giữ (Ga 20,22-23).”
Thực là xác đáng, việc CGLM trưng dẫn (số 1485) đoạn văn cơ bản trên đây: đoạn văn làm chứng từ cho việc thiết lập bí tích Cáo giải, và nói lên rõ mối liên kết nối liền biến cố Ðức Kitô sống lại, ân huệ nhận được Thánh Linh và sứ mạng tha tội lại với nhau. Nhưng có điều khó hiểu, là tại sao đoạn văn quan trọng đến như thế — và hơn thế nữa, quan trọng nhất trong toàn bộ Phúc Âm nói về bí tích Cáo giải — lại không được viện dẫn và tận dụng ngay ở trong phần chủ chốt của văn bản, mà chỉ được nhắc sơ qua ở trong đoạn Tóm kết. Vậy, phải lấy làm tiếc mà nhận là ánh sáng của mầu nhiệm vượt qua đã không được dùng đến để soi sáng, nếu không phải là cho tòa giải tội, thì ít nhất là cho nơi chốn trang nghiêm mà tươi vui của cuộc gặp gỡ giữa người kitô tội nhân và Thiên Chúa nhân hậu.
Bí tích Xức dầu cho bệnh nhân được giới thiệu một cách thỏa đáng hơn. Hơn ai hết, người ốm đau, yếu nhược vì tuổi tác, và có thể là đang ở trong tình trạng nguy tử, là những người cảm thấy nhu cầu thể chất, tâm lý cũng như thiêng liêng, cần được kết hiệp với Ðức Kitô trong mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Quả thế, phần giáo lý bàn đến bí tích Xức dầu, đã mở đầu với lời trưng dẫn trích từ hiến chế Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân), số 11, viết như sau:
“Qua phép Xức dầu thánh và lời cầu nguyện của các linh mục, toàn thể Giáo hội phó thác bệnh nhân cho Chúa Kitô đau khổ và hiển vinh, để Người ủi an và cứu rỗi họ; hơn nữa, Giáo hội còn thúc giục họ sẵn sàng kết hợp với Chúa chịu đau khổ và chịu chết, để mưu ích cho toàn dân Thiên Chúa” (số 1499).
Vậy là bí tích đã được đặt đúng ngay vào chỗ đứng thích đáng của mình. Nhờ thế, độc giả sẽ không chút ngạc nhiên khi đọc thấy trong một đoạn sau, lời viết dưới đây gợi lại lịch sử cứu độ:
“Trên thập giá, Ðức Kitô đã gánh lấy trọn gánh nặng của sự ác và đã xóa sạch ‘tội trần gian’ (Ga 1,29), mà bệnh tật là một hậu quả. Do bởi cuộc khổ nạn và tử nạn trên thập giá, Ðức Kitô đã mang lại một ý nghĩa mới cho khổ đau: từ nay khổ đau có khả năng đồng nhất hóa chúng ta với Người và nối kết chúng ta lại với cuộc khổ nạn cứu độ của Người” (số 1505).
Giữa những hoa trái của bí tích, CGLM một lần nữa nhắc đến “sự kết hiệp với Ðức Kitô đau khổ” (số 1521); còn đối với trường hợp của những kitô hữu sắp từ giả cõi đời, CGLM đã nhận định một cách chí lý rằng “phép Xức dầu cho bệnh nhân hoàn tất việc đồng nhất hóa chúng ta với cuộc khổ nạn và tử nạn của Ðức Kitô, là việc mà bí tích Rửa tội đã khởi sự” (số 1523). Cứ thế mà xét, thì phải nói là cách thức CGLM giới thiệu bí tích Xức dầu là một cách thức tuyệt hảo, xứng đáng làm mẫu mực.
Nói đến bí tích Chức thánh là có thể đoán ra ngay được mối quan hệ phức tạp mà bí tích này có đối với mầu nhiệm vượt qua. Ðúng thế, chủ yếu là nhờ đã được lãnh nhận chức tư tế mà giám mục và linh mục thông dự vào chức tư tế duy nhất của Ðức Kitô: Ðức Kitô là tư tế duy nhất, tư tế đích thực, là Ðấng “chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo” (Dt 10,14), nghĩa là chỉ dâng hy lễ duy nhất trên thập giá. Linh mục cũng như giám mục đều là những thừa tác viên của Vị tư tế duy nhất ấy (các số 1544-1545).
Ngoài đường lối suy tư tư tế ấy ra, CGLM đã không hề nhắc gì đến mầu nhiệm vượt qua trong một cách thức nào khác. Ðáng lý ra là phải suy nghĩ nhiều hơn, như nhiều linh mục và giám mục thường làm, về mối liên quan giữa thừa tác vụ được trao phó và mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô. Qua bài khuyến dụ trong phụng vụ truyền chức linh mục, giám mục chủ phong nhắn nhủ rằng:
“Hãy cố làm sao cho cuộc sống của chúng con đi đúng với những gì chúng con thực hiện: khi cử hành mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Ðức Kitô, hãy lo ra sức làm cho mọi khuynh hướng xấu chết đi trong chúng con, và vững bước tiến tới trên đường sống mới.”
Ðáng lẽ CGLM phải mở ra một đường lối suy tư tương tự như thế thì mới đạt.
Ngoài ra, con đường tư tế mà linh mục và giám mục dấn thân bước vào, cũng chẳng phải là con đường của phó tế. Như thế, theo giáo huấn của CGLM, chức thánh phó tế xem ra như là chẳng có quan hệ gì với mầu nhiệm vượt qua. Phải có cặp mắt thật tốt, hay là phải có một lòng say mê tha thiết đối với thừa tác vụ phó tế, thì mới nhận ra được một câu ngắn khẳng định rằng do việc truyền chức thánh, phó tế được đóng ấn tích “làm cho họ nên giống Ðức Kitô, là Ðấng đã đích thân làm diákonos, tức là làm người phục vụ mọi người” (số 1570). Và trong phần chú thích, văn bản CGLM trưng dẫn thêm câu Mc 10,45; có thể là câu trưng dẫn này sẽ không được ai lưu ý tới, nhưng không phải vì thế mà chỉ là một câu vô thưởng vô phạt; trái lại nó có thể mở ra những viễn ảnh bát ngát với nhiều đòi hỏi dấn thân đi kèm theo. Chính thế, câu Phúc Âm nói rằng: “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người.” Công tác phục vụ mà Ðức Kitô đã chu tất và được nêu cao làm mẫu gương cho các phó tế bắt chước, không phải đơn thuần là chuyện hưởng nhàn: công tác ấy trực tiếp đi liền với mầu nhiệm vượt qua, với mầu nhiệm hy sinh mạng sống — hoàn tất trong một ngày hay suốt trong thời gian ngày qua ngày của cuộc đời — cho phần rỗi của muôn dân. Phúc cho những phó tế biết coi trọng giáo huấn của CGLM và nhất là của Phúc Âm, để mà dấn thân đi sâu vào trong mầu nhiệm vượt qua! Và có linh mục, giám mục nào mà lại không nhớ là một ngày nọ mình cũng đã chịu chức phó tế, và mãi mãi mình vẫn là phó tế, là người phục vụ, người tôi tớ theo mẫu gương Ðức Kitô Người Tôi Tớ.
Ðối với bí tích Hôn phối, thì vấn đề xem ra đơn giản hơn. Bàn về bí tích này, CGLM đã không đả động gì đến mầu nhiệm vượt qua. Tuy nhiên, đi sát với thực tế và ý thức rằng trong nhiều nơi, tỷ lệ ly dị hôn nhân đã lên đến mức khá cao, và rằng dù sao thì cuộc sống chung trong hôn nhân cũng khó mà tránh cho được những khủng hoảng nhiều ít trầm trọng, CGLM đã nhắc nhở cho các bậc vợ chồng nhớ là họ cần phải có sức mạnh và ơn trợ giúp của Ðức Kitô ban cho thì mới có thể sống đời hôn nhân của mình đúng theo giáo huấn của Phúc Âm được:
“Có biết bước theo Ðức Kitô, có biết từ bỏ chính mình mà vác lấy thập giá của mình, thì các người làm vợ làm chồng mới có thể hiểu thấu được ý nghĩa nguyên thủy của hôn nhân, và sống trọn được ý nghĩa ấy nhờ ơn trợ giúp của Ðức Kitô. Ơn hôn phối ấy là một thành quả phát nguyên từ thập giá Ðức Kitô, nguồn suối của mọi thể dạng đời sống kitô” (số 1615). Có thận trọng, thì cũng cần phải nói rõ rằng hôn nhân kitô không làm cho thoát khỏi được vòng khổ nạn, đớn đau, cũng như không đánh mất đi những cảnh sống lại tươi sáng hân hoan, là tất cả những gì giúp cho các cặp vợ chồng được thông phần vào trong mầu nhiệm thập giá và cuộc vinh thắng vượt qua của Ðức Kitô.
Như vậy, CGLM đã ghi nhận lại những cảm thức cơ bản của công đồng Vaticanô II về vị trí trọng yếu mà mầu nhiệm vượt qua đóng giữ ở trong việc cử hành phụng vụ và các bí tích. Nhưng CGLM lại không đào cho sâu thêm đường hướng suy tư ấy như người ta hằng vẫn chờ mong, và cũng không áp dụng nó một cách đồng đều, vào trong từng trường hợp của các bí tích. Chắc chắn đợt tái bản sắp tới rồi sẽ có cơ hội để tận dụng cho thích đáng hơn, những gì đã được nói lên trong đoạn tuyên bố mở đầu phần giới thiệu các bí tích, viết rằng “kế hoạch bí tích là chính việc chuyển thông (hay phân phát) những hoa trái do mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô mang lại, qua phương thức cử hành phụng vụ bí tích của Giáo hội” (số 1076).
- Chúa Thánh Thần và các bí tích
Về vấn đề này, chúng tôi chỉ xin thảo luận một cách vắn tắt, vì ba lý do sau đây: khuôn khổ giới hạn của bài viết không cho phép làm khác; trong một phần trước, bài viết đã có dịp bàn đến chỗ đứng mà CGLM dành cho Thánh Thần ở trong kế hoạch bí tích; và cuối cùng, nếu có những điểm cần bổ sung liên quan đến vấn đề này, thì bài viết sẽ có dịp nêu lên trong phần trình xuất những đề nghị gợi ý cho đợt tái bản sắp tới.
Bàn chung về các bí tích, CGLM đã khẳng định rằng Thánh Thần là tác giả làm nên những “kiệt tác của Thiên Chúa” là các bí tích (số 1091), và rằng “kinh khẩn cầu xin Thánh Linh đến… nằm ngay ở giữa lòng của mỗi buổi cử hành phụng vụ bí tích” (số 1096). Các lời khẳng định xác đáng và mạnh mẽ như thế có thực sự được thể hiện ra trong phần trình bày về từng bí tích hay không?
RỬA TỘI
Phép Rửa quả là một bí tích của Thần Khí và trong Thần Khí. Chẳng những ngay từ đầu phép Rửa xuất hiện như là “ngưỡng cửa dẫn vào đời sống trong Thần Khí” (số 1293), mà giữa các danh xưng khác nhau, bí tích ấy còn mang những danh hiệu như là “nước tái sinh và đổi mới trong Thánh Thần” (Tt 3,5), hay “cuộc tái sinh bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5); như thế, tư tưởng thần học của Phaolô và của Gioan đồng thanh nói lên mối liên hệ giữa nước và Thần Khí (số 1215). Diễn tả rõ hơn, CGLM đã khẳng định rằng “Nhờ Thánh Thần, phép Rửa mới là nước có sức năng thanh tẩy, thánh hóa và công chính hóa” (số 1227).
Kinh khẩn cầu (epiclesis) xin Thánh Thần đến thánh hiến nước rửa tội đã được nhắc đến rõ ràng: “Giáo hội khẩn xin Thiên Chúa, nhờ Con của Người, làm cho sức mạnh của Chúa Thánh Thần xuống trong nước này, ngõ hầu những ai được rửa trong nước ấy, thì cũng được sinh ra từ nước và Thần Khí” (số 1238). Việc xức dầu thánh “tượng trưng cho ơn Thần Khí người vừa chịu phép Rửa nhận được” (số 1241); và trong các Giáo hội đông phương, việc xức dầu thánh như thế làm nên nghi thức ban bí tích xức dầu thánh, tức là bí tích Thêm sức (số 1242).
