2022
Thánh Kinh Hay Giáo Hội Có Thẩm Quyền Tối Thượng?
Thánh Kinh Hay Giáo Hội Có Thẩm Quyền Tối Thượng?
Martin Luther bắt đầu cuộc Cải Cách Tin Lành (vào thế kỷ 16) với khái niệm sola scripture (duy Thánh Kinh); xem Thánh Kinh có thẩm quyền tối thượng về những vấn đề mang tính giáo thuyết. Công đồng Tren-tô được triệu tập cùng thế kỷ này đã xác định một cách long trọng rằng: Giáo Hội, hay chính xác hơn, Huấn Quyền của Giáo Hội Công Giáo có tính tối thượng và chung cuộc- không phải bởi vì Giáo Hội là thượng cấp của Thánh Kinh, nhưng bởi vì toàn bộ mạc khải thánh, từ Thánh Kinh tới Thánh Truyền, được trao phó cho Giáo Hội để bảo vệ và diễn giải cách chính xác.
Không có nơi nào trong Thánh Kinh cho biết Chúa Giêsu nói là phải đọc, nhưng Ngài thường ra lệnh chúng ta nghe. Lời được viết ra không xuất hiện ngay lập tức; nhưng những lời nói và những lời không được viết ra đã có sau khi Chúa Giêsu thực hiện những phép lạ của Người. Matthêu 16, 18-19 là một đoạn trích nổi tiếng, ở đó Chúa Giêsu nói với Simon, “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Từ ngữ Hy Lạp ekklesia được dịch là “giáo hội.” Đoạn trích cho thấy rõ ràng rằng: Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập nên. Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, và Giáo Hội có quyền ràng buộc và “tháo cởi” trên trời cũng như dưới đất. Làm thế nào Lời Chúa có thể đi ngược lại với ý muốn của Ngài? Nếu chính Chúa Giêsu là Đấng đã thiết lập Giáo Hội và Ngài ban cho Giáo Hội thẩm quyền đầy đủ để dạy dỗ nhân danh Người, thì không có sự cạnh tranh nào giữa Thánh Kinh và Giáo Hội cũng như không có bất cứ sự đối nghịch nào giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 40.
2022
Tôi Nên Đọc Bản Thánh Kinh Nào?
Tôi Nên Đọc Bản Thánh Kinh Nào?
Người Kitô hữu Tin Lành muốn có một cuốn Thánh Kinh của Tin Lành, trong khi người Kitô hữu Công Giáo muốn có một cuốn Thánh Kinh của Công Giáo.
Tục ngữ Ý nói: “traduttorre traditore,” nghĩa là “dịch giả là kẻ phản bội.” Điều này có thể hiểu đơn giản như sau: bạn càng đi xa ngôn ngữ gốc của bản văn bao nhiêu, bạn càng dễ bị mắc sai lỗi bấy nhiêu. Chỉ có những bản văn gốc của các thánh ký được bảo đảm là linh hứng và không thể sai lầm. Nhưng nếu bạn không thể nói và chẳng có thể đọc được tiếng Hy Lạp, Do Thái hoặc Latin thì cách tốt nhất là sử dụng bản Thánh Kinh đã được dịch sang ngôn ngữ bản xứ của bạn. Những bản dịch có thể giúp ích nhưng cũng có thể gây trở ngại về một số phương diện nào đó.
Sự tương đương có tính uyển chuyển [hay năng động] và sự tương ứng về hình thức là hai phương pháp dịch bản văn thánh kinh từ ngôn ngữ gốc sang một ngôn ngữ bản địa. Sự tương đương có tính uyển chuyển nhấn mạnh vào điều tác giả muốn nói và có ý định nói, rồi sử dụng cách diễn đạt đương thời để trình bày chứ không dùng ngôn ngữ theo nguyên bản; mục đích là để độc giả đương thời có thể hiểu tốt hơn. Tiếng Hy Lạp cổ sử dụng cụm từ “en gastri echousa” (in utero habens trong tiếng Latin) vốn được tìm thấy trong Matthêu 1,18. Theo nghĩa đen, cụm từ này có nghĩa là “có ở trong bụng,” một số người ngày nay, cũng có thể hiểu cụm từ đó như vậy. Vì thế, kiểu dịch tương đương có tính uyển chuyển sử dụng một cách diễn đạt phù hợp để truyền tải sứ điệp tương tự; do vậy mà cụm từ “đã có thai” đã được sử dụng và có ý nghĩa hơn đối với chúng ta. Tiếng Do Thái cổ cũng không có hình thức so sánh hơn hay so sánh nhất. Tiếng Anh hiện đại có thể nói “yêu ít hơn” hoặc “yêu nhiều hơn,” nhưng tiếng Do Thái cổ chỉ có thể dùng một kỹ thuật của ngôn ngôn Sê-mit là lối nói cường điệu [hay phép ngoa dụ] mà thôi.
“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,26). Phải chăng Đức Giêsu có ý nói, theo nghĩa đen, chúng ta phải “ghét” cha mẹ của chúng ta? Liệu kiểu nói như thế không vi phạm đến những giới răn sao? Một lối dịch theo kiểu tương đương có tính uyển chuyển sẽ đọc cùng một trích đoạn ấy như sau: “Nếu ai đến với tôi mà yêu mến cha mẹ, vợ con, anh chị em và ngay cả mạng sống mình hơn yêu tôi, người ấy không thể là môn đệ tôi được.” Ở đây, ý nghĩa được diễn đạt là người tin phải yêu mến Chúa Giêsu hơn tình yêu mà người ấy dành cho cha mẹ, chứ không có ý nói người ấy phải ghét cha mẹ mình. Bản Thánh Kinh Giêrusalem cũng như của New English Bible (NEB) là những bản dịch theo kiểu tương đương có tính uyển chuyển.
