2022
Linh Hứng Là Gì?
Linh Hứng Là Gì?
Từ “linh hứng” [hay linh ứng] bắt nguồn từ động từ inspirare trong tiếng Latin, có nghĩa : “thở vào.” “Linh hứng” trong tiếng Hy Lạp là từ theopneustos, dịch sát nghĩa là: “Thiên Chúa thở”; trong tiếng Do Thái từ này có thể được diễn tả bởi một trong hai từ: neshamah hoặc ruwach.
Linh hứng được hiểu là việc Thiên Chúa trực tiếp tác động lên mỗi tác giả sách thánh, mà không làm mất đi ý chí tự do của họ, để họ viết ra điều Chúa muốn. Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đưa ra một định nghĩa xác đáng nhất khi ngài nói: “Linh hứng là tác động siêu nhiên của Thiên Chúa, theo đó Ngài gợi hứng, hướng dẫn, và trợ giúp các tác giả sách thánh để các Ngài suy nghĩ, diễn tả, viết ra một cách hoàn toàn chân thực tất cả và chỉ những điều Thiên Chúa muốn” (Providentissimus Deus, #20, 1893).
Linh hứng không phải là việc đọc cho chép (Chúa Thánh Thần không hiện ra để phỏng vấn), cũng không phải là việc Thiên Chúa ưng thuận những bản viết tay do các tác giả nộp cho Ngài (Thiên Chúa không phải là người biên tập), cũng không phải chỉ là những gợi hứng về những vấn đề thiêng liêng hay luân lý. Không giống với sự vô ngộ (infallibility) là đặc sủng mang tính “tiêu cực” giúp ngăn ngừa những sai lầm trong việc giảng dạy, linh hứng là đặc sủng mang tính “tích cực” được ban cho tác giả sách thánh để các ngài viết ra chỉ những điều và theo cách thức Thiên Chúa muốn, trong khi vẫn tôn trọng sự tự do của họ.
Vì đến trực tiếp từ Thiên Chúa, nên linh hứng không thể sai lầm hoặc khiếm khuyết, nhờ đó bảo toàn tính thống nhất và thánh thiêng của sứ điệp mặc khải. Tuy nhiên, các tác giả nhân loại của sách thánh, vẫn có tự do trong việc chuyển tải mặc khải bằng cách sử dụng vốn ngôn ngữ của mình.
Chỉ có những bản văn được linh hứng mới được xếp vào Bộ Thánh Kinh, và được xem là chứa đựng mặc khải của Thiên Chúa. Những sách không được đưa vào Bộ Thánh Kinh, chẳng hạn: Tin mừng của Maria Madalena, hay sách Khải huyền của Môsê, thì không được coi là sách được linh hứng. Một lỗi mà một số người hay mắc phải đó là kết luận rằng chỉ có bản văn được linh hứng mới chân thực. Vì đến từ Thiên Chúa, nên tất cả những bản văn được linh hứng là chân thực và không thể sai lầm. Tuy nhiên, những bản văn khác của con người vẫn có thể chân thực, mặc dù không được xem là bản văn được linh hứng. Một sổ điện thoại (phone book) là chân thực khi những số điện thoại và những tên ghi trong đó là chính xác. Một cuốn sách hóa học nói rằng nước được kết hợp từ hai nguyên tử Hidro và một nguyên tử Oxy, thì điều đó đúng. Tuy nhiên, những sách vừa nêu không phải là những bản văn được linh hứng.
Không phải là tác giả, chủ đề hay năm xuất bản của một tài liệu xác định nào đó có thể làm cho những bản văn ấy có thể trở thành bản văn được linh hứng. Nếu Thánh Giuse, chồng của Đức Trinh Nữ Maria và là cha nuôi của Đức Giêsu, viết một cái gì đó, và các nhà khảo cổ tìm thấy bản viết ấy vào ngày mai, thì bản viết ấy cũng không được gọi là bản văn được linh hứng, cho dẫu tác giả có là Thánh Giuse. Hoàng đế La Mã- Julius Caesar trong tác phẩm Gallic Wars của mình, được viết vào khoảng năm 58 TCN đã nói rằng: “Nước Pháp đã bị phân chia thành ba phần.” Câu nói này được xem là chân thật. Tuy nhiên, đó không phải là điều được linh hứng.