Qua nhiều cách thức khác nhau, ơn Thần Khí được nhắc đến giữa các hiệu quả của bí tích Rửa tội: người vừa được rửa tội trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, chi thể của Ðức Kitô, đền thờ của Thánh Thần (số 1265); và ơn phép Rửa “trao ban cho người ấy khả năng sống và hành động theo đà hướng động của Thánh Thần, nhờ các ơn của Người” (số 1266). CGLM đã không tách riêng Thần Khí ra khỏi Ngôi Cha, hay Ngôi Con, và đó là việc làm chí lý: cũng như các bí tích khác, bí tích Rửa tội là một bí tích tam vị, mở lối cho chúng ta đi đến với mầu nhiệm và sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo huấn CGLM dạy có phẩm chất quả là cao.
THÊM SỨC
Trong phần trình bày về bí tích Thêm sức, hoạt động và sự hiện diện của Thánh Thần đã được giới thiệu dài rộng: truyền thống của Tây phương cũng như truyền thống phong phú của Ðông phương đều đã được viện dẫn; các chiều kích cá nhân và giáo hội của ơn Thần Khí trong bí tích này, cũng đều được nêu bật. Bí tích Thêm sức hiện đang có khả năng để biến thành trở lại một lời khẩn cầu rộng lớn Giáo hội dâng lên để nguy
Trái lại, phần trình bày về bí tích Thánh Thể thì không đề cập chi nhiều đến Thần Khí, như người ta hằng mong chờ, và như kết quả của đà nghiên cứu thần học trong những thập kỷ gần đây cho phép. Ðành rằng, khi mô tả về diễn tiến việc cử hành phụng vụ Thánh Thể, CGLM đã dành một đoạn để giới thiệu kinh khẩn cầu Thánh Linh, với nhiều chi tiết khác nhau trong các truyền thống phụng vụ:
“Trong kinh khẩn cầu (epiclesis), Giáo hội nài xin Thiên Chúa Cha phái gửi Thánh Thần của Ngài (hay quyền năng của phép lành Ngài ban[1] xuống trên bánh và rượu, để nhờ quyền năng của Người mà làm các lễ phẩm ấy trở thành Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, và để những ai tham dự vào Thánh Thể thì được trở nên một thân thể và một tinh thần duy nhất. Một vài truyền thống phụng vụ đặt kinh epiclesis sau kinh anamnesis (kinh hồi niệm) (số 1353).
Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, lời khẳng định hay đẹp ấy đã rơi ngay vào quên lãng trong các trang sau đó, tức là trong phần nhận định thần học về sự hiện diện của Ðức Kitô trong hình bánh và hình rượu sau khi truyền phép (các số 1373-1381), một phần viết mang tựa đề đầy hứa hẹn: “Ðức Kitô hiện diện nhờ quyền năng của Lời Ngài và của Thánh Thần,” nhưng — một lần nữa — lại không có được một nội dung cân xứng; mặt khác, hai trang vừa nói, là những trang lấy ý từ công đồng Trentô, đã nhấn mạnh nhiều đến sự hiện diện bản thể và việc biến thể sau các lời truyền phép, nhưng lại không nói gì đến “quyền năng của Thánh Thần.” Chỉ một lần duy nhất, hai trang này đã nhắc đến Thần Khí, đó là trong số 1375: “Các giáo phụ đã mạnh mẽ khẳng định lòng tin của Giáo hội vào sức hữu hiệu của Lời Ðức Kitô và của tác động Chúa Thánh Thần trong việc thực hiện sự biến đổi ấy (bánh rượu thành Mình Máu Ðức Kitô).” Ðáng lẽ ra, thế hệ giáo phụ 1992 cũng phải khẳng định cùng một lòng tin ấy trong một cách thức cương quyết hơn và phong phú hơn (là cách thức trình bày đọc thấy trong CGLM). Sau nhiều thế kỷ câm lặng trước vai trò Thánh Thần đóng giữ trong phụng vụ Thánh Thể, các kitô hữu tây phương cần được nghe một lời khẳng định kích hoạt hơn.
Ðộc giả có cảm tưởng là sau tuyên ngôn hay đẹp đưa ra trong phần đầu, về hoạt động của Thánh Thần trong phụng vụ và các bí tích, CGLM đã tỏ ra do dự, không dám rút tỉa cho đến cùng những hệ luận của lời tuyên bố đó, sợ làm thay đổi đi hình ảnh và thể dạng thần học sẵn có về Thánh Lễ Misa, một thể dạng thuần túy kitô học, trong đó Thánh Thần không tìm thấy được một chỗ đứng nào cả.
Phần viết về chịu lễ — mang tựa đề nghe rất hay “bữa tiệc vượt qua,” song chỉ có tiếng mà không có miếng — cũng phải cam chịu cùng một cảnh vắng bóng Thánh Thần như thế. Thánh Thần chỉ xuất hiện trong hai câu trưng dẫn, mà đáng lẽ ra CGLM phải tận dụng khai thác, chứ không chỉ đơn thuần nêu lên để mặc cho độc giả có chút suy tư thiêng liêng cứ tùy tiện mà tìm hiểu. Câu trưng dẫn đầu, trích từ sắc lệnh của công đồng Vaticanô II về thừa tác vụ của các linh mục, số 5, nói đến việc thông hiệp với thịt của Ðức Kitô phục sinh, “thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần, và có sức truyền ban sự sống” (số 1392); câu trưng dẫn thứ hai trích lại lời của thánh Fulgenxiô, giám mục giáo phận Ruspê (Tuynidi), hồi thế kỷ 4, nói rằng:
“Chính vì yêu thương mà Ðức Kitô đã chịu chết cho chúng ta, thế nên khi cử hành việc tưởng niệm cuộc tử nạn của Người trong phụng vụ hy lễ, chúng ta cũng phải khẩn xin cho được tình yêu, do bởi việc Thánh Thần ngự đến; chúng ta khiêm tốn nguyện rằng nhờ tình yêu ấy, tình yêu đã thúc đẩy Ðức Kitô ưng nhận chịu chết cho chúng ta, xin cho cả chúng ta nữa, một khi đã nhận được ơn của Thánh Thần, thì cũng có được sức năng để coi thế gian như là đã bị đóng đinh vào thập giá đối với chúng ta, và để sống như là đã bị đóng đinh vào thập giá đối với thế gian” (số 1394).
Trong phần viết về chịu lễ, độc giả cũng đã tưởng là sẽ được đọc thấy lời bàn hồ hởi về việc chịu lễ với chén thánh, tức là chịu Máu thánh, mà công đồng Vaticanô II đã đặt vào trở lại trong tầm tay của giáo dân Tây phương, sau nhiều thế kỷ chỉ được dành riêng cho một mình linh mục; không phải là vô cớ mà Ðức Kitô đã dùng những dấu chỉ bánh và rượu để thiết lập cuộc tưởng niệm và bữa tiệc vượt qua của Ngài. Chính CGLM cũng đã viết trong một đoạn khác, nói rằng: “chén tạ ơn (1Cr 10,16) uống vào lúc cuối bữa tiệc vượt qua của người Do thái, tạo thêm cho niềm vui của rượu lễ mừng, một chiều kích cánh chung” (số 1334). Trong Thánh Thể, rượu thường được coi như là biểu tượng của Thánh Thần, nguồn suối của niềm vui, của hiểu biết và hiệp thông; và đó là chuyện hữu lý. Lẽ ra CGLM phải nói rằng việc chịu Máu thánh là dấu chỉ hữu hiệu của việc thông hiệp với Thần Khí của Ðức Kitô [2]
CÁO GIẢI
Trong phần giới thiệu bí tích Cáo giải — mà ngày nay người ta ưa gọi là bí tích của metanoia, tức là theo nghĩa từ hy lạp, của “việc thay đổi lòng trí”: một cách biểu đạt không gặp thấy ở trong CGLM, — dĩ nhiên là Thánh Thần không vắng bóng, nhưng những lời giới thiệu về Ngài quả là quá ít ỏi, không đủ vào đâu để nói lên hoạt động phong phú và hùng mạnh của Ngài.
Ðoạn dẫn nhập vào hai bí tích trị liệu, tức là các bí tích Cáo giải và Xức dầu bệnh nhân, khẳng định với một niềm hứng khởi đượm đầy tinh thần Phúc Âm, là Chúa Giêsu, “vị lương y của hồn xác chúng ta… đã muốn Giáo hội của Người tiếp tục công cuộc trị liệu và cứu độ của Người, trong sức mạnh của Thánh Thần” qua hai bí tích Cáo giải và Xức dầu bệnh nhân (số 1421). Một đoạn viết khác cũng được khơi nguồn hứng từ Phúc Âm, giới thiệu như thế này về hoạt động của Thần Khí:
Kể từ biến cố Phục sinh mà đi, chính Thánh Thần là Ðấng “chứng minh cho thấy thế gian sai lầm về tội lỗi” (Ga 16, 8-9), nghĩa là thế gian đã không muốn tin vào Ðấng Thiên Chúa Cha phái gửi đến. Nhưng Thần Khí vạch trần lỗi tội ấy, cũng chính là Ðấng ủi an hằng tuôn đổ ơn sám hối và hoán cải xuống trong tâm lòng con người (số 1433).
Nhưng, sau đó, trong phần dựa theo tư tưởng của công đồng Trentô mà phân tích dài rộng về bí tích Cáo giải, thì không còn gặp thấy một dấu vết nào nữa của Thánh Thần. Phải cố gắng lắm mới thoáng nhận ra bóng Ngài qua hai lần đọc thấy tĩnh từ thiêng liêng, trong bản văn viết rằng: đi tiếp theo sau bí tích Cáo giải là “trạng thái bình an và điềm tĩnh của lương tâm, có một niềm an ủi thiêng liêng lớn đi kèm”
[câu trích dẫn công đồng Trentô]. “Thật vậy, bí tích Hòa giải với Thiên Chúa đem lại một cuộc phục sinh thiêng liêng thật sự” (số 1468). Trong phần mô tả thể thức cử hành bí tích, không sao tìm cho ra được dù chỉ một lời nói đến việc đặt tay, như Sách Nghi thức đã khuyên: trong bất cứ nghi thức bí tích nào, việc đặt tay cũng mang ý nghĩa của một cử chỉ khẩn cầu Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên người đang lãnh nhận bí tích.
Phải chờ cho tới bản tóm lược cuối cùng mới đọc thấy được đoạn Phúc Âm mong chờ ngay từ lúc đầu, và là đoạn quan trọng nhất trong toàn bộ Tân Ước, nói về sứ mạng và năng quyền tha tội:
Chiều hôm Phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ của Người và nói: “Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha; anh em cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm giữ” (số 1485).
Nhưng độc giả vẫn ngạc nhiên không hiểu tại sao câu trưng dẫn ấy lấy từ Ga 20, 22-23 lại bỏ sót một phần chữ mang theo nhiều ý nghĩa tiềm ẩn; câu viết của Gioan ghi rằng: “Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: Hãy nhận lấy Thánh Thần…” Tại sao lại không nhắc đến cái hơi thổi nhiệm mầu ấy, cái lần duy nhất Phúc Âm kể lại sự việc Ðức Kitô thổi hơi vào các tông đồ của Người?
XỨC DẦU BỆNH NHÂN
Trái lại, là bí tích trợ lực, là bí tích mang lại sức mạnh của Thiên Chúa và của Thần Khí Người cho người yếu đau, kiệt lực, phép Xức dầu bệnh nhân biểu thị rõ sự hiện diện và tác động của Thánh Thần. Hai cử chỉ đặt tay và xức dầu thánh nói lên việc Thần Khí ngự đến và đi sâu vào trong cõi lòng con người. Trong số 1513, CGLM ghi lại công thức mới của bí tích Xức dầu:
“Nhờ phép xức dầu thánh này, xin Chúa nhân từ ban cho con ơn an ủi của Thánh Thần. Và bởi Người đã giải thoát con khỏi tội lỗi, thì xin Người cũng cứu rỗi và nâng đỡ con.”