Kiểu dịch tương ứng về hình thức không nhấn mạnh vào việc sử dụng các kiểu diễn đạt [hay cách dùng những thành ngữ]. Kiểu dịch này tìm dịch từng từ một, từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ hiện đại. Luca 21,2 là trích đoạn mô tả Chúa Giêsu thấy “một bà góa nghèo bỏ 2 đồng tiền nhỏ” vào trong thùng quyên góp. Từ “đồng tiền nhỏ” là leptos trong tiếng Hy Lạp; và lối dịch từ- sang- từ vẫn giữ nguyên điều đó. Lối dịch theo kiểu diễn tả đổi đồng tiền nhỏ (mite, leptos) thành xu (“penny”) hoặc đồng xu (“copper coin”). Các phiên bản Revised Standard Version, Catholic Edition (RSVCE), The Douay-Rheims, New American Bible (NAB), và King James Version (KJV) là những bản dịch theo kiểu tương ứng về hình thức.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 39-40.
2022
Những bài học Mùa Chay từ sự hoán cải của Thánh Phaolô
Những bài học Mùa Chay từ sự hoán cải của Thánh Phaolô
Chi tiết từ “Cuộc hoán cải trên đường đến Đamát” (1600-01) của Caravaggio
Douglas Bushman[1]
Trong vô số những bài học Mùa Chay có thể thu thập được từ việc suy ngẫm về sự hoán cải của Thánh Phaolô, và đặc biệt là hoa trái của sự hoán cải đó thể hiện trong giáo huấn của ngài, trước hết chúng ta hãy tập trung vào việc ngài nhận mình là người tội lỗi nhất trong số tất cả các tội nhân, và tiếp đến, với sự trợ giúp của truyền thống lớn lao trong Hội Thánh, chúng ta sẽ tập trung vào vị trí của đau khổ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và trong sự hoán cải không ngừng của đời sống Kitô hữu.
Ðức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. (1Tim 1, 15)
Thánh Phaolô không giới thiệu mọi khẳng định đức tin mà ngài đưa ra trong lá thư của mình bằng những lời lẽ trang trọng. Chúng được giới thiệu trước câu vừa được trích dẫn: “Ðây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: đó là Ðức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi” (1Tm 1, 15). Lời giới thiệu này là một bản tóm tắt hiểu ngầm về sứ mệnh của Đức Kitô và Phúc âm mà Thánh Phaolô đã được sai đi rao giảng. Bản tóm tắt này âm vang lời của chính Chúa Giêsu: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 17); “Tôi đến… để cứu thế gian” (Ga 12, 47).
Thánh Phaolô tuyên bố rằng mình là người tội lỗi nhất, người đứng đầu trong số những tội nhân, không chỉ 1 lần mà là 2 lần. Và với lời khẳng định lần thứ hai, ngài đưa ra lý do: “Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Ðức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1Tm 1, 16). Thánh Phaolô nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa khi đã chọn ngài, một kẻ bắt bớ Hội thánh của Đức Kitô, để rao truyền Tin Mừng cho dân Israel và các dân nước. Biết rằng người ta dễ bị cám dỗ nghĩ rằng mình không có hi vọng được tha thứ, ngài đưa ra một lập luận chặt chẽ: Nếu Thiên Chúa có thể tha thứ cho tôi, thì Ngài có thể tha thứ cho tất cả mọi người.
Không có tội lỗi nào tạo thành tội ác lớn đến mức vượt quá quyền năng tha thứ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô hẳn đã biết rằng hành động xưng thú tội lỗi đòi hỏi một mức độ sâu thẳm của sự khiêm nhường, nhưng người ta thường thích bận rộn với những bận tâm trần thế để tránh khoảnh khắc sự thật trong lương tâm. Hoặc, họ tự thuyết phục mình rằng họ sẽ giải quyết việc đó sau, nhưng đây là hành động trái ngược với sự khôn ngoan của Vua Đavít: “Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Người, các ngươi đừng cứng lòng” (Tv 95, 7–8).
Giả như đã có một cuộc tranh luận lớn tại một trong những trường đại học lớn của thế kỷ XIII, như Đại học Paris, để xem Thánh Phaolô và Thánh Phêrô trả lời ra sao câu hỏi: Ai là tội nhân lớn nhất? Chắc chắn, Thánh Phêrô là một trường hợp đáng quan tâm. Nhưng có lẽ trong quá trình tranh luận của các ngài, điều có thể xảy ra với cả hai vị là tội lỗi gắn liền với tội nhân đến nỗi bất cứ ai trực diện với nó mà không tự phụ hoặc tìm cách bào chữa, thì đều tuyên bố rằng mình là tội nhân lớn nhất. Chúng ta thường có khuynh hướng không cho người khác biết chi tiết nào đó, tưởng tượng ra bất kỳ tình huống giảm nhẹ nào có thể làm giảm khả năng chịu tội. Nhưng, khi trở về với chính mình, không có nơi nào để trốn. Trong lương tâm của mình, chúng ta minh bạch với bản thân, trần trụi và phơi bày trước sự thật là tại một thời điểm nhất định, đơn giản là tôi đã quyết định gạt Thiên Chúa và chân lý của Ngài sang một bên. Có điều gì đó mà tôi nhất định nghĩ, hoặc nói, hoặc làm, kể cả khi biết rằng điều đó là trái với luật của Chúa, tôi vẫn đã tiến tới.
Đây là điều mà Kinh thánh gọi là khinh dể, khinh miệt hoặc khinh thường lời của Thiên Chúa, như Nathan nói với Đavít: “Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Ðức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người?” (2Sm 12, 9). Trong mọi tội lỗi, đều có sự khinh miệt đối với lời của Thiên Chúa. Vì chúng ta biết những đòi hỏi cụ thể của lời Thiên Chúa qua sự phán quyết của lương tâm, nên trong mọi tội lỗi đều có hành động bạo lực chống lại chân lý theo sự phán quyết của lương tâm. Đây là lý do tại sao Giáo hội tông truyền hiểu sự cứu độ trong Đức Kitô như là hồng ân của một lương tâm được thanh tẩy bởi bửu huyết— nghĩa là tình yêu vượt qua — của Đức Kitô (Dt 9, 9. 14). Hồng ân này được ban tặng qua Bí tích Rửa tội (Dt 10, 20–22; 1Pr 3, 21).