Chỉ có Giáo Hội Công Giáo có thẩm quyền xác định sách nào được xem là sách được linh hứng. Thẩm quyền này được gọi là Quyền Giáo huấn (Magisterium) của Giáo Hội. Thánh Kinh không bao giờ nói sách nào là sách được linh hứng. Chữ “Thánh Kinh” thậm chí còn không có trong cuốn Thánh Kinh. Khi biên tập và in cuốn Thánh Kinh, các nhà biên tập và xuất bản thời nay in phần Mục Lục các sách thánh, trong khi đó một danh sách những tác giả sách thánh thì không có. Giáo Hội không tạo ra Thánh Kinh nhưng là người có thẩm quyền xác định sách nào là sách được linh hứng và thuộc về bộ Thánh Kinh. Giáo Hội cũng là người sắp xếp trật tự các sách trong Bộ Thánh Kinh, cũng như có thẩm quyền trong việc giải thích Thánh Kinh cách chân thực.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 34-35.
2022
Ai Đã Cho Những Con Số (Chương Và Câu) Vào Trong Thánh Kinh?
Ai Đã Cho Những Con Số (Chương Và Câu) Vào Trong Thánh Kinh?
Lần tới bạn đi xem một trận bầu dục hoặc một trận bóng đá, hãy tìm kiếm một ai đó trong đám đông cầm một bảng hiệu vỏn vẹn có mấy chữ: Gioan 3,16. Cái bảng ấy có nghĩa gì? Đó là một sự quy chiếu về Tin Mừng của Thánh Gioan, chương 3 câu 16. Trích đoạn nói rằng: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình để bất cứ ai tin vào Ngài sẽ không bị hư mất, nhưng được sống đời đời.” Đó là một sự tuyên xưng đức tin Kitô giáo một cách công khai, dễ thương. Tuy nhiên, nếu bạn và tôi ở một cuộc đua ngựa tại hý trường Coliseum của Rôma vào năm 200, và nhìn thấy một bảng hiệu (hầu chắc nó được viết bằng tiếng Latin: Ioannes III: XVI) chúng ta sẽ không có ý kiến gì về dấu hiệu mà nó muốn nói, ngay cả khi chúng ta là những Kitô hữu nhiệt thành.
Vậy điều mà hầu hết mọi người ngày nay cho là đương nhiên khi họ cầm lấy cuốn Thánh Kinh của họ là họ có thể tìm thấy bất cứ đoạn nào với việc chỉ cần biết đoạn đó thuộc sách nào, chương mấy, và câu mấy mà thôi. Trớ trêu thay, các tác giả thánh đầu tiên không bao giờ dùng những công cụ này. Khi Thánh Matthêu, Maccô, Luca và Gioan viết các Tin Mừng theo cách của riêng các ngài, thì không có tác giả nào viết vào bản văn số chương và số câu. Ngay cả các dịch giả như Thánh Giêrônimô là người đầu tiên dịch toàn bộ Cựu Ước từ tiếng Do Thái và Hy Lạp sang tiếng Latin, và dịch toàn bộ Tân Ước từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latin, và rồi đã kết hợp cả hai thành một bộ sách (khoảng năm 400), cũng không bao giờ ghi số chương và số câu vào đó. Thánh Kinh đã không phân chia thành chương và câu cho đến năm 1205, khi Đức Tổng Giám mục của Canterbury là Stephan Langton đã ấn định con số các chương để việc đọc Thánh Kinh được dễ dàng hơn. Phải mất thêm ba thế kỷ rưỡi nữa, vào năm 1550, việc phân chia các câu mới được Robert Stephanus thêm vào. Điều đó có nghĩa rằng, không có con số 3,16 [trích lược chương 3 câu 16] cho tới năm 1550. Người ta phải nhớ các đoạn trích trọn vẹn trong toàn thể Thánh Kinh trước khi họ có thể nói cách đơn giản “Matthêu 16,18” hay bất cứ đoạn trích nào khác. Chi tiết thú vị khác là các tác giả thánh đầu tiên cũng không sử dụng bất cứ chức năng nào của các dấu chấm câu. Các dấu phảy, dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than và các dấu khác đã không tồn tại vào lúc các cuốn sách Thánh Kinh được viết ra. Sau này các dịch giả thêm các dấu ấy vào, để làm cho phù hợp với ngôn ngữ bản xứ và các qui luật văn phạm của các ngôn ngữ.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 35.