Linh mục hoặc (trong các trường hợp cử hành chung) các linh mục ban bí tích “cầu nguyện cho các bệnh nhân trong đức tin của Giáo hội: đó chính là kinh khẩn cầu (epiclesis) của riêng bí tích này” (số 1519). Cuối cùng, giữa những hoa trái bí tích mang lại, trước hết CGLM đã kể ra (số 1520):
Ân huệ đặc biệt là nhận được Thánh Thần. Ơn đầu tiên của bí tích này là ơn trợ lực, bình an và can đảm, giúp cho khắc phục được những khó khăn gặp phải những khi ngã bệnh nặng hay là trong cảnh yếu kém bấp bênh của tuổi già. Ơn này là quà tặng của Thánh Thần do sự việc Ngài củng cố cho lòng cậy trông và tin tưởng vào Thiên Chúa, tăng cường nghị lực để có sức mà chống lại những cám dỗ của ác thần, cám dỗ ngã lòng và hoảng sợ trước cảnh chết. Với ơn trợ giúp ấy, Chúa muốn dùng sức mạnh của Thần Khí Người mà làm cho bệnh nhân được khỏe mạnh phần hồn và cả phần xác nữa, nếu đó quả là ý Chúa. Ngoài ra, “nếu người ấy có tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,15). Như bí tích Thêm sức đã làm trong buổi đầu đời sống kitô, thì cũng thế, vào chặng cuối cuộc đời kitô hay là trong những lúc gặp hiểm nguy sống còn giữa đường đời, bí tích Xức dầu nêu bật cho thấy vai trò của Thánh Thần.
CHỨC THÁNH
Trong bí tích Chức thánh — gồm ba trật bậc là giám mục, linh mục và phó tế — vai trò Thánh Thần đóng giữ, là vai trò nào? CGLM đề xuất ngay một khuôn mẫu suy tư thích đáng với lời tuyên bố nói rằng: bí tích Truyền chức “trao ban ơn Thánh Thần làm cho có đủ tư cách hành sử chức quyền thánh, là quyền chính Ðức Kitô thông ban qua Giáo hội” (số 1538).
Trình bày về giám mục và linh mục, CGLM chỉ trích dẫn các văn bản của Vaticanô II giới thiệu hai thừa tác vụ này như là phát nguyên từ Thánh Thần và hằng được sinh lực của Ngài làm cho sống động. Chỉ xin ghi lại một vài đoạn viết như sau trong CGLM:
Ðể họ có đủ sức năng chu toàn sứ mạng cao cả, “các tông đồ đã được Ðức Kitô làm cho nên phong phú với ơn Thánh Thần ban xuống tràn đầy trên các ngài; rồi chính các ngài, qua việc đặt tay, lại chuyển trao cho các người cộng sự của mình ân huệ thiêng liêng ấy, để ơn này được thông truyền đến tận chúng ta qua phép truyền chức giám mục (Lumen gentium, 21)” (số 1556).
“Nhờ Thánh Thần các ngài lãnh nhận, các giám mục đã được đặt làm thầy dạy đức tin, làm chánh tế và chủ chăn thực thụ và chính thức (Christus Dominus, 2)” (số 1558).
“Chức tư tế của các linh mục… được trao ban qua một bí tích riêng, có sức ghi dấu vào trong các ngài bằng một ấn tích đặc biệt, qua việc Thánh Thần xức dầu, và làm cho các ngài nên giống Ðức Kitô-Linh mục để nhờ đó các ngài có được quyền nhân danh chính Ðức Kitô là Ðầu mà hành động (Presbyterorum Ordinis, 2) (số 1563).
Trái lại, trong ba số 1569-1571 bàn về phép Truyền chức và thừa tác vụ phó tế, đáng tiếc là không có một lời nào trực tiếp đề cập đến Thánh Thần, mà chỉ đọc thấy một câu trích dẫn lấy từ Vaticanô II ra (Ad Gentes, 16) nhắc lại rằng các phó tế “được củng cố qua việc đặt tay lưu truyền từ thời các tông đồ” (số 1571); quả vậy, chính các ngài đã đặt tay cho bảy người “đầy Thần Khí và khôn ngoan” (Cv 6,1-6).
Giới thiệu phụng vụ bí tích Chức thánh với những lời lẽ rất xác đáng, CGLM đã nhận định như sau về cả ba trật bậc của chức tư tế:
Nghi thức chủ yếu cho cả ba trật bậc của bí tích Chức thánh, hệ tại ở việc giám mục đặt tay trên đầu người chịu chức, cũng như ở lời kinh thánh hiến đặc thù cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Thần Người xuống và rộng ban những ơn thích đáng đối với việc thi hành thừa tác vụ mà ứng viên chịu chức thánh lãnh nhận (số 1573).
Cuối cùng, trong phần bàn về các hiệu quả của bí tích, CGLM viết rằng “bí tích này ban ơn đặc biệt của Thánh Thần mà làm cho (ứng viên chịu chức thánh) nên giống Ðức Kitô, hầu làm khí cụ của Người cho Giáo hội” (số 1581). Lời khẳng định hay đẹp ấy phù hợp với cả ba bậc thừa tác vụ giám mục, linh mục và phó tế. Nói cho chính xác hơn, bí tích Chức thánh mang lại hai hiệu quả: một đàng là “ấn tích không tẩy xóa được” mà CGLM giới thiệu với nhiều trích dẫn rút từ công đồng Trentô, và đàng khác là “ơn Thánh Thần” được trình bày với những trưng dẫn lấy từ Phúc Âm và phụng vụ. Tuy nhiên, có một vấn đề không thể không đặt ra, đó là: nếu “ơn Thánh Thần đặc trưng của bí tích này là làm cho nên giống Ðức Kitô Linh mục, Thầy dạy và Mục tử mà người chịu chức thánh được đặt làm thừa tác viên” (số 1585), thì ơn ấy tương ứng đúng với các chức năng của giám mục và linh mục, nhưng lại không phù hợp với chức năng của phó tế, vì phó tế không phải là tư tế, và chỉ là người phục vụ chứ không phải là thầy dạy, và không thường xuyên đóng giữ một vai trò mục tử. Dù vậy, thì vẫn có một mối liên hệ chặt chẽ — hay một mạng những mối liên hệ — giữa phó tế và Thánh Thần, như hằng thấy rõ ở trong nghi thức truyền chức phó tế.
Tóm lại, CGLM đã trình bày một cách thỏa đáng về tác động của Thánh Thần trong bí tích Chức thánh và trong thừa tác vụ của giám mục và linh mục, cho dù có tỏ ra không mấy sáng tạo khi bàn đến chức phó tế theo thể dạng phục hồi mà công đồng Vaticanô II đã miêu trình.
HÔN PHỐI
Hàng thế kỷ qua, bên Tây phương, bí tích Hôn phối được cử hành mà không bao giờ nghe nhắc gì đến Thánh Thần, trong khi đó, chắc hẳn Thần Khí tình yêu, Thần Khí dũng lực và thành tín không thể nào vắng mặt được ở trong tình phối kết giữa một người nam và một người nữ yêu thương nhau thật dù vẫn biết rõ cảnh sống bấp bênh của cuộc đời mình. Cho đến năm 1991, mới đọc thấy được một lời ấp úng khẩn nguyện Thánh Linh (epiclesis) ở trong bản mới của cuốn Nghi thức Rôma về hôn phối (chưa được phổ biến nhiều trong các thứ tiếng địa phương). Vì thế, độc giả sẽ không khỏi bỡ ngỡ thán phục… cũng như hy vọng nhiều cho tương lai, khi đọc thấy đoạn viết sau đây trong CGLM:
Những nghi thức khác nhau trong phụng vụ cử hành hôn phối đều có chứa đựng nhiều lời nguyện chúc tụng và khẩn cầu để xin Thiên Chúa ban ơn thánh và chúc lành cho đôi tân hôn, đặc biệt là cho người vợ. Kinh khẩn cầu (epiclesis) của bí tích này, nguyện xin cho đôi tân hôn nhận được Thánh Thần, là mối hiệp thông tình yêu giữa Ðức Kitô và Hội thánh. Chính Người là dấu ấn của giao ước giữa họ, là nguồn suối sinh khí hằng tiếp trợ cho tình yêu của họ, là sức mạnh hằng đỡ nâng lòng tín trung nơi họ (số 1624).
Về điểm này cũng như trong một số điểm khác, CGLM đã đi trước thực tế, và đã lấy phong cách tiên tri mà xác định. Từ đó, có thể rút tỉa một nhận định chung để nói rằng CGLM quả đã mở ra một viễn cảnh lạc quan. Nếu trong một số bí tích, CGLM đã nói lên rõ hoạt động của Thánh Thần, thì trong một vài bí tích khác, còn nhiều điều cần phải được nói lên về hoạt động ấy. Nhưng rồi quyền năng của Thần Khí, hằng hoạt động ở trong cuộc sống Giáo hội và trong đời sống các kitô hữu, cũng sẽ đi đến chỗ khắc phục xong những trì trệ và quên sót. Ðược dành trọn để giới thiệu “Thánh Thần và Giáo hội trong phụng vụ” (các số 1091-1109), bốn trang viết mạnh mẽ của phần bàn về kế hoạch bí tích, sớm muộn gì rồi cũng sẽ được ứng dụng trọn vẹn vào trong phần huấn giáo về các bí tích và về từng bí tích một, không trừ một bí tích nào.
III. Ý KIẾN ÐỀ NGHỊ CHO ÐỢT TÁI BẢN SẮP TỚI
Những trang viết trên đây đã cố gắng nêu rõ tính chất phong phú của giáo huấn CGLM dạy về các bí tích, cũng như lưu ý về những điểm thiếu sót hay thiếu nhất quán, thiếu liên tục gặp thấy trong văn bản của giáo huấn: những điểm thiếu sót sẽ có thể và sẽ phải được sửa chữa trong đợt tái bản đã dự kiến. Như đã thấy, đáng chú ý hơn hết là tình trạng rời rạc, thiếu nhất quán/liên tục giữa phần một (trình bày về kế hoạch bí tích) và phần hai (giới thiệu từng bí tích một). Còn những bỏ sót đáng quan tâm nhất thì chủ yếu xoay quanh điểm này là sự hiện diện của mầu nhiệm vượt qua và của Thánh Thần đã không được nhắc đến hay không được nhắc đến cho đủ trong một số trường hợp giới thiệu riêng về từng bí tích. Tiếp theo sau những nhận định chung vừa nói, xin được ghi thêm ra đây những nhận xét và đề nghị cụ thể hơn: những đề nghị trực tiếp liên quan đến một hay một nhóm bí tích.
Ba bí tích khai tâm kitô được trình bày theo thứ tự cổ điển: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể, và CGLM đã để lộ rõ thái độ thán phục đối với thứ tự diễn tiến ấy (số 1212). Nhưng CGLM đã quên đi rằng bên Tây phương, lộ trình tốt đẹp ấy thường thì không phải là lộ trình diễn ra trong thực tế, và việc khai tâm kitô thực ra chỉ được tiến hành một cách chắp nối: trẻ thơ được rửa tội một vài tuần hay một vài tháng sau khi sinh ra; trẻ em 7/8 tuổi được chịu lễ, nhưng trước khi chịu lễ lần đầu như thế, các em phải đi xưng tội; cuối cùng, lúc lên 10 và 18 tuổi, các thanh thiếu niên được chịu bí tích Thêm sức, nhưng trước đó cũng phải đi xưng tội (số 1310). Như vậy, trong thực tế, lộ trình khai tâm kitô gồm có 5 giai đoạn: Rửa tội, Cáo giải, Thánh Thể, Cáo giải trở lại, và Thêm sức. Thế là, phần diễn giảng cao đẹp mà CGLM đưa ra nhằm mục đích xây dựng một nền thần học bí tích dựa trên nền tảng của lề lối cử hành cụ thể của chính các bí tích, chỉ còn xem ra như là một lời bàn bấp bênh và trừu tượng.
Quy trình theo đó CGLM đã khai triển phần trình bày về bí tích Thêm sức, cho thấy có hai điều cần điều chỉnh, đó là: thứ nhất, nên bắt đầu chương trình bày bằng câu hỏi: “Bí tích này tên là gì?” nhưng không rõ tại sao câu hỏi đó lại bị bỏ mất đi, trong khi văn bản vẫn kể ra ba danh hiệu sau đây được dùng để gọi bí tích: xức dầu thánh, Myron[3] và thêm sức; và lưu ý cho thấy là mỗi danh xưng đều có một ý nghĩa và tầm giá trị riêng. Thứ hai, nên xếp phần bàn “những hiệu quả của bí tích Thêm sức” ở phần cuối chương giới thiệu bí tích, như trong trường hợp các bí tích khác, chứ không phải là đặt trước phần bàn về chủ thể và thừa tác viên như hiện thấy trong văn bản của CGLM.