Mùa Chay là mùa chuẩn bị cho Bí tích Rửa tội, và đối với những người đã được rửa tội, Mùa Chay là thời gian đào sâu các ân sủng của bí tích rửa tội qua việc xét mình, ăn năn và hoán cải. Bằng cách này, tất cả các thành viên của Giáo hội làm chứng cho lòng thương xót vượt trội của Thiên Chúa và tham gia vào sứ mệnh của Thánh Phaolô là làm chứng nhân cụ thể về mức độ của lòng thương xót, để những người khác có thể được củng cố trong hy vọng khi họ đối đầu với tội lỗi của chính mình. Dấu Thánh Giá trên trán vào Thứ Tư Lễ Tro có ý nghĩa và mạnh mẽ biết bao đối với một thế giới bị đánh dấu bằng việc đánh mất cảm thức về tội lỗi và lương tâm, và do đó bị giam cầm trong tuyệt vọng!
Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta. (Cv 9, 16)
Thiên Chúa nói những lời trên với Khanania, người mà Ngài đã chọn để làm phép rửa cho Phaolô. Khanania đắn đo suy nghĩ, khi thông báo cho Đức Chúa (như thể Ngài cần được thông báo!) về “tất cả những điều ác người ấy đã làm cho các thánh của Chúa tại Giêrusalem” (Cv 9, 13). Chúa trấn an Khanania rằng tất cả đều theo kế hoạch của Ngài: “Cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Israel. Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta” (Cv 9, 15–16).
Thật vậy, Thánh Phaolô ý thức sâu sắc về vị trí của đau khổ và sự chết trong kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng nhận thức này chỉ đến sau khi tâm trí ông được đổi mới (Rm 12, 2; Ep 4, 23) bằng đức tin vào Đức Kitô, vào sứ mệnh của Ngài là cứu độ tội nhân, và vào sự phục sinh của Ngài. Khi bắt bớ các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô, Saulo, một người biệt phái, cho thấy ông quyết liệt chống lại bất kỳ định nghĩa nào về Đấng Mêsia được hứa ban mà lại hàm nghĩa rằng sứ mệnh của Ngài phải được hoàn thành qua đau khổ và cái chết.
Trước khi trở lại, Phaolô rất giống Phêrô, người bị Chúa Giêsu khiển trách vì suy nghĩ như một người phàm chứ không như Thiên Chúa. Điều này xảy ra trong bối cảnh Phêrô đáp lại điều mặc khải đầu tiên của Chúa Giêsu rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Sự hiểu biết này về Đấng Mêsia đau khổ dường như là một trong những giáo huấn chính của Chúa Phục sinh (x. Lc 24, 7. 26. 46) và là trọng tâm chính của đức tin của Giáo hội tông truyền (x. Cv 3, 18; 17, 3; 26, 23; 1Pr 1, 11).
Ai có thể hiểu được sự cần thiết thần linh này về sự đau khổ của Đấng Mêsia? Tội nhân, những người “nhìn thấy trên thập giá một sự phản ánh chính xác của tội lỗi khôn lường của họ” (Balthasar). Trong đức tin, người ta phải thấy mối tương quan nhân-quả giữa tội lỗi của chính mình (nguyên nhân) và sự đau khổ của Con Thiên Chúa (hậu quả). Chìa khóa này mở cánh cửa để hiểu được vị trí của đau khổ trong chương trình của Thiên Chúa, bởi vì lúc này người ta không còn nhìn vào Thập giá nữa mà nhìn từ Thập giá, nghĩa là nhìn từ viễn tượng của Chúa Giêsu, với đôi mắt của Chúa Giêsu, Đấng mà duy mình Ngài biết được sự thật trọn vẹn về tội lỗi, sự dữ và đau khổ.
Điều này giải thích làm thế nào mà Thánh Phaolô có thể vui mừng trước sự đau khổ của ngài – bởi vì ngài coi đó là sự tham dự vào đau khổ cứu độ của Chúa Kitô (Cl 1, 24). Và Thánh Phêrô đã biến nó thành một nguyên tắc của đời sống Kitô hữu: “Chính vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng lấy tư tưởng này làm khí giới…” (1Pr 4, 1); “Ðược chia sẻ những đau khổ của Ðức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4, 13); “Nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Kitô hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó” (1Pr 4, 16).
Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Ðức Kitô, thì tôi cũng cam lòng. (Rm 9, 1–3)
Chắc chắn, Thánh Phaolô đã trải qua những đau khổ lớn lao về thể xác, thậm chí giống như Ðức Kitô đã trải qua. Nhưng thánh nhân nói rõ rằng việc ngài thông phần vào sự đau khổ của Ðức Kitô, trên hết mọi sự là nỗi đau khổ về sự khước từ tình yêu của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là đau khổ vì gánh lấy đau khổ của các tội nhân, những người mà chính xác bằng việc phạm tội, đã từ chối tình yêu của Thiên Chúa. Đó là bước một cách ý thức vào khoảng trống vắng tình yêu như một hiến lễ dâng lên Thiên Chúa, Đấng lấy làm hài lòng và được tôn vinh không phải bằng đau khổ đơn thuần, nhưng bằng cách thế mà những ai nhận biết đường lối của Ngài phải đau khổ.
Hình thức căn bản của đau khổ đối với tội nhân là sự hối hận của lương tâm. Sự hối hận của lương tâm là sự trừng phạt chính đáng vì tội lỗi. Nền tảng của nó là sự phán quyết rằng tôi đã sử dụng sai quyền tự do của mình, vốn dành cho tình yêu có trách nhiệm trong chân lý. Vì yêu bản thân cách vô trật tự, tôi đã coi thường chân lý của Thiên Chúa. Như lời của Thánh Augustinô: Yêu bản thân đến mức khinh thường Thiên Chúa. Đó là luận lý của tội lỗi khi sống ngoài tình yêu của Thiên Chúa vì mọi tội lỗi đều là hành động không tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa, và sự bất tuân này bắt nguồn từ sự nghi ngờ và khước từ tình yêu của Ngài. Điều này phù hợp với nguyên tắc được đặt ra trong sách Khôn Ngoan: “phạm tội làm sao thì bị phạt làm vậy” (Kn 11,16). Thánh Augustinô đã từng nói như thế này: “Tình yêu thất thường là hình phạt của chính nó”.