2022
Mạc khải là gì?
Mạc khải là gì?
Từ ngữ “mạc khải” xuất phát từ revelare trong tiếng Latin, có nghĩa là “tiết lộ.” Tiếng Hy-lạp sử dụng từ apokalupto, (từ đó chúng ta có từ “apocalypse”) và tiếng Do Thái dùng từ galad cũng có nghĩa là “không che đậy” hay “tiết lộ.” Kéo bức màn ra để tỏ lộ điều gì đó đằng sau là chìa khóa để hiểu mạc khải trong Thánh Kinh. Hòm Bia Giao Ước chứa đựng 10 lời của Thiên Chúa (Debarim) hay còn gọi là Mười Điều Răn, và được đặt trong Đền thờ Giêrusalem. Nơi đặt Hòm Bia được tách riêng khỏi những phần còn lại của Đền Thờ bằng một bức màn, và căn phòng ấy được gọi là Nơi Cực Thánh. Không ai có thể đi vào phía sau bức màn trong Nơi Cực Thánh và đứng trước Hòm Bia Giao Ước ngoại trừ vị Thượng Tế, và vị ấy chỉ được phép thực hiện công việc ấy một lần mỗi năm vào Ngày lễ Xá Giải. Mạc khải là việc “tiết lộ” Lời của Thiên Chúa.
Mạc khải tự nhiên là một các thức mà qua đó, con người bình thường nhờ khả năng của chính mình, có thể xác định được những chân lý chắc chắn. Mọi người đều biết lửa thì nóng bởi vì, ít nhất, mọi người đã cảm nhận được sức nóng của một ngọn lửa. Sự hiểu biết đó là mạc khải tự nhiên. Chân lý mang tính thực nghiệm là điều có thể được quan sát bởi các nhà khoa học ngang qua quá trình quan sát và thí nghiệm. Chân lý triết học là điều có thể được suy ra ngang qua khả năng của lý trí. Chẳng hạn: 2 + 2 = 4 là một chân lý tự thân hay chân lý hiển nhiên. Trường hợp 2 + 2 = 5 là một chân lý mang tính luận lý và có tính cách triết học. Điều tương tự áp dụng cho thực tại là nếu A = B và B = C, thì A = C phải đúng. Tương tự như vậy, nguyên lý không mâu thuẫn trong triết học phát biểu rằng một điều gì đó không thể đồng thời không là nó; chẳng hạn, bạn không thể sống và chết cùng một lúc, bởi vì những [nội hàm của] thuộc từ ấy loại trừ lẫn nhau. Hoặc là bạn sống hoặc là bạn chết, nhưng bạn không thể vừa sống vừa chết cùng một lúc được.