Liên quan đến bí tích Thánh Thể, bài viết đã có dịp nêu lên sự việc mầu nhiệm vượt qua đã bị che khuất mất đi trong phần chịu lễ: phần này được giới thiệu với tựa đề đầy hứa hẹn này là “bữa tiệc vượt qua,” nhưng lời hứa đã không được giữ, vì văn bản diễn giải đã không nhắc gì đến việc tín hữu thông dự vào trong cuộc lễ vượt qua của Ðức Kitô. Bài viết cũng đã nêu lên những điểm yếu và những đoạn thiếu nhất quán hay rời rạc trong văn bản viết về hoạt động của Thánh Thần trong bí tích này. CGLM khẳng định rằng phần khẩn cầu (epiclesis) trong Kinh Tạ ơn, nguyện xin Thần Khí xuống trên bánh và rượu để dùng quyền năng của Người mà biến chúng thành Mình và Máu Ðức Kitô, và nhắc lại rằng một số truyền thống phụng vụ (đông phương) đặt kinh khẩn cầu ấy vào sau lúc truyền phép và sau kinh hồi niệm (số 1353); nhưng, một vài trang sau đó, CGLM đã lấy nguyên lại dạng giáo huấn cổ điển nhất của Tây phương — một thể dạng giáo huấn không hề biết đánh giá cho đúng mực tầm quan trọng của kinh khẩn cầu và qua đó, của vai trò Thần Khí đóng giữ — để viết rằng: “sự hiện diện bí tích của Ðức Kitô bắt đầu lúc truyền phép” (số 1377). Quyền năng của Thần Khí dù có sức biến đổi bánh và rượu, thì cũng chưa biến đổi hoàn toàn nổi não trạng con người!
Một cuộc biến đổi não trạng và ngôn ngữ cũng xem ra cần thiết đối với việc chịu lễ dưới hình bánh và hình rượu (mà CGLM vẫn gọi là chịu lễ “dưới hai hình thức” dù đa số người kitô không còn hiểu thuật ngữ thần học ấy muốn nói gì). Ðức Kitô đã thiết lập Thánh Thể với hai dấu chỉ bánh và rượu, và trong Phúc Âm, Người tuyên bố rằng: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình… vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”(Ga 6,53-55). Thế thì, những lời mạnh mẽ ấy cũng còn nghe ra “quá chướng tai” đối với các kitô hữu lễ điển Latinh, hệt như đối với những người xưa kia khi nghe Ðức Giêsu diễn giảng như thế hay sao? CGLM nhận là “chịu lễ dưới hai hình sẽ làm cho việc chịu lễ nên trọn vẹn hơn” (số 1390), nhưng, trước đó, CGLM đã xác định rằng “rước lễ dưới hình thức bánh không thôi, cũng đủ để lãnh nhận được hết hoa trái ân sủng của Thánh Thể,” và rằng “vì lý do mục vụ, cách chịu lễ như thế đã chính đáng trở thành cách thức thông thường nhất trong lễ điển Latinh” (cùng một số 1390). Vậy thì không còn cần phải đặt nặng vấn đề đối với những lời Ðức Kitô đã nói, và những dấu chỉ chính Người đã chọn nữa hay sao?
Cuối cùng, nếu đã thực sự chọn được một lập trường đúng đắn, tức là quyết xây dựng một nền thần học bí tích cả trên những dữ liệu Kinh Thánh lẫn trên quy cách cụ thể của việc cử hành các bí tích, thì làm sao có thể cắt nghĩa được sự kiện CGLM 1992 đã không hề đề cập gì đến việc đồng tế Thánh Lễ? Từ đồng tế không có mặt ở trong bảng mục lục, và cả ở trong văn bản cũng không. Trong khi đó, từ ba nươi năm nay (tháng tư 1965), công đồng Vaticanô II đã phục hồi việc đồng tế, và nhờ đó nhiều linh mục và tín hữu đã canh tân được cách sống mầu nhiệm Thánh Thể của mình. Vậy thì làm sao hiểu nổi sự việc CGLM đã hoàn toàn bỏ quên, không nói gì đến việc đó! Quả đó là một thiếu sót trầm trọng mà đợt tái bản sắp tới không thể bỏ sót mà không bổ khuyết được.
Tuy nhiên, phần cần phải sửa đổi tận căn nhất chính là phần viết về bí tích Sám hối và Hòa giải, đến độ nếu chỉ phải nhận định về phần này không thôi, thì cũng đáng để làm một cuộc nghiên cứu sâu rộng. Hẳn là có người sẽ tọc mạch muốn tìm cho biết về quá trình soạn thảo và hình thành chương sách này. Cấu trúc của nó khác hẳn với cấu trúc những chương trình bày về các bí tích khác. Có hai lỗi lầm trong cách xếp đặt cấu trúc đã làm cho chương vừa nói bị xáo trộn. Lỗi lầm thứ nhất: không giống như trong các chương viết về các bí tích khác, trong chương giới thiệu bí tích Cáo giải, không có phần nghiên cứu về các dữ kiện Kinh Thánh: “Tội lỗi và sự tha thứ trong kế hoạc cứu độ.” Mà đâu phải Kinh Thánh không nói gì đến tội lỗi: hầu như trang nào trong Kinh Thánh cũng đối diện với vấn đề tội lỗi và với thái độ Thiên Chúa ứng sử với tội lỗi, từ trình thuật về sa ngã của Ađam và Evà bị trục xuất ra khỏi địa đàng, cho tới câu chuyện về người trộm lành, có tài “ăn trộm thiên đàng,” được phúc nghe Ðức Kitô nói cho biết là: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.” Có vì phải lo cho kế hoạch tiết kiệm mà phải gạt bỏ mất đi kế hoạch cứu độ? Toàn bộ suy tư và toàn bộ huấn giáo về bí tích Cáo giải, rút ra từ suy tư ấy, đều thiếu hẳn nền tảng Kinh Thánh, thiếu hẳn hiểu biết về thái độ của Thiên Chúa và Ðức Giêsu, Con của Người, đối với dân tình tội lỗi và con người tội phạm. Ðã đành là đây đó có đọc thấy những chi tiết nói tới lịch sử về lòng nhân hậu và thứ tha của Thiên Chúa, nhưng chúng chỉ được nêu lên một cách ngang ngửa lộn xộn, phân tán rời rạc, không theo một trật tự nào cả. Mong rằng trũng thiếu sót trầm trọng ấy rồi cũng sẽ được lấp đầy.
Lỗi lầm thứ hai: là đã đợi cho đến cuối cùng — tức là sau một phần dài rộng bàn về ân xá đại xá — rồi mới miêu trình về cách thức cử hành bí tích, và chỉ miêu trình qua loa trong một trang viết. Trong trường hợp các bí tích khác, đặc biệt là ba bí tích khai tâm, việc cử hành phụng vụ bí tích được trình bày ngay sau phần bàn về kế hoạch cứu độ, và dựa theo cơ sở hai chiều kích ấy, tức là Kinh Thánh và phụng vụ, CGLM đã có thể phác thảo ra được cả một thể dạng thần học và một mẫu huấn giáo vững chắc. Còn trong trường hợp của bí tích Cáo giải, thì không có phần nói về quá trình hình thành ở trong Kinh Thánh, và cho đến cuối cùng mới đọc thấy phần miêu trình về phụng vụ. Ðiều đó có nghĩa rằng suy tư thần học và giáo lý đã không được đặt trên cơ sở dữ liệu Kinh Thánh và kinh nghiệm phụng vụ, mà chỉ đâm rễ và múc sức hơi… từ trong các khoản giáo huấn của công đồng Trentô, và từ trong Sách Giáo Lý Rôma ấn hành năm 1566, được trưng dẫn rất nhiều nơi phần chú thích cuối trang.
Mới đây, sau khi đối chiếu CGLM với Sách Nghi thức sám hối, một chuyên gia phụng vụ người Ý đã nhận định rằng CGLM chỉ nhìn vấn đề theo viễn cảnh ăn năn tội cách trọn hay không trọn (ái hối/úy hối), còn Sách Nghi thức thì nhờ biết ứng đáp thích đáng cung cách cụ thể của việc cử hành bí tích, nên đã nắm vững được tinh thần metanoia của Phúc Âm làm mạch chủ yếu, bởi vì đó là điều kiện tiên quyết để được vào (hay vào lại) trong vương quốc của Ðức Kitô.[4]
Xin được góp thêm một số đề nghị về bí tích Truyền chức thánh. Từ nhiều thế kỷ nay, có một vấn đề thuật ngữ thường được đặt ra cho tên gọi của bí tích này. Thần học, môn huấn giáo, giáo luật và cả CGLM nữa, đều gọi bí tích này bằng danh xưng sacramentum ordinis, sacrement de l’ordre, v.v… Trong ngôn ngữ thông thường, từ ordo có nghĩa là “thứ tự,” “trật tự,” “tập đoàn/thể,” “giới,” “hội,” “nhóm,” v.v… như chính CGLM đã nhắc lại rất đúng trong các số 1537-1538. Vậy, nếu muốn diễn đạt cho chính xác và rõ ràng, thì cần phải gọi là bí tích Truyền chức (sacrement de l’ordination).
Một nhận xét khác liên quan đến cách thức CGLM trình bày về chức phó tế. Công đồng Vaticanô II đã phục hồi nội dung và ý nghĩa của thừa tác vụ phó tế, và đã cho phép được có những phó tế vĩnh viễn (hiện nay trong toàn thế giới, có lối 20.000 phó tế vĩnh viễn). Dù có ca ngợi việc tái lập này của công đồng, và đề ra một số công thức thích đáng có giá trị đối với việc truyền chức phó tế cũng như đối với việc truyền chức linh mục hay giám mục, thì CGLM cũng vẫn thường suy nghĩ theo viễn cảnh của một chức tư tế không bao gồm các phó tế. Như thế, thì có ứng đáp đúng mức hay không lòng mong ước muốn được đọc thấy ở trong CGLM một hướng suy tư đặc thù, mới mẽ hơn và sâu sắc hơn, về thừa tác vụ phó tế?
* * *
Còn có thể đề nghị thêm nhiều ý kiến khác nữa. Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng một cuốn sách được soạn thảo theo phương thức làm việc tập thể và để cho toàn thể Giáo hội công giáo cùng dùng, thì không thể nào xử lý cho hết mọi nhận xét và đề nghị được. Chúng tôi chỉ muốn lợi dụng dịp chuẩn bị đợt tái bản sắp tới đã được loan báo của CGLM, để nêu bật những điểm son của Bộ Tổng luận giáo lý này, cũng như để đề nghị vào một thời điểm thuận lợi, một số ý kiến mà chúng tôi nghĩ là hợp lý, nhằm góp phần vào trong nỗ lực làm cho công tác giới thiệu giáo lý về bí tích, được cân bằng hơn — và trong một số điểm, được nhất quán hơn — bởi vì đó là phần giáo lý đóng giữ một vai trò lớn trong việc mời gọi và giúp cho hết mọi tín hữu kitô gặt hái tốt đẹp “những hoa trái phát sinh từ mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô, trong việc cử hành phụng vụ bí tích của Giáo hội” (số 1076).
Philippe Rouillard, o.s.b. [5]
[Felipe Gómez Ngô Minh trình dịch, HTTH SỐ 13&14, NĂM THỨ NĂM (1995)]
[1] CGLM muốn ám chỉ đến Kinh tạ ơn I trong Sách lễ Roma, số 90, theo bản tiếng Pháp, Ðức và một vài thứ tiếng khác; còn trong bản tiếng Latinh, Anh, Tây ban nha, Việt Nam, v.v… thì khác.
[2] Ðộc giả sẽ ngạc nhiên khi thấy là trong số 1390, CGLM đã thoáng để lộ ra lập trường ủng hộ lề lối thực hành của lễ điển Latinh cho chịu lễ chỉ dưới một mình hình bánh mà thôi. Rất may là còn có số 1412 để được đọc thấy một lối trình bày chính xác hơn.
[3] từ Hy lạp này có nghĩa là dầu thơm.