Khi sự đau khổ này, sự hối hận này của lương tâm được liên kết bởi đức tin vào Đức Kitô và mầu nhiệm vượt qua của Ngài, khi nó hàm chứa ý thức về việc phải chịu trách nhiệm về sự đau khổ và cái chết của Ngài, thì “chúng ta cùng chịu đau khổ với Người” (Rm 8, 17). Phẩm giá bí tích thanh tẩy của chúng ta là tham gia vào sự đau khổ của chính Thiên Chúa trước sự dữ của tội lỗi. “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26, 38). Thiên Chúa mạc khải dứt khoát phản ứng của Ngài đối với tội lỗi trong sự đau khổ và cái chết của Đức Giêsu Kitô. “Khi Thần chân lý cho phép lương tâm con người chia sẻ nỗi đau khổ của Chúa Giêsu, thì nỗi đau khổ của lương tâm trở nên đặc biệt sâu sắc, nhưng cũng đặc biệt cứu độ.
Sau đó, bằng một hành động ăn năn hoàn hảo, sự hoán cải đích thực của con tim được thực hiện: đây là ‘sám hối’ theo Phúc âm” (St. Gioan Phaolô II, Dominum et Vivificantem, 45).
Đây là sự đau khổ do ý Thiên Chúa mà Thánh Phaolô viết: “thì nay tôi lại vui mừng, không phải vì đã làm cho anh em phải ưu phiền, nhưng vì nỗi ưu phiền đó đã làm cho anh em hối cải. Thật thế, anh em đã phải ưu phiền do ý Thiên Chúa… Quả vậy, nỗi ưu phiền do ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ” (2 Cr 7, 9–10). Sự đau buồn đạo đức của lương tâm này là yếu tố trung tâm của sự trừng phạt chính đáng đối với tội lỗi. Nó xuất phát từ chính bản chất của tội lỗi, và chúng ta phải cố gắng để chấp nhận sự đau buồn như một ân sủng (GLCG, 1472–73). Làm như vậy là biến đổi hình phạt vì tội lỗi thành hành động chuộc tội. Bởi vì, khi sự trừng phạt tội lỗi được đón nhận với ý thức tự do, cụ thể là hiểu biết vị trí của hình phạt trong kế hoạch của Thiên Chúa được mạc khải trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô, thì điều đó trở nên thoả đáng. Đức tin và đức ái biến hình phạt thành sự đền tạ — dự phần vào sự đền tạ của chính Chúa Giêsu Kitô.
Và với điều này, chúng ta có thể hiểu lời khẳng định gây sửng sốt của Thánh Phaolô: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức” (Cl 1, 24). Tin rằng nỗi buồn vì tội lỗi là một ân sủng và là một bước cần thiết để ăn năn và hoán cải có nghĩa là chúng ta có thể coi đó như là một điều tốt lành. Tiếp nối Thánh Augustinô, Thánh Tôma dạy rằng “một người có thể không hài lòng khi phạm tội, và lấy làm vui về sự không hài lòng của mình cùng với hy vọng được tha thứ, để nỗi buồn của anh ta là một vấn đề vui mừng. Do đó, Augustinô nói “Hối nhân phải luôn đau buồn và vui mừng trước sự đau buồn của mình” (ST III, Q. 84, a. 9, ad 2).
Dưới ánh sáng này, chúng ta hiểu Sách Giáo lý khi dạy về “sự đau khổ và buồn phiền hữu ích được các Giáo phụ gọi là nỗi thống khổ của tâm hồn, sự cắn rứt của trái tim” (GLCG, 1431) vốn đồng hành với nẻo đường hoán cải thường xuyên của người Kitô hữu. Đặc biệt trong Mùa Chay, chúng ta đón nhận những gì Thiên Chúa đã mạc khải nơi Đức Kitô và qua Thánh Phaolô về nỗi ưu phiền do ý Thiên Chúa và sự đau buồn thánh thiện hoặc sự hối hận về tội lỗi, như được phát triển cách đặc biệt trong truyền thống tâm linh Đông phương:
“Nỗi ưu buồn do ý Thiên Chúa” và những thứ tương đương của nó sẽ là biểu hiện cao nhất của niềm vui như dưới đây: karopoion penthos. Mối phúc Phúc âm được thực hiện trong thế giới này: “Phúc cho [những ai than khóc], vì họ sẽ được an ủi“. “Than khóc” giờ đây sẽ tương đương với niềm an ủi, thậm chí còn hơn thế nữa, với niềm hạnh phúc [x. Irénée Hausherr, Penthos. Học thuyết về sự ăn năn trong Kitô giáo Đông phương (Kalamazoo, MI: Cistercian Publications, Inc., 1982), 23].
Mùa Chay là mùa của nỗi đau khổ thần linh, mùa tham dự vào đau khổ của Chúa Kitô và cũng tham dự vào niềm vui đang ở trước mặt Người, và vì niềm vui ấy Người đã cam chịu khổ hình thập giá (Dt 12, 2), nhờ đó hoàn thành sự cần thiết mầu nhiệm của đau khổ và sự chết trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa để cứu thế giới khỏi tội lỗi, thoả mãn tình yêu của Thiên Chúa bằng cách tự mình gánh lấy hình phạt chính đáng của tội lỗi thế gian.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: Catholic World Report 19. 3. 2022
[1] Douglas Bushman nổi tiếng với tư cách là giám đốc trước đây của Viện Thần học Mục vụ tại Đại học Ave Maria và Đại học Dallas và với các khóa học về Giáo hội học, Tu đức Công giáo, John Paul II, Vatican II, Thần học Mục vụ và Tân Phúc âm hóa. Ông là tác giả cuốn Theology of Renewal for His Church: The Logic of Vatican II’s Renewal in Paul VI’s Encyclical Ecclesiam Suam, and Its Reception in John Paul II and Benedict XVI (Wipf and Stock, sắp xuất bản).