[4] E. Mazza, “Il sacramento della penitenza. Un confronto tra il Catechismo della Chiesa cattolica e il Rito della penitenza,” trong Rivista liturgica 81 (1994) 782-797.
[5] Tác giả làm giáo sư thần học tại Học viện Ateneo Anselmiano, Roma. Bài viết nguyên văn tiếng Pháp, tựa đề “La présentation des sacrements dans le CATÉCHISME DE L’ÉGLISE CATHOLIQUE, đăng trong tạp chí ESPRIT ET VIE số 16 (20 tháng 4, 1995) 225-236.
2022
Lịch sử Mùa Chay Thánh
Lịch sử Mùa Chay Thánh
Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Ðông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Công giáo cũng nằm trong chu kỳ ấy. Phụng vụ Giáo Hội cũng có các Mùa như: Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Thường Niên, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Chúng ta đang chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay có ý nghĩa và không trở nên nhàm chán?
Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?
Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các Kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Do thái giữ ngày Sabát, hay lên Ðền thờ cầu nguyện. Tuy các Kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép Rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin; nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Do thái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn: khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Xuất Hành Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ.
Mãi đến thế kỷ IV, trong Giáo Hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như: Liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Do thái không? Tại các giáo đoàn thuộc Tiểu Á vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng giáo đoàn Antiokia lại ấn định Lễ Phục Sinh vào ngày Chúa nhật sau Lễ Vượt Qua của người Do thái, trong khi đó, các Kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển dời Lễ Phục Sinh vào dịp xuân phân.
Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng Lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì Lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin. Trước Lễ Phục Sinh, có một khoảng thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay “40 ngày”, để tưởng nhớ Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.
Việc thực hành Mùa Chay đã có ngay ở những thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi đến thế kỷ II, thời thánh Irênê, Giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ 2 đến 3 ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang thế kỷ III, tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết 1 tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ IV, trong lễ quy của Công đồng Nicêa. Ðây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp những người dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa tội vào Ðêm Vọng Phục Sinh.
Cuối thế kỷ IV, giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bảy và Chúa nhật. Sang thế kỷ V, tại Ai cập, người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bảy và thứ Sáu trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các Kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được quy định tuỳ theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì Mùa Chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ VII, người ta đã lùi về trước Mùa Chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bảy của tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày chay tịnh, tức ăn chay. Ðồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa Chay, gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng Lễ Phục Sinh, cách Lễ Phục Sinh 9 tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn trứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ, tức 9 giờ sáng, tiếp theo được ăn “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII, việc ăn chay giảm dần và Giáo Hội cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.
Từ năm 1949, Giáo Hội Công giáo quy định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: Ngày Thứ Tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Trong phụng vụ của Giáo Hội Chính thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài 5 tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tin Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ tư, được ấn định là ngày kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo Hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hoà giải, mỗi người hoà giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.
Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”. Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.
Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách Thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hoà tấu Allêluia trong Ðêm Vọng Phục Sinh.
Chúa nhật Lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm Cuộc Khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục sinh của Ngài.
Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?
Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc La-tinh là “quadragesima”, có nghĩa là 40. Trong Kinh Thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Ðất Hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môsê đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đất 40 ngày (x. Ds 13,25). Êlia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó ngài được thị kiến (x. 1 V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 đêm ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).
Như vậy, Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Ðây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích hợp cho các Kitô hữu noi gương Ðức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, Ðấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
Mùa Chay mang lại cho chúng ta điều gì?
Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Ðại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiêng ăn, kiêng uống, giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là đại đa số người Kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Ðây là một nghi thức giàu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu hèn, mỏng dòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứu độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hoà với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hối, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hoà và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.
Trong đời sống người Kitô hữu, nhiều khi lắng nghe Lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.” (2Cr 6,2). Ðây là thời gian khẩn trương trong Năm Phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Ðộ
2022
Tản mạn về giọng đọc kinh Qui Nhơn
Tản mạn về giọng đọc kinh Qui Nhơn
Dẫn nhập: Tưởng như nghe chim hót
Một trong những điều ấn tượng nhất đối với giáo sĩ Đắc Lộ khi vừa cập bến Đàng Trong năm 1624 đó là tiếng nói, nhất là âm giọng của đồng bào ta, như ngài đã ngỡ ngàng nhận xét: nghe nói mà “như nghe chim hót”: “Chúng tôi khỏi hành từ Macao vào tháng 10 năm 1624 và mười chín ngày thì tới Đàng Trong. Ở đó chúng tôi gặp cha Pina, ngài rất thông thạo tiếng xứ này, một thứ tiếng khác hẳn tiếng Tàu… Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, tôi tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có thể học được”[1].
Vâng, người Việt Nam chúng ta, Đất nước Việt Nam có nhiều điều đáng để tự hào; và một trong những điều đó chính là tiếng nói, chính là âm giọng cưu mang “một cái hồn đầy nhạc tính”, một “cái âm sắc rất riêng” làm nên chính con người Việt Nam, đất nước Việt Nam mà ca khúc “Đất Nước” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn đã thâm thúy khắc họa bằng những biểu tượng âm nhạc bàng bạc qua từng giai điệu:
Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu…
Lao xao trưa hè một giọng ca dao
Lao xao trưa hè một giọng ca dao….
Xin hát về người đất nước ơi,
Xin hát về mẹ Tổ Quốc ơi, tảo tần chung thủy.
Như những câu hò lắng trong tiếng sáo,
Đêm lại dặt dìu tiếng mẹ ru con…
Và khi Đạo Chúa được tiếp nhận trên mảnh đất hình chữ S nầy, nhất là khi đã lan tỏa qua cả hai vùng Đàng Trong (1615) tới Đàng Ngoài (1627), thì ngôn ngữ Tin Mừng cũng mang “dáng đứng Việt Nam”, cũng được chuyển tải, diễn đạt, cử hành bằng cái “tiếng” nói mang đầy nhạc tính, bằng những âm giọng của “giọt đàn bầu”, của “giọng ca dao”, của “tiếng mẹ ru con”…; của một thứ tiếng nói với đầy đủ sáu âm giọng “sắc, hỏi, không, huyền ngã, nặng” dễ gì gặp được nơi các dân tộc khác; với ba âm sắc vui, thương, mừng diễn đạt ba chiều kích tâm lý, nội tâm cốt lỏi của mỗi một con người: bừng sáng tin yêu (vui), đau buồn khốn khó (thương); mừng rỡ hân hoan (mừng)…
Chắc chắn đã có không ít các nhà chuyên môn nghiên cứu về âm nhạc dân tộc, về ngôn ngữ học Việt Nam, về chữ Quốc ngữ…; riêng lãnh vực “lịch sử kinh nguyện Công Giáo” thì gần như chưa có một nghiên cứu chuyên đề nào xuất hiện. Trong giới nghiên cứu hiện nay, thì mới đây, năm 2004, có tác phẩm “Lời Kinh và Ý Nghĩa” của nữ tu Marie Thérèse Bùi Thị Minh Thùy, tập chú vào việc “giải nghĩa các từ cổ” trong Sách Kinh của các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội[2]. Riêng tại Đàng Trong-Qui Nhơn, có một tác giả linh mục, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu… được nhắc đến đó là cha Pierre Trần Lục, người đóng vai trò không nhỏ trong việc nhuận chính và soạn tác các kinh nguyện của giáo phận Qui Nhơn[3].
Ở đây, chỉ xin tản mạn một khía cạnh nhỏ về “giọng đọc kinh giáo phận Qui Nhơn” để: một phần nhắc nhở thế hệ cháu con thái độ “uống nước nhớ nguồn” khi trân trọng những nét đẹp của những lời kinh xưa mà cha ông đã soạn tác và biết bao thế hệ đã ứng dụng thực hành đức tin; một phần để vận dụng những giá trị tối ưu kho tàng đức tin phong phú đó vào lãnh vực kinh nguyện và phụng vụ của thời hôm nay như một ứng xử khôn ngoan mang tính “thừa thượng tiếp hạ”.
- ĐÀNG TRONG – QUI NHƠN MỘT THỜI MỞ CÕI
- Cội nguồn Quốc ngữ và kinh nguyện Qui Nhơn
Có một điều không thể chối cải là trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ đã dần dần được thuyết phục chấp nhận địa chỉ Nước Mặn thuộc giáo phận Qui Nhơn hiện nay chính là “một trong những “cái nôi hình thành chữ Quốc ngữ”; và được coi là “cái nôi sớm nhất”[4]. Thật vậy, theo báo cáo của các linh mục thừa sai Dòng Tên thì cư sở Nước Mặn chính là “cư sở chính thức đầu tiên” của Dòng Tên được thiết lập ngay từ năm 1618[5]; nghĩa là sau 3 năm lần đầu tiên đặt chân lên vùng đất Đàng Trong. Và đây cũng là ngôi trường đầu tiên đã được các thừa sai thiết lập để học và nghiên cứu tiếng Việt mà các “học viên” nơi “ngôi trường làng đặc biệt” đó, sau nầy đều là những tên tuổi lừng danh góp phần vào việc hình thành chữ Quốc ngữ trong giai đoạn nền móng ban đầu hay phát triển nền văn hóa Hán Nôm: Buzomi, Cristofo Borri, Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, Gaspar Luis, Antonio de Fontes , Emmanuel Borges, Giovanni di Leira, Gaspar Luis, Girolamo Majorica …[6].
Phải chăng vì yếu tố “địa phương” nầy mà “phương ngữ Qui Nhơn-Bình Định hay “Bình Định-Phú Yên” đã chiếm một vị trí nhất định trong các tác phẩm tự vị Quốc ngữ đầu tiên như Tự điển Việt-Bồ-La của cha Đắc Lộ (1951), tự điển Anamitico-Latinum của Đức Cha Bá Đa Lộc (1773), tự điển Anamitico-Latinum (1838) của Đức cha Tabert[7].
- Khái quát về Kinh nguyện Qui Nhơn và cung giọng Qui Nhơn
2.1. Kinh nguyện Qui Nhơn và địa bàn mục vụ:
Kể từ năm 1850, với sắc lệnh Postulat Apostolici của Đức Giáo Hoàng Pio IX ban hành ngày 27.8.1850, giáo phận Đông Đàng Trong (Cho tới năm 1924 Tòa Thánh đổi tên thành giáo phận Qui Nhơn) bao gồm 6 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận và vùng Tây nguyên[8]. Nếu xét về mặc ngữ âm, có thể nói dân của miền 6 tỉnh nầy tương đối gần nhau; tuy rằng cách phát âm có một số dị biệt (chẳng hạn cách phát phát âm của dân Quảng Nam và Quảng Ngãi). Chính vì yếu tố mang tính “địa bàn mục vụ” nầy mà hệ thống kinh nguyện của giáo phận Qui Nhơn đã chi phối trên các cộng đoàn giáo xứ từ Quảng Nam tới Bình Thuận và suốt mấy tỉnh Tây nguyên[9]. Bằng chứng cụ thể của sự “thống nhất kinh nguyện” nầy chính là hai cuốn sách Kinh: Sách Kinh nguyện ngày thường và ngày Chúa Nhật (1925) và Sách Mục Lục (1931) được in tại nhà in Làng Sông và phổ biến trên toàn giáo phận[10].
Lịch sử cho thấy, vùng đất Qui Nhơn từ thế kỷ 15, đúng hơn từ năm 1471 trở về trước, là lãnh địa của người Champa; và sau “chiến dịch Đồ Bàn 1471 của vua Lê Thánh Tôn”[11] mới thuộc Đại Việt. Phải chăng vì thế mà ngữ âm của người dân thuộc miền nầy là sự pha trộn nhất định của dân Champa bản địa và lưu dân Đại Việt từ Bắc vào. Chính sự “lai tạp ngôn ngữ” mang tính chiến tranh, di dân trôi nổi và phiêu lưu đi tìm đất mới, đã khiến tiếng nói của dân “miền Trung và Nam Trung bộ” nầy mang âm sắc thoải mái, giản đơn, không cầu kỳ nghi lễ. Chính vì thế, tiếng của vùng nầy chỉ có “5 dấu: sắc, hỏi, không, huyền, nặng; mà không có dấu “ngã” như người dân Bắc Kỳ.