2022
Lưu ý cho Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh
Lưu ý cho Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh
CHÚA NHẬT LỄ LÁ
TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA
Làm phép và rước lá: Lc 19,28-40. Thánh lễ: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14-23,56 (hay Lc 23,1-49).
LƯU Ý :
- Hôm nay, Hội Thánh tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Vì thế, trong mọi thánh lễ đều kính nhớ việc Chúa vào thành bằng cuộc rước lá (hình thức I), hoặc bằng nghi thức nhập lễ trọng thể trước thánh lễ chính (hình thức II), hay bằng nghi thức nhập lễ đơn giản trước các thánh lễ khác (hình thức III). Nghi thức nhập lễ trọng thể có thể lặp lại trước một hoặc hai thánh lễ khác có đông giáo dân tham dự. Cuộc rước lá chỉ làm một lần.
2.Lá đã làm phép được lưu giữ tại các gia đình nhằm nhắc nhở Chúa Kitô vinh thắng.
3.Hôm nay dùng lễ phục đỏ. Khi rước lá, linh mục mặc áo lễ hoặc áo choàng.
4.Sau cuộc rước lá hay nghi thức nhập lễ trọng thể, bỏ làm dấu thánh giá và nghi thức sám hối hoặc rẩy nước thánh đầu lễ, và đọc ngay lời nguyện nhập lễ. Sau đó, thánh lễ tiếp tục như thường lệ.
- Vì lý do mục vụ, có thể bỏ một hoặc hai bài đọc trước bài Tin Mừng, nhưng cũng vì lợi ích thiêng liêng của giáo dân, nên đọc trọn vẹn bài Thương Khó, và không bỏ các bài đọc trước đó.
6.Khi đọc bài Thương Khó, không mang đèn nến, không xông hương, không chào và cũng không ghi dấu thánh giá trên sách. Phó tế đọc bài Thương Khó, hoặc nếu không có phó tế thì linh mục đọc. Giáo dân cũng có thể đọc bài Thương Khó, nhưng nếu được, nên dành những lời của Chúa Kitô cho linh mục. Nếu là phó tế, trước khi đọc bài Thương Khó, phải đến xin chủ tế ban phép lành như trong các thánh lễ khác.
Hết bài Thương Khó, xướng “Đó là lời Chúa” như thường lệ, nhưng không hôn sách. Sau đó nên giảng, dù là vắn tắt. Cũng có thể giữ thinh lặng một lúc.
7.Nơi nào không cử hành thánh lễ, có thể cử hành Phụng vụ Lời Chúa để tưởng niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem và cuộc Thương Khó của Chúa, vào giờ thích hợp chiều thứ Bảy hay ngày Chúa nhật.
TUẦN THÁNH
1.Trong Tuần Thánh, Hội Thánh cử hành những mầu nhiệm mà Chúa Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng Người ở trần gian, từ lúc Người vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia đến cuộc Thương Khó hồng phúc và Phục Sinh vinh quang của Người. Mùa Chay kết thúc ngay trước Thánh Lễ Tiệc Ly.
Tam Nhật Vượt Qua bắt đầu với thánh lễ ban chiều tưởng niệm Bữa Tiệc Ly của Chúa, được tiếp diễn trong ngày thứ Sáu Chúa chịu thương khó và ngày thứ Bảy Thánh, rồi kết thúc bằng giờ kinh chiều Chúa nhật Phục Sinh; trung tâm của Tam Nhật là Đêm Canh Thức Vượt Qua.
2.Trong các ngày Tuần Thánh, đừng cử hành các bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức là những bí tích được dành cho Đêm Canh Thức Vượt Qua, nhưng nên cử hành sám hối.
- Các lễ nghi Tuần Thánh, tức là làm phép và rước lá, kiệu Mình Thánh Chúa sau Thánh Lễ Tiệc Ly, nghi thức tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa và Đêm Canh Thức Vượt Qua, có thể cử hành trong mọi nhà thờ và nhà nguyện.
Tuy nhiên trong các nhà thờ không phải là nhà thờ giáo xứ và trong các nhà nguyện, chỉ nên cử hành các nghi thức nói trên nếu các nghi thức có thể được cử hành cách xứng đáng, nghĩa là có một số người giúp lễ xứng hợp, có thể hát ít là một vài phần trong nghi thức và có đủ một số giáo dân tham dự.
Các mục tử cần lưu ý để giúp các tín hữu hiểu rõ ý nghĩa và diễn tiến các nghi thức trong những ngày này, và hướng dẫn họ tham dự tích cực vào những nghi thức ấy cho có hiệu quả.
LƯU Ý :
Các ngày từ thứ Hai đến thứ Tư Tuần Thánh phải cử hành thánh lễ theo ngày; không được cử hành thánh lễ nào khác, trừ thánh lễ an táng.
Có thể giữ thói quen che ảnh tượng trong nhà thờ, tùy theo quyết định của Hội Đồng Giám Mục. Các thánh giá thì che cho đến thứ Sáu Tuần Thánh, sau nghi thức tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa; các ảnh tượng khác thì che cho đến khi bắt đầu Canh Thức Vượt Qua.
TAM NHẬT VƯỢT QUA
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Ban sáng: THÁNH LỄ LÀM PHÉP DẦU (Tr). Is 61,1-3a.6a.8b-9; Kh 1,5-8; Lc 4,16-21.
Ban chiều: THÁNH LỄ TIỆC LY. Xh 12,1-8.11-14; 1Cr 11,23-26; Ga 13,1-15.