Tuy nhiên, nhờ nền tảng “Quốc ngữ Latin” được phổ biến sớm từ trung tâm Nước Mặn nên các vị tiền nhân đã soạn tác Kinh nguyện bằng chữ Quốc ngữ khá sớm và cũng khá chuẩn. Xin nhường việc phân tích mang tính chuyên đề về ngữ học cho các nhà chuyên môn. Ở đây, chỉ xin dừng lại một cách khái quát về ba cung giọng chính trong các kinh nguyện của giáo phận Qui Nhơn. Đó là ba cung giọng Vui, Thương, Mừng.
2.2. Kinh nguyện, phụng vụ và mầu nhiệm đức tin:
Kinh nguyện của Hội Thánh Công Giáo thường chuyên chở hai ý nghĩa: một là: Kinh để biểu lộ đức tin như một lời tuyên tín, như một ghi khắc các chân lý, các tín điều… (Có người đặt tên cho loại kinh nầy là “Kinh Bổn”) như kinh Tin Kính, Kinh Tin, Cậy, Mến, Kinh Ngày Chúa Nhật…; hai là: Kinh để bày tỏ tâm tình cầu nguyện với Chúa, thân thưa nguyện xin, cảm tạ, tôn vinh (Người ta đặt tên cho loại kinh nguyện nầy là “Kinh Nguyện”). Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, Ăn năn tội, kinh Cảm ơn… Cùng với hai ý nghĩa trọng tâm “mang tính chủ đích” đó, các kinh nguyện hầu hết là để nhắc nhớ các mầu nhiệm đức tin: Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, mầu nhiệm Ngôi hai chịu chết và sống lại, mầu nhiệm Đức Mẹ, Các Thánh, các mùa Phụng vụ, Bí tích Thánh Thể, Thánh Tâm Chúa Giêsu, Cầu hồn…; hay các dịp đặc biệt và các nhu cầu trong Hội Thánh: Kinh Năm Toàn Xá, Kinh cầu mùa…
Hội Thánh với kho tàng kinh nguyện phong phú suốt 2000 năm đã lưu truyền rất nhiều kinh nguyện truyền thống từ đời nầy qua đời khác như những “di chúc tinh thần” cao quý. Cha ông chúng ta, từ khi các thừa sai mang hạt giống Tin Mừng vào mảnh đất “hình chữ S” nầy, đã dần dần được tiếp cận với kho tàng kinh nguyện truyền thống của Mẹ Giáo Hội, hoặc bằng các bản dịch Hán Nôm, nhất là sau nầy, bằng chữ Quốc ngữ, hoặc được chính các ngài soạn tác.
Có một điều thật may mắn đó chính là khi chân lý đức tin hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam đã mang lấy những đặc tính độc đáo của người Việt; trong đó, ngôn ngữ, giọng nói chính là yếu tố quan trọng. Vâng, tiếng Việt chuyển tải ý nghĩa các mầu nhiệm đức tin không chỉ bằng “mặt chữ” mà còn bằng âm giọng; vận dụng âm giọng của tiếng Việt để soạn, dịch kinh đó chính là một lựa chọn đầy thông minh và hợp lý của cha ông chúng ta.
- VUI, THƯƠNG, MỪNG VÀ MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
Trong kiến thức hạn chế về lãnh vực âm nhạc, tôi láng máng hiểu rằng, trong kết cấu âm giai (gamme) hay điệu thức (mode) của hệ thống âm nhạc thế giới (cả hệ thống Thất cung – Heptatonic lẫn hệ thống Ngũ cung – Pentatonic), thức “trưởng” (Majeur) hay “thứ” (Mineur) chính là tố chất định hình nền tảng của mỗi giai điệu hay của cả bài ca, khúc nhạc.
Thông thường, một bài ca, khúc nhạc được kết cấu, xây dựng và phát triển trên cái nền điệu thức trưởng thì đều mang âm sắc vui tươi, trong sang, hoan hỉ vui mừng… Trong khi đó, đa phần, các bài ca, khúc nhạc được viết trên nền điệu thức thứ thường mang âm sắc man mác buồn, day dứt… Dĩ nhiên, vẫn có những “ngoại lệ”.
Chung chung, kinh nguyện thuộc giáo phận Qui Nhơn (ít ra, kể từ năm 1924), gần như cũng phản ảnh quy luật nền tảng đó. Các kinh nguyện liên quan đến các mầu nhiệm mang chiều kích vui (Giáng Sinh, Nhập Thể…) hay mừng (Phục Sinh, Thăng Thiên…) thì được cha ông ta soạn tác với các ngữ âm trên nền nhạc điệu thức trưởng (majeur) theo kết cấu của âm nhạc (thất cung hay ngũ cung); một cái “chất trưởng” với kết cấu âm giai và cung thể cao, bừng sáng, tươi tắn, vươn cao hay tỏa sáng với niềm vui thánh thiện, mừng vui tôn quý… Trong khi đó, mầu nhiệm Thương Khó, Khổ nạn…, hay những gì liên quan đến sám hối, hy sinh, chết chóc, đau khổ… thì kinh nguyện chọn lựa điệu thức thứ (mineur) với âm sắc buồn, trầm lắng, day dứt. Rất tiếc, thế hệ giáo dân Qui Nhơn trẻ hôm nay, gần như xa lạ hoặc không biết gì về cung giọng kinh nguyện truyền thống của bao thế hệ cha ông. Họ đọc kinh Truyền Tin, lần hạt Năm sự Vui, Thương, Mừng ngang ngang như nhau; chẳng phân biệt thế nào là “vui”, thế nào là “thương”, thế nào là “mừng”…
Sau đây, xin mạo muội trình bày đôi nét về những nét độc đáo của các cung giọng Vui, Thương, Mừng và một số các cung giọng đặc biệt của làng kinh nguyện Qui Nhơn.
- Kinh nguyện “mùa Vui”:
Sau đây, xin đơn cử hai kinh nguyện thuộc cung vui: Kinh suy niệm Mân Côi gẫm tắt Năm Sự Vui (Rê trưởng) và kinh kính nhớ mầu nhiệm Nhập thể -Giáng Sinh Truyền Tin (Si giáng trưởng):
Khi đọc kinh Truyền Tin và suy niệm mầu nhiệm Năm Sự Vui với đúng cung giọng “vui” như cha ông ta đã soạn tác và bao thế hệ tín hữu Qui Nhơn đã thực hành qua bao năm tháng, chúng ta sẽ cảm nhận được chiều kích bừng sáng tin yêu của mầu nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh, của sứ điệp “Tin Mừng vĩ đại” mà các thiên sứ đã báo cho các mục đồng thành Bê lem (Lc 2,8-14), của niềm vui rạng rỡ thánh thiện trong tâm hồn và trên môi miệng của Mẹ Maria, của bà thánh Isave, mà kinh Magnificat mãi mãi là một chứng từ đi cùng năm tháng !
Có rất nhiều kinh khác có thể xếp vào nhóm “vui” nầy; và cũng được soạn tác ngữ âm trên nền điệu thức trưởng; chẳng hạn như kinh Kính Mừng, kinh Tin Kính, các kinh Tin, Cậy, Mến; kinh cầu Đức Mẹ, kinh Linh hồn tôi tán tụng (Magnificat), kinh Thân lạy ông Thánh Giuse… Những ai là giáo dân Qui Nhơn thuộc thế hệ “U Tám mươi” trở về trước, nhất là thuộc các giáo xứ truyền thống, thuần dân địa phương…, hầu chắc còn đọc đúng cung giọng “vui” khi thể hiện các kinh nguyện nầy.
- Kinh nguyện “Mùa Thương”.
2.1. Giọng thương và điệu thức “thứ” phổ thông:
Trong hệ thống “Ngủ Cung” của nhạc cố Trung Hoa hay Việt Nam, căn bản gồm các cung giọng: CUNG, THƯƠNG, GIỐC, CHỦY, VŨ (tương ứng: ĐÔ, RÊ, FA, SOL, LA). Trong đó, cung “Thương” có đặc tính âm điệu: “thuộc Kim, u buồn nặng nề, không bị bẻ cong. Loại âm nhạc này ảnh hưởng phổi (phế) nếu nghe thường xuyên thì người ta sẽ trở nên chân chính và thân thiện…”[12].
Phải chăng cha ông ta khi soạn hoặc dịch kinh nguyện sang Quốc ngữ sẽ chọn cung THƯƠNG để chuyển tải ý nghĩa liên quan đến mầu nhiệm Thương Khó, Khổ nạn, tâm tình thống hối ăn năn hay những dịp đau buồn tang chế. Để diễn tả âm sắc buồn của cung “Thương” không gì thích hợp với nền nhạc Tây phương cho bằng âm giai mang điệu thức thứ (mineur).
Sau đây xin đan cử hai Kinh “Năm sự Thương” và kinh “Ăn năn tội” với âm giai điệu thức thứ (La mineur).
Riêng kinh “Ca vịnh 129 vua Đa-vít”, một giọng “Thương” tiêu biểu lại được xây dựng trên nền cung FA thứ”
2.2. Những giọng kinh thương đặc biệt:
Những kinh giọng “Thương” phổ thông theo điệu thức thứ như phân tích ở trên trong sách Mục Lục Qui Nhơn thì nhiều lắm; nhất là những kinh đọc trong Mùa Chay và Mùa Thương Khó; nói chung, những kinh liên quan đến mầu nhiệm Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô như: Kinh Gẫm Đàng Thánh giá, kinh Mười Lăm sự Thương Khó, Kinh Bảy sự thương khó Đức Mẹ, Kinh Năm Dấu Thánh…
Tuy nhiên, có những kinh giọng thương đặc biệt và thường là được thể hiện trong những thời điểm phụng vụ đặc biệt, như Mùa Chay, Tuần Thánh.
2.2.1. Mùa Chay với kinh Hồng Ân:
Kinh “HỒNG ÂN” là một kinh với giọng “thương” độc đáo được đọc khi phụng vụ bước vào Mùa Chay Thánh; đây có thể nói được là cả một “bài ca đi cùng năm tháng” trong sinh hoạt đức tin của Dân Chúa. Riêng cách thể hiện kinh nầy cũng độc đáo: vừa đồng diễn (phần đầu dành cho toàn thể cộng đoàn) vừa xướng đáp (phần giữa một người xướng và cộng đoàn đáp), phần cuối cộng đoàn chung nguyện. Về âm giọng thì kinh Hồng Ân mang một âm sắc rất riêng; gần như có sự pha trộn giữa chất dân ca Huế vừa phảng phất chất dân ca bài chòi Nam Trung Bộ nhưng được cải biên theo giọng kinh cung thương của nhà đạo.
Xin giới thiệu Kinh Hồng Ân được xây dựng trên nền cung MI THỨ với ba đoạn: Đoạn đầu cả cộng đoàn đọc chung; đoạn giữa một người xướng và cộng đoàn đáp câu chung (theo cách xướng đáp của lời nguyện tín hữu); và đoạn cuối là lời nguyện kết dành cho cả cộng đoàn. Nền nhạc của đoàn đầu và đoạn giữa giống nhau; và là cung giọng đặc biệt của kinh Hồng Ân. Đoạn cuối trở về giọng thương phổ thông như đã phân tích ở trên và được xây dựng trên nền cung LA THỨ.
2.2.2. Tuần Thánh và Kinh Lễ Đèn:
Trong Phụng vụ của Hội Thánh, nếu thời gian “Tuần Thánh” là tuần cao điểm của Năm Phụng vụ, là thời gian đỉnh điểm của việc cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua[13], thì ngoài các cử hành Phụng vụ truyền thống đầy trang trọng, nhất là cử hành Tam Nhật Thánh, tuần lễ nầy còn được ghi đậm dấu ấn của lòng đạo đức bình dân thông qua những cử hành suy niệm đặc biệt, trong đó có việc cộng đoàn họp nhau tại nhà thờ để “Suy gẫm Mười Lăm Sự Thương Khó” mà giáo phận Qui Nhơn gọi là giờ “Kinh Lễ Đèn”[14].
Việc “than Kinh Lễ Đèn” của giáo phận Qui Nhơn xem ra đơn giản hơn các giáo phận vùng phía Bắc, xét về mặt cung giọng kinh sách và cách thế thể hiện.
Ỏ đây, xin đơn cử giọng kinh Lễ Đèn với hai giọng tiêu biểu: Giọng kinh gợi nhớ hay “kể” lại “sự kiện” Mười Lăm sự Thương Khó (gọi chung là “cung kể”) và giọng kinh suy niệm mang tính chủ quan, cá nhân sau khi đọc các gợi ý suy niệm Sự Thương Khó (gọi chung là “cung than”).
Giọng “cung kể” thì đọc chậm rãi theo cung “thương” phổ thông trên nền tảng cung thể La Thứ. Các phân câu, mệnh đề cần được phân biệt rõ rang, mạch lạc qua “dấu nghỉ”.
Xin đan cử một đoạn “kinh kể” tiêu biểu:
Trong khi đó kinh “cung than” sau phần lược kể Tin Mừng lại mang tính “tự sự”, than than trách phận, sám hối tội lỗi và thái độ khuất phục trước uy linh Chúa để trông cậy vào lòng Chúa khoan dung. Cung than tương đối khó và ngày nay, chỉ các bậc cao niên, từng được trui rèn trong cái nôi truyền thống cố cựu của Qui Nhơn mới may ra còn than đúng cách. Ở đây, chỉ mạo muội ghi lại cách đan thanh một đoạn tiêu biểu của “kinh than ngày Lễ Đèn nhứt” trên nền cung thể RÊ THỨ (chủ yếu ngũ cung):
Kinh giọng thương còn rất nhiều thể thức đa dạng khác. Đây chỉ là một vài gợi ý để những ai chuyên môn và có kinh nghiệm về cung giọng kinh Qui Nhơn sẽ bổ túc thêm.
- Kinh nguyện mùa “Mừng”:
Trong nhịp sống đức tin của Giáo Hội Công Giáo, chiều kích “mừng vui hoan hỉ” luôn chiếm một vị trí ưu tiên; đến đổi vị Tôi Tớ Chúa, Đức cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận, đã từng phát biểu: “Trong tự điển của người Công Giáo không có từ “buồn” ! Và khi nói đến “mừng vui” thì phải nhắc đến hai từ “Phục Sinh”; lễ Phục Sinh là đại lễ của vui mừng và “nỗi mừng Phục Sinh” là nỗi mừng trọn hảo nhất mà bài ca “Exultet” (Mừng Vui Lên) vang lên trong nghi thức khai mạc Đêm Vọng Phục Sinh là một chứng từ rõ nét !
Ngoài những kinh nguyện thuộc giọng “Vui” và “Thương” như chúng ta vừa đề cập đến, kinh nguyện Qui Nhơn còn một giọng thứ ba cũng độc đáo không kém; đó là kinh nguyện với cung giọng “Mừng”, một cung giọng diễn tả đầy ắp cái chất “Phục sinh” mà Phụng vụ cũng như mọi linh đạo của Hội Thánh luôn đề cao như là “hòn đá tảng” của đức tin Kitô.
Như đã nói ngay từ đầu, âm nhạc Tây phương lẫn Đông phương luôn mặc nhiên coi âm giai với điệu thức “Trưởng” là cái nền để xây dựng âm sắc mang chiều vui mừng, hoan hỉ.
Xin được đan cử hai kinh nguyện tiêu biểu mang cung “Mừng” đó là Kinh “Lạy Nữ Vương Thiên đàng” và kinh mầu nhiệm Mân Côi gẫm tắt Năm sự mừng được soạn tác theo điệu thức trưởng của âm giai ngũ cung: ĐÔ RÊ MI SOL LA ĐÔ…
Đại khái kinh giọng “Mừng” là như thế; và có rất nhiều kinh được xây dựng trên nền âm sắc mừng đó như các kinh thuộc mùa Phục Sinh, Kinh cầu Đức Bà, kinh Thân lạy Thánh Giuse, Kinh Nghĩa Đức Tin, Mười Điều răn, Sáu điều răn Hội Thánh… Có thể được thay đổi về luyến láy, nhấn nhả…, nhưng cái “chất mừng” căn bản âm vang na ná nhau.
- Những kinh giọng đặc biệt:
Ngoài ba giọng kinh “Vui, Thương, Mừng” cơ bản đó, các kinh nguyện thuộc địa phận Qui Nhơn còn nhiều thể loại tế vi khác mà khả năng hạn chế về “âm học”, “ngữ học” hay “nhạc lý” không cho phép được giải thích nhiều hơn. Nhưng, đặc biệt, không thể không nhắc đến các loại “Kinh Chầu”; tức những kinh tập trung hướng về một “đối tượng thánh” để giúp cộng đoàn khi đọc lên là để nuôi giữ tâm tình suy niệm, cầu nguyện sốt sắng. Trong số đó có những kinh về Chúa như Kinh “Lễ Đức Chúa Giêsu Thăng Thiên”, kinh “Kính Nguyện Chúa Thánh Thần”, các kinh Chầu Giờ Thánh hay Phép lành: Kinh “Ớ lưỡi phải ngợi khen”, “Ớ Núi thánh Sion”, Kinh Phạt Tạ, kinh Đền tạ Thánh Tâm…
Đặc biệt, những kinh loại nầy, khi đọc có thêm âm nhấn nhá “ớ” nhịp đều sau từng tiếng, hơi giống cách nhấn nhá của cách tụng kinh nhà Phật theo giọng gõ mõ !
Xin đan cử một đoạn trong kinh “Kính nguyện Đức Chúa Thánh Thần” như một giọng tiêu biểu của cung kinh đặc biệt này:
Kết: Kinh nguyện và đức tin truyền thống
Dĩ nhiên, ngoài chất giọng, âm sắc sẵn có của tiếng Việt, các tác giả soạn kinh, dịch kinh chắc chắn phải nắm vững quy luật ngữ âm, chọn lựa thanh điệu phù hợp trong kết cấu câu chữ để lời kinh vừa phù hợp ý nghĩa mầu nhiệm diễn tả vừa ăn khớp với ngữ âm thể hiện. Quả thật, kho tàng kinh nguyện mà chúng ta được thừa hưởng từ công khó và tài hoa của cha ông thật là vĩ đại. Cảm ơn các ngài đã để lại cho chúng ta kho tàng kinh nguyện vô giá.
Điều còn lại đó là chúng ta trân trọng và biết sử dụng đúng cách, đúng bài gia tài thiêng liêng cao quý nầy. Nói nôm na, đó là cần đọc kinh cho đúng cung, đúng giọng. Những kinh thuộc “Mùa Vui” mà đọc theo giọng “Thương khó” thì ai chịu cho được. Cũng vậy, ở giữa Tuần Thánh, khi gẫm đàng Thánh Giá mà lại đọc giọng vui sang sảng thì chỉ để “tấu hài” chứ suy niệm gì nỗi ! Riêng, mầu nhiệm Phục Sinh, niềm vui Chúa sống lại phải được lan tỏa, tràn ngập cuộc sống của người Kitô hữu; không phải qua quất cho xong, mà phải thấm nhuần trong từng lời kinh câu hát mỗi ngày.
Chính vì thế, khi mỗi người, mỗi cộng đoàn cùng ý thức vẽ đẹp và ý nghĩa của từng lời kinh và đọc suy niệm theo đúng cung giọng, chắc chắn sẽ là cách diễn tả đức tin truyền thống đẹp nhất, căn bản nhất; và cũng là cách thế để chúng ta sống mầu nhiệm cứu độ, mầu nhiệm đức tin cách trọn hảo.
Trương Đình Hiền (Viết xong ngày 20 tháng Chạp Tân Sửu)
[1] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, nxb Hồng Đức 2020, tr. 84-85.
[2] NT. MARIE THERESE BÙI THỊ MINH THÙY, OP, Lời kinh & Ý nghĩa, Giải thích các từ cổ trong các kinh, nxb An Tôn & Đuốc sáng 2004, Lời nói đầu, tr. 9.
[3] CHÂU YẾN LOAN, Chữ Quốc ngữ năm 1906 ở Bình Định qua tác phẩm Ấu học của Pierre Lục, Kỷ yếu hội thảo, nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016, tr. 476: Pierre Trần Lục là một Linh mục, nhà Giáo dục, nhà Văn thời chữ Quốc ngữ mới phổ biến đầu thế kỷ XX. Ông ra đời năm 1868 tại thôn Tùng Sơn, địa phận Phú Thượng, xã Hòa Sơn, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 13km. Thuở nhỏ ông rất thông minh, lanh lợi nên năm 13 tuổi được vào học trường La Tinh tại Làng Sông – Qui Nhơn. Năm 1885, trường Làng Sông bị phong trào Văn Thân phá hủy, ông được chọn gởi sang học ở Pinang. Năm 1889 ông trở về Việt Nam đi giảng đạo tại Phan Rang, dạy tiếng tại Phan Thiết. Năm 1892 về học Lý đoán tại Làng Sông. Năm 1898 được phong Linh mục. Năm 1904 ông làm việc tại nhà in Làng Sông đến năm 1906. Tại đây ông đã viết sách Ấu học, Trung học. Năm 1911-1914 trở vô Làng Sông dạy Quốc văn và giúp việc cho tòa Giám mục. Ông mất khuya ngày 23/12/1927 tại bệnh viện Qui Nhơn, an táng tại Làng Sông. Linh mục Pierre Trần Lục là người thông minh, cương trực, có tài văn chương, giàu lòng thương người. Ông còn để lại các sách: Ấu học, Trung học, Thánh giáo tự lễ, tiểu thuyết Song nghĩa tự, Đồ của Hời, Hai chị em lưu lạc, cùng nhiều sách nhỏ về đạo lý luân thường, ông đã đặt nhiều kinh văn dễ đọc, dễ hát trong những ngày lễ”. website https://vannghedanang.org.vn/pierre-tran-luc-nguoi-da-nang-viet-sach-giao-duc-bang-chuquoc-ngu-dau-tien-cua-nuoc-ta-chau-yen-loan-6231.html, đăng ngày 8.7.2016.
[4] GS. PHAN HUY LÊ, Tổng kết hội thảo khoa học “Bình Định với chữ Quốc ngữ”, Kỷ yếu hội thảo, sđd, tr. 717: “Trên quan niệm như vậy, tôi nghĩ rằng trong buổi đầu, nhiều giáo sĩ Dòng Tên, đi tiên phong là người Bồ, người Ý, đã tham gia vào quá trình Latin hóa chữ viết của người Việt, để lại những chữ Quốc ngữ đầu tiên. Ba trung tâm đã góp phần vào quá trình này là Nước Mặn, Hội An, Dinh Chiêm với tên tuổi của Cristoforo Borri, Francisco de Pina trong những năm 1618-1623 rồi tiếp theo là Alexandre de Rhodes, Gaspar Luis, Antonio de Fontes những năm 1625-1626. Có thể coi đó là ba dòng suối đầu tiên tạo nên dòng sông chữ Quốc ngữ. Nếu xem xét sâu hơn về những chứng cứ văn bản có chữ Quốc ngữ thì trong ba trung tâm đó, trung tâm Nước Mặn có phần sớm hơn với sự hiện diện của chữ Quốc ngữ trong cuốn sách của Borri năm viết 1621 và xuất bản lần đầu năm 1631…”.
[5] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, nxb An Tôn & Đuốc Sáng, đăng ký Bản quyền tại Hoa Kỳ tháng 06.2017, tr. 48-55.
[6] GS. PHAN HUY LÊ, sđd, tr. 616: “Nước Mặn cũng là trung tâm học tiếng Việt hình thành rất sơm ở Đàng Trong. Năm 1622 giáo sĩ Emmanuel Borges, Giovanni di Leira, rồi năm 1624, giáo sĩ Gaspar Luis, Girolamo Majorica đều đến Nước Mặn học tiếng Việt”.
[7] TS. NGUYỄN NGỌC OANH, PGS, TS. NGUYỄN CÔNG ĐỨC, Một vài chỉ dấu của phương ngữ Bình Định – Nam Trung bộ trong tự điển Việt –Bồ – La của Alexander de Rhodes, Kỷ yếu hội thảo, sđd, tr. 467-474.
[8] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 210.
[9] Hai giáo phận “Tây Đàng Trong” và “Bắc Đàng Trong” vì cùng xuất phát từ giáo phận Đàng Trong nên kinh sách của hai giáo phận nầy (và của các giáo phận sau nầy tách ra từ đó) cũng có nhiều điểm tương đồng với giáo phận Qui Nhơn.
[10] PHAOLÔ NGUYỄN MINH CHÍNH, Sách Nhà in Làng Sông Qui Nhơn, website Giáo phận Qui Nhơn, link: Sách Nhà in Làng Sông và Qui Nhơn (gpquinhon.org), đăng ngày 17/7/2021.