LƯU Ý :
1.Với Thánh lễ chiều hôm nay, Hội Thánh bắt đầu Tam Nhật Vượt Qua và tưởng niệm bữa tối sau hết của Chúa Giêsu, trong đó Người thiết lập Giao Ước Mới trong Mình và Máu Thánh Người dưới hai hình thái bánh rượu.
Bài giảng sẽ đề cập đến các mầu nhiệm được tưởng niệm trong thánh lễ này, tức là việc thiết lập bí tích Thánh Thể, chức tư tế và điều răn của Chúa về tình bác ái huynh đệ. Sau bài giảng, sẽ cử hành nghi thức rửa chân, nếu lý do mục vụ khuyên nên làm.
2.Theo truyền thống lâu đời của Hội Thánh, hôm nay cấm cử hành mọi thánh lễ không có giáo dân tham dự.
Thánh Lễ Tiệc Ly cử hành ban chiều lúc thuận tiện, có toàn thể cộng đoàn địa phương tham dự đông đủ, trong khi các linh mục và thừa tác viên thi hành phận vụ của mình.
Các linh mục đã đồng tế trong Thánh Lễ Làm Phép Dầu, hoặc cử hành thánh lễ vì lợi ích giáo dân, thì lại được đồng tế trong Thánh Lễ Chiều nữa.
3.Nơi nào lý do mục vụ đòi hỏi, thì Đấng thường quyền sở tại có thể cho phép cử hành một thánh lễ thứ hai trong các nhà thờ và nhà nguyện, vào ban chiều. Còn trong trường hợp thật sự cần thiết, có thể cho phép cử hành thánh lễ cả vào lúc ban sáng, nhưng chỉ dành cho các tín hữu không có cách nào tham dự Thánh Lễ Chiều được. Tuy nhiên, đừng cử hành chỉ vì lợi ích riêng tư, kẻo làm thiệt hại cho việc cử hành thánh lễ chính ban chiều.
Chỉ cho giáo dân rước lễ trong thánh lễ mà thôi; nhưng bất cứ giờ nào trong ngày, cũng có thể đưa Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân.
4.Nhà tạm hoàn toàn để trống. Trong thánh lễ chiều nay sẽ truyền phép bánh thánh đủ cho giáo sĩ và giáo dân rước lễ hôm nay và ngày mai.
5.Khi hát kinh Vinh Danh thì rung chuông. Sau đó không rung chuông nữa cho đến Canh Thức Vượt Qua, trừ khi Hội Đồng Giám Mục hay giám mục giáo phận quy định khác.
6.Nơi nào giáo dân đã được chuẩn bị, có thể tổ chức nghi thức rửa chân cho nhưng người đã được tuyển chọn, “cả đàn ông lẫn phụ nữ, người trẻ, người già, người lành mạnh và bệnh nhân, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân” để nói lên ý nghĩa phục vụ và bác ái của Chúa Kitô là Đấng đã đến không phải để được phục vụ mà để phục vụ.
7.Khi rước lễ vật đến bàn thờ, cũng nên đem những phẩm vật dành cho người nghèo, nhất là các phẩm vật đã được thu góp trong mùa chay như hoa trái của việc sám hối.
8.Kết thúc lời nguyện hiệp lễ thì kiệu Mình Thánh Chúa sang bàn thờ phụ, với hương và đèn nến.
9.Mình Thánh Chúa lưu giữ cho việc rước lễ ngày hôm sau được kiệu sang bàn thờ phụ, nơi giáo dân tiếp tục suy niệm và cầu nguyện.
Bàn thờ phụ được trang hoàng thích hợp với việc lưu giữ Mình Thánh Chúa. Nơi đây phải có Nhà tạm đóng kín và tránh việc trưng bày hay đặt Mình Thánh Chúa trong mặt nhật. Ngoài ra, về hình thức Nhà tạm, tránh cách dùng kiểu nhà mồ: vì nơi lưu giữ Mình Thánh Chúa không nhằm biểu thị mồ Chúa, nhưng chỉ nhằm giữ Mình Thánh Chúa cho việc rước lễ ngày hôm sau.
10.Kết thúc buổi cử hành hôm nay thì lột khăn bàn thờ, và nếu có thể, cất các thánh giá. Nếu còn thánh giá nào trong nhà thờ, nên phủ khăn.
11.Khuyên giáo dân nên tùy hoàn cảnh đến chầu Mình Thánh Chúa ban tối hay đêm vào giờ thuận tiện; nhưng từ nửa đêm trở đi, không tổ chức chầu Mình Thánh Chúa trọng thể nữa.
12.Không tổ chức kiệu và đặt Mình Thánh Chúa trong các nhà thờ không cử hành nghi lễ chiều thứ Sáu tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa.
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA
Giữ chay và kiêng thịt. Is 52,13 – 53,12; Dt 4,14-16; 5,7-9; Ga 18,1-19,42.
LƯU Ý :
1.Hôm nay Chiên Vượt Qua của chúng ta là Đức Kitô đã chịu hiến tế, nên Hội Thánh nhìn ngắm và kính thờ thánh giá của Chúa và Hôn Phu của mình, tưởng niệm mình đã phát xuất từ cạnh sườn Chúa Kitô đang an giấc trên thánh giá và cầu xin cho cả thế giới được ơn cứu độ.
2.Theo truyền thống rất xa xưa, hôm nay Hội Thánh không cử hành Thánh Thể. Hôm nay chỉ cho giáo dân rước lễ trong nghi thức tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa mà thôi. Tuy nhiên, có thể đưa Mình Thánh bất cứ giờ nào cho những bệnh nhân không tham dự nghi thức được.
3.Hôm nay và ngày mai, Hội Thánh không cử hành bí tích nào hết, trừ bí tích Hòa Giải và Xức Dầu Bệnh Nhân. Nếu có phải an táng thì không hát, không đàn, không chiêng trống.
- Hôm nay giữ chay và kiêng thịt. Vì là Chay Vượt Qua, do đó rất nên kéo dài cho tới Canh Thức Vượt Qua, để tâm hồn được nâng cao và mở rộng mà đạt tới niềm vui Phục Sinh (I, số 110).
5.Nếu có thể, nên long trọng cử hành giờ Kinh Sách và Kinh Sáng chung với giáo dân.
6.Khoảng 3 giờ chiều, cử hành cuộc Thương Khó của Chúa; nếu lý do mục vụ đòi hỏi, có thể cử hành vào giờ thuận tiện hơn từ sau 12 giờ trưa, song đừng muộn quá 9 giờ tối.
7.Bàn thờ hoàn toàn để trống: không thánh giá, không chân đèn, không trải khăn.
8.Về bài thương khó, xem chỉ dẫn ở Chúa nhật lễ Lá.
9.Chỉ dùng một thánh giá duy nhất trong nghi thức kính thờ.Nếu vì số dân chúng đông, mỗi người không thể lên tôn kính thánh giá được, thì sau khi một phần tín hữu đã tôn kính, linh mục cầm thánh giá lên đứng trước bàn thờ, nói ít lời kêu mời dân chúng kính thờ thánh giá, rồi nâng cao thánh giá trong giây lát để mọi người thinh lặng tôn thờ.
10.Kính thờ thánh giá xong, đi rước Mình Thánh từ bàn thờ phụ về và cho rước lễ. Sau đó, lại rước Mình Thánh với hình thức đơn giản về nơi cất giữ, với đèn chầu như thường lệ.
11.Sau buổi cử hành thì lột khăn bàn thờ, nhưng để lại thánh giá và các chân đèn. Nên đặt thánh giá cho tín hữu kính thờ ở một nơi thuận tiện cho việc cầu nguyện và suy niệm.
12.Từ sau khi kính thờ thánh giá cho đến Canh Thức Vượt Qua, cúi mình mỗi khi đi ngang qua trước thánh giá.
- Nên quý trọng các việc đạo đức có giá trị mục vụ, như: kiệu thương khó, đi Đàng Thánh Giá, suy gẫm các sự thương khó Đức Mẹ, v.v..
THỨ BẢY TUẦN THÁNH
Vì Canh Thức Vượt Qua thuộc Chúa nhật Phục Sinh nên phải tránh trình bày nghi thức đó như là những giờ phút cuối cùng của thứ Bảy Tuần Thánh (Thông tư Bộ Phụng Tự ngày 16-01-1988, số 95).
LƯU Ý :
- Thứ Bảy Tuần Thánh, Hội Thánh ở bên cạnh mồ Chúa, để suy niệm việc Chúa chịu thương khó, chịu chết và xuống ngục tổ tông, đồng thời ăn chay cầu nguyện để trông đợi Chúa phục sinh.
- Nếu có thể, nên cử hành giờ Kinh Sách và Kinh Sáng chung với giáo dân. Bằng không, cử hành Phụng vụ Lời Chúa hay làm việc đạo đức khác diễn tả mầu nhiệm cử hành hôm nay, nhất là để kính Đức Maria cùng liên kết với sự thương khó của Chúa Giêsu.
- Trong nhà thờ có thể trưng bày cho giáo dân tôn kính ảnh Chúa Kitô chịu đóng đinh hoặc mai táng trong mồ, hoặc ảnh Chúa xuống ngục tổ tông minh hoạ mầu nhiệm ngày thứ Bảy Tuần Thánh, hay ảnh Đức Mẹ Sầu Bi.
- Hôm nay không cử hành thánh lễ và các bí tích khác, trừ bí tích Hoà Giải và Xức Dầu Bệnh Nhân. Chỉ có thể cho rước lễ như Của Ăn Đàng.
MÙA PHỤC SINH
“Năm mươi ngày từ Chúa nhật Phục Sinh đến Chúa nhật Hiện Xuống, được cử hành trong niềm hân hoan phấn khởi, như một ngày lễ duy nhất, hơn thế, như một ‘Đại Chúa Nhật’. Đặc biệt, trong những ngày này hát Halleluia.” (AC 22).
CHÚA NHẬT PHỤC SINH. MỪNG CHÚA SỐNG LẠI.
Lễ trọng với tuần bát nhật. Lễ cầu cho giáo dân (Lễ họ).
LƯU Ý :
1.Theo truyền thống xa xưa, đêm nay là đêm Chúa truyền phải giữ, và cử hành Canh Thức Vượt Qua để kính nhớ Đêm Thánh Chúa sống lại, được coi là “Mẹ của mọi lễ Canh Thức”. Trong lễ Canh Thức này, Hội Thánh canh thức để mong đợi Chúa phục sinh và cử hành mầu nhiệm Vượt Qua ấy trong các bí tích khai tâm Kitô hữu. Toàn thể truyền thống Kitô giáo luôn nhìn nhận buổi Canh Thức này mang tính chất trông đợi cuộc quang lâm cánh chung của Chúa.
- Tất cả Canh Thức Vượt Qua được cử hành về đêm, nên không được bắt đầu trước lúc chập tối và phải kết thúc trước rạng đông ngày Chúa nhật.
- Không được chỉ cử hành Thánh Lễ mà không có các nghi thức Canh Thức Vượt Qua.
4.Có thể cử hành Canh Thức Vượt Qua tại các nhà thờ hay nhà nguyện đã không cử hành các nghi thức ngày thứ Năm và thứ Sáu. Tại các nơi có cử hành các nghi thức ngày thứ Năm và thứ Sáu, có thể bỏ không cử hành Canh Thức Vượt Qua. Nhưng nơi nào có Giếng Rửa Tội thì buộc phải cử hành Canh Thức.
- Trong tất cả buổi cử hành, linh mục và các thừa tác viên khác mặc lễ phục màu trắng như khi cử hành thánh lễ.
6.Trong Đêm Canh Thức này, nghi thức được sắp xếp như sau:
– Phần thứ nhất: Thắp Nến Phục sinh.