[12] BIÊN KHẢO: GIÒNG BÁCH VIỆT, Ngũ cung Việt nam trong hệ thống nhạc lý, website Microsoft Word – Tìm Hiểu về Ngũ Cung VN.doc (wordpress.com).
[13] SÁCH LỄ RÔMA: “Tam Nhật Vượt Qua kính nhớ Chúa chịu nạn và Sống lại là điểm cao chói lọi của Năm Phụng Vụ”.
[14] SÁCH KINH LỚN ĐỊA PHẬN QUI NHƠN, Năm 1958, Phép lần hột ba ngày lễ Đèn, tr. 262.
2022
Xin cho biết tiêu chuẩn chọn Bài đọc cho lễ một vị Thánh
Xin cho biết tiêu chuẩn chọn Bài đọc cho lễ một vị Thánh
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Đâu là phương pháp của việc chọn các bài đọc Thánh lễ cho các ngày trong tuần và cuối tuần? Liệu là đúng để sử dụng các bài đọc trong Sách Bài Đọc, được thiết lập cho ngày lễ một vị thánh, hoặc chỉ dùng các bài đọc tiêu biểu cho ngày lễ? Nghĩa là, liệu các bài đọc dành cho lễ thánh Maria Goretti (5-7) được sử dụng, chẳng hạn, thay vì dùng bài đọc của ngày thứ Hai của tuần thứ 14 Mùa Thường Niên, nếu Sách Lịch không liệt kê các bài đọc riêng cho lễ vị Thánh? Tôi nghe một chủng sinh nói rằng chỉ có các bài đọc “được duyệt” trong Sách Lịch mới có thể được sử dụng trong Thánh Lễ vào một ngày cụ thể, và rằng bởi vì chúng đi theo trật tự mỗi ngày, hoặc vì một chủ đề đặc biệt, chúng không thể thay đổi với các bài đọc của một ngày lễ vị Thánh, và rằng một Sách Bài Đọc mới hơn có thể không còn có các bài đọc đặc biệt cho ngày lễ một vị Thánh nữa. – T. G., Hartford, Connecticut, Mỹ.
Đáp: Đối với bài đọc ngày thường trong năm, có một nguyên tắc chung về việc đọc liên tục Kinh Thánh, vốn cho phép một số trường hợp ngoại lệ. Mục đích chung của sự sắp xếp này được giải thích trong tài liệu Dẫn nhập Sách Bài Đọc:
“60. Thứ tự hiện tại của các bài đọc cho Thánh Lễ là một sự sắp xếp các bài đọc Kinh Thánh, vốn cung cấp cho các tín hữu một kiến thức của toàn bộ lời Chúa, trong một mô hình phù hợp với mục đích. Trong suốt năm phụng vụ, nhưng nhất là trong mùa Phục Sinh, Mùa Chay, và Mùa Vọng, sự lựa chọn và thứ tự của các bài đọc là nhằm giúp các tín hữu của Đức Kitô một nhận thức ngày càng sâu hơn của đức tin, mà họ tuyên xưng và của lịch sử cứu độ. Theo đó, thứ tự của các bài đọc tương ứng với các yêu cầu và lợi ích của Kitô hữu”.
Về việc sắp xếp các bài đọc cho các ngày trong tuần và lễ các thánh, tài liệu này tiếp tục nói:
“69. Các bài đọc ngày trong tuần đã được sắp xếp theo cách sau đây.
“1. Mỗi Thánh Lễ có hai bài đọc: bài đọc thứ nhất là lấy từ Cựu Ước hay từ một vị Tông Đồ (nghĩa là, hoặc từ một thư hoặc từ Sách Khải Huyền), và trong mùa Phục Sinh, từ sách Công Vụ Tông Đồ; bài đọc thứ hai lấy từ các sách Tin Mừng.
“2. Chu kỳ hàng năm cho Mùa Chay có các nguyên tắc sắp xếp riêng, vốn có tính đến đặc điểm phép rửa và thống hối của mùa này.
“3. Chu kỳ cho các ngày trong tuần của Mùa Vọng, mùa Giáng sinh, và mùa Phục Sinh, cũng là hàng năm, và do đó các bài đọc vẫn như nhau mỗi năm.
“4. Đối với ba mươi bốn tuần của Mùa Thường Niên, các bài đọc Tin Mừng ngày thường được sắp xếp trong một chu trình đơn giản, được lặp lại mỗi năm. Tuy nhiên, bài đọc thứ nhất được sắp xếp trong một chu kỳ hai năm, và do đó được đọc mỗi hai năm một lần. Năm I được sử dụng trong các năm lẻ; và Năm II, trong các năm chẵn.
“Giống như thứ tự cho các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ, thứ tự các bài đọc ngày trong tuần được qui định bởi sự áp dụng tương tự của các nguyên tắc về sự hài hòa và việc đọc bán liên tục, đặc biệt là trong trường hợp của các mùa với đặc tính riêng của mùa.
“70. Hai loạt các bài đọc được cung cấp cho Thánh lễ các Thánh.
“1. Phần Riêng của các Thánh cung cấp loạt bài đầu tiên, cho lễ trọng, lễ kính, hoặc lễ nhớ, và đặc biệt khi có các bản văn thích hợp cho lễ này hoặc lễ kia. Tuy nhiên, đôi khi trong phần Riêng, có một quy chiếu đến bản văn thích hợp nhất trong phần Chung, như là bản văn được ưu tiên.
“2. Phần Chung của các Thánh cung cấp loạt thứ hai và mở rộng hơn của các bài đọc. Trước tiên, có các bài thích hợp cho các nhóm khác nhau của các thánh (tử đạo, mục tử, trinh nữ, …), sau đó có nhiều bản văn bàn về sự thánh thiện nói chung. Chúng có thể được tự do lựa chọn, bất cứ khi nào phần Chung được chỉ định như là nguồn cho sự lựa chọn các bài đọc.
“71. Như là trình tự của chúng, tất cả các bản văn trong phần này của thứ tự các bài đọc xuất hiện theo thứ tự, mà chúng được đọc trong Thánh Lễ. Vì thế các bản văn Cựu Ước được đọc trước, rồi đến thư các Tông đồ, sau đó là Thánh vịnh và câu đáp giữa các bài đọc, và cuối cùng là các bản văn từ Tin Mừng. Lý do của sự sắp xếp này là rằng, trừ khi có ghi chú thể khác, linh mục chủ tế có thể tùy ý chọn từ các bản văn đó, tùy theo nhu cầu mục vụ của cộng đoàn tham gia Thánh lễ ấy”.
Về các tiêu chuẩn sử dụng trong việc lựa chọn bài đọc thích hợp nhất, tài liệu Dẫn nhập Sách Bài Đọc nói:
“82. Sự sắp xếp các bài đọc ngày trong tuần cung cấp bản văn cho tất cả các ngày trong tuần suốt cả năm. Do đó, trong hầu hết các trường hợp, các bài đọc này phải được sử dụng vào các ngày được chỉ định, trừ khi một lễ trọng, lễ kính hoặc lễ nhớ với các bài đọc riêng diễn ra.
“Trong việc sử dụng thứ tự các bài đọc cho các ngày trong tuần, phải chú ý để xem liệu một bài đọc này hay bài đọc khác từ cùng sách trong Kinh thánh sẽ phải bị bỏ qua, vì một Thánh lễ nào đó diễn ra trong tuần. Với sự sắp xếp các bài đọc cho cả tuần cần được nhớ tới, linh mục trong trường hợp đó nên sắp xếp để bỏ qua các đoạn ít quan trọng hơn, hoặc kết hợp chúng một cách thích hợp nhất với các bài đọc khác, nếu chúng góp phần vào cái nhìn toàn thể của một chủ đề đặc biệt.
“5) Lễ các Thánh
“83. Khi chúng tồn tại, các bài đọc riêng được đưa ra cho lễ các Thánh, nghĩa là, các đoạn Kinh Thánh về vị Thánh hoặc mầu nhiệm mà Thánh lễ đang cử hành. Ngay cả trong trường hợp của một lễ nhớ, các bài đọc này phải chiếm chỗ của các bài đọc ngày trong tuần cho cùng ngày ấy. Thứ tự các bài đọc cần lưu ý rõ ràng cho mỗi trường hợp của các bài đọc riêng cho một lễ nhớ.
“Trong một số trường hợp, có các bài đọc được thích ứng, nghĩa là các bài đọc nêu bật một khía cạnh của đời sống thiêng liêng của vị Thánh hoặc việc làm của vị Thánh ấy. Việc sử dụng các bài đọc này dường như không ràng buộc, ngoại trừ vì các lý do mục vụ thuyết phục. Đối với phần lớn, các qui chiếu được đưa ra cho các bài đọc trong phần Chung, để tạo điều kiện dễ dàng cho sự lựa chọn. Nhưng đây là các gợi ý đơn thuần: thay vì một bài đọc được thích ứng hoặc một bài đọc đặc biệt được đề nghị từ phần Chung, bất kỳ bài đọc khác được nhắc đến từ phần Chung có thể được chọn.
“Sự quan tâm đầu tiên của một linh mục cử hành với một cộng đoàn là các lợi ích thiêng liêng của các tín hữu, và ngài phải cẩn thận không áp đặt sở thích cá nhân của mình trên họ. Trên hết, ngài sẽ đảm bảo không bỏ qua quá thường xuyên, hoặc không có lý do chính đáng, các bài đọc được chỉ định cho mỗi ngày trong Sách Bài Đọc ngày trong tuần: Giáo Hội mong muốn rằng một bàn tiệc xa hoa của lời Chúa được dọn ra trước mặt các tín hữu.
“Cũng có các bài đọc chung, nghĩa là, các bài đọc được đặt trong phần Chung, hoặc dành cho một nhóm các Thánh (tử đạo, trinh nữ, mục tử), hoặc cho các Thánh nói chung. Bởi vì trong các trường hợp này, nhiều bản văn được liệt kê cho cùng một việc đọc, nên linh mục có quyền chọn bài đọc nào thích hợp nhất cho người nghe.
“Trong tất cả lễ các Thánh, các bài đọc có thể được lấy, không chỉ từ phần Chung, mà các qui chiếu nêu rõ cho từng trường hợp, mà còn từ phần Chung của các Thánh Nam Nữ, khi có lý do đặc biệt để làm như vậy”.
Do đó, để tóm lược phần trên đây, chúng tôi có thể nói rằng Giáo Hội không thích làm gián đoạn quá thường xuyên việc đọc liên tục Kinh Thánh được đưa ra trong Thánh Lễ hàng ngày. Tuy nhiên, việc đọc liên tục này sẽ bị gián đoạn, bất cứ khi nào có các bài đọc riêng cho một ngày nhất định, chẳng hạn như lễ trọng, lễ kính và mỗt số lễ nhớ của các vị Thánh với các bài đọc riêng (chẳng hạn như các thánh được nhắc đến trong chính bài đọc, như thánh Maria Mađalêna).
Vào các ngày lễ nhớ khác, vốn không có các bài đọc buộc riêng, linh mục có thể lấy các bài đọc từ phần riêng của vị Thánh, hoặc từ phần Chung của các Thánh, nếu vì một lý do mục vụ chính đáng, ngài quyết định rằng cần đề cao một vị Thánh nào đó. Thí dụ, nếu một giáo xứ ở Mỹ, Úc hoặc Ý có một số đông tín hữu đến từ Philippines tham dự Thánh Lễ hàng ngày, linh mục có thể quyết định cử hành lễ thánh Lawrence Ruiz, vị tử đạo đầu tiên của đất nước họ (ngày 28-9), trong một đặc biệt bằng cách lấy các bài đọc từ phần Chung của các Thánh Tử Đạo.
Để trả lời câu hỏi của độc giả chúng tôi: Các bài đọc riêng cho thánh Maria Goretti có thể được sử dụng, nếu có một lý do mục vụ chính đáng để làm như vậy. Quyết định này là do vị chủ tế. Giáo Hội chỉ khuyến nghị rằng điều này không nên thực hiện cho mọi vị Thánh, để đừng làm gián đoạn chu kỳ bình thường quá thường xuyên. Thông tin được cung cấp bởi chủng sinh trên là không chính xác, và không thích hợp với các qui định đã nêu ở trên.
(Nguyễn Trọng Đa/ Zenit.org 15-9-2015)