– Phần thứ hai: Phụng vụ Lời Chúa. Tin tưởng vào Lời Chúa và điều Chúa hứa, Hội Thánh suy niệm những kỳ công Chúa đã làm cho dân Người, ngay từ lúc khởi nguyên.
– Phần thứ ba: Phụng vụ Thánh Tẩy. Hội Thánh đón nhận các anh chị em tân tòng, và toàn thể cộng đoàn lặp lại những lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
– Phần thứ tư: Phụng vụ Thánh Thể. Gần rạng sáng Phục sinh, cùng với những chi thể mới đã được tái sinh trong bí tích Thánh Tẩy, Hội Thánh được mời vào bàn tiệc mà Chúa đã dọn sẵn cho dân Người qua sự chết và phục sinh của Người cho tới khi Người đến.
- Phải cử hành Canh Thức Vượt Qua cách trang trọng để giáo dân có thể hiểu ý nghĩa của các biểu tượng và các nghi thức; ý nghĩa này cũng được nói lên qua các lời nhắn nhủ và các lời nguyện.
8.Để duy trì tính chân thật của dấu chỉ, Nến Phục Sinh phải được làm bằng sáp nguyên tuyền, đủ lớn và còn mới, bởi vì diễn tả hình ảnh Chúa Kitô là Ánh Sáng thật chiếu soi thế gian.
- Do nhu cầu, bài công bố Tin Mừng Phục Sinh cũng có thể do một ca viên không phải là phó tế công bố, nhưng người này không xin linh mục chủ tế ban phép lành và bỏ câu: “Vậy giờ đây…” cho đến hết lời kêu gọi, kể cả lời chào: “Chúa ở cùng anh chị em.” Có thể hát bản dài hay ngắn.
- Phải đọc ít nhất ba bài Cựu Ước, và trong trường hợp gấp rút thì đọc ít nhất là hai bài, nhưng không bao giờ được bỏ bài trích sách Xuất Hành. Nên hướng dẫn vắn tắt để giáo dân hiểu các bài đọc Cựu Ước này có ý nghĩa tượng trưng và báo trước những thực tại trong Kitô giáo.
- Phụng vụ Thánh Tẩy trong Canh Thức Vượt Qua đạt ý nghĩa trọn vẹn nếu có ban bí tích Thánh Tẩy cho người lớn hay ít là trẻ em. Bằng không, tại các nhà thờ giáo xứ thì làm phép nước rửa tội. Nơi nào không có ai lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và cũng không phải làm phép Giếng Rửa Tội, thì làm phép nước để nhắc lại Bí tích Thánh Tẩy, sau đó lặp lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích này, rồi rảy nước thánh trên dân chúng.
- Có thể xông hương khi đọc Tin Mừng, nhưng không mang đèn nến.
13.Dấu chỉ bí tích Thánh Thể được hoàn hảo khi cho rước lễ dưới hai hình bánh rượu trong Canh Thức Vượt Qua. Đấng Thường quyền sở tại suy xét và ấn định các quy tắc về điều này.
- Lễ Đêm Canh Thức là Thánh lễ Phục Sinh tưởng niệm Chúa sống lại. Ai cử hành hoặc đồng tế lễ đêm, còn được cử hành hoặc đồng tế thánh lễ ngày Phục Sinh.
CHÍNH NGÀY:
THÁNH LỄ CHÚA NHẬT PHỤC SINH.
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9 (Ban chiều có thể đọc Lc 24,13-35).Đọc hay hát Ca tiếp liên.
LƯU Ý :
1.Trong thánh lễ, thay vì nghi thức sám hối, thì rảy nước thánh (đã làm phép đêm trước), để nhắc lại Bí tích Rửa Tội.
- Nến Phục Sinh đặt gần giảng đài hoặc gần bàn thờ, và được thắp sáng trong các giờ cử hành phụng vụ trọng thể hơn của mùa này, tức là trong thánh lễ, giờ Kinh Sáng và giờ Kinh Chiều, cho đến hết Chúa nhật Hiện Xuống.
- Các ngày trong Tuần Bát Nhật, mừng như lễ trọng kính Chúa, nhưng không đọc kinh Tin Kính trong thánh lễ (x. AC24).
- Các ngày trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh chỉ được cử hành thánh lễ an tángmà thôi. Không được cử hành các thánh lễ khác.
- Các Chúa nhật Phục Sinh không được cử hành các thánh lễ khác, kể cả thánh lễ an táng.
- Từ hôm nay cho đến hết Chúa nhật Hiện Xuống, đọc kinh “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng”.
7.Về việc rước lễ trong Mùa Phục Sinh:
Giáo luật điều 920 dạy: “Mọi tín hữu sau khi rước lễ lần đầu, buộc rước lễ mỗi năm ít là một lần. Phải chu toàn luật buộc này trong Mùa Phục Sinh, trừ khi vì lý do chính đáng, họ có thể chu toàn luật này trong thời gian khác trong năm.”
Tại Việt Nam, thời gian cần thiết để giữ luật buộc rước lễ trong Mùa Phục Sinh là từ Thứ Tư lễ Tro cho đến hết lễ Chúa Ba Ngôi, chiếu theo điều 217 của Công Đồng Đông Dương lần thứ 1, năm 1934 và Thông báo của Uỷ ban Giám mục về Phụng Vụ, số VII, ngày 10-8-1971.
Về việc xưng tội, Giáo luật điều 989 dạy: “Mọi tín hữu sau khi đến tuổi khôn buộc phải trung thành giữ luật xưng các tội trọng, một năm ít là một lần.”
LƯU Ý :
Các ngày trong tuần Mùa Phục Sinh:
- không được cử hành các lễ cầu hồn hằng ngày(IM381);
- chỉ được cử hành các lễ tùy nhu cầu hay ngoại lịch, nếu thật sự có nhu cầu và lợi ích mục vụ đòi hỏi. (IM376);
- được cử hành các lễ nhớ không bắt buộc về vị thánh có tên trong lịch hay trong Sổ bộ các thánh ngày đó (IM 355b).