Tuy nhiên, chân lý thần học thì không được biết đến qua khả năng của lý trí hay quan sát, thậm chí không nhất thiết mâu thuẫn với khoa học và triết học. Chân lý thần học được biết đến bởi mạc khải thần linh và được chấp nhận trong đức tin. Đức tin là sự tin tưởng vào điều mà chỉ riêng lý trí con người thôi thì không thể biết được. Đức tin là nhận lấy lời của một ai đó mà không cần có bằng chứng thực nghiệm. Chân lý được mạc khải cho biết rằng có một Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chân lý được mạc khải ấy là chân lý mạc khải mang tính thần học và thánh thiêng. Mạc khải cho biết Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Thứ Hai của Ba Ngôi hoặc Chúa Giêsu Kitô là một Ngôi vị thần linh với hai bản tính, bản tính nhân loại và bản tính thần linh, được truyền tải qua mạc khải thánh thiêng. Chính vì nhờ đức tin, mà chúng ta tin tưởng vào những chân lý mạc khải thần linh này.
Do đó, các thần học gia định nghĩa mạc khải như là việc Thiên Chúa tiết lộ hay phơi bày những chân lý siêu nhiên cần thiết cho ơn cứu độ của chúng ta. Mạc khải thần linh đến từ Thiên Chúa và có thể được lưu chuyển vào Thánh Kinh hoặc Thánh Truyền.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 23-24.
2022
Đâu Là Sự Khác Biệt Giữa Thánh Truyền Và Thánh Kinh?
Đâu Là Sự Khác Biệt Giữa Thánh Truyền Và Thánh Kinh?
Thánh Kinh chỉ là một cách nói khác để chỉ bộ “Kinh Thánh.” Thánh Truyền đề cập đến những gì không được viết ra nhưng những điều ấy cũng được mặc khải thiêng liêng như Thánh Kinh. Cách tốt nhất để hiểu khái niệm mặc khải của Công Giáo là xem mặc khải như là Lời Thiên Chúa đã được tỏ lộ. Thánh Kinh là Lời được ghi chép và Thánh Truyền là Lời không được ghi chép ra thành văn tự hoặc Lời truyền khẩu. Cả Lời được hay không được ghi chép làm nên toàn bộ mặc khải của Thiên Chúa.
Điều này không có nghĩa là Thánh Kinh và Thánh Truyền cạnh tranh với nhau. Trên thực tế, vì cả hai đều đến từ cùng một nguồn mạch là Thiên Chúa, nên không thể mâu thuẫn với nhau được. Thánh Truyền có trước Thánh Kinh, vì Lời không được ghi chép này đã được nói từ hàng thế kỷ và nhiều thế hệ trước khi nó được chép ra. Trẻ em Do Thái được ông bà và cha mẹ kể về Ađam và Evà, Cain và Aben, Nôê và con tàu, Abraham và Isaac, v.v… Thời xưa, không có sách hay kinh sách nào cả. Môsê có thể là người đầu tiên viết sách Sáng Thế, nhưng nội dung của Sáng Thế Ký đã được biết đến nhiều thế kỷ trước khi ông sinh ra. Người ta nói về những lời đã được mặc khải của Cựu Ước; chỉ sau đó những lời đó mới được tác giả thánh viết nên.
Ngay cả trong Tân Ước, Thánh Truyền cũng có trước bản văn Phúc Âm. Lúc đầu, các tông đồ chỉ kể lại cho dân chúng những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm (rao giảng). Sau đó, các tác giả Phúc Âm mới viết bản văn Tin Mừng. Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan đã không ghi chép gì ngay khi Chúa Giêsu rao giảng hoặc làm phép lạ. Truyền khẩu có trước và sau đó là lời được ghi chép; cả hai đều chứa cùng một sứ điệp.
Ngay cả Phúc Âm Gioan cũng kết thúc bằng câu: “Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21,25). Những điều khác là phần của Thánh Truyền. Việc Chúa Giêsu không bao giờ kết hôn không được nói rõ trong Thánh Kinh, nhưng bất cứ nơi nào Thánh Kinh im lặng hoặc mơ hồ, thì Thánh Truyền sẽ lấp đầy khoảng cách ấy. Theo Thánh Truyền thì Chúa Giêsu không bao giờ lập gia đình và cũng không có con cái. Truyền thống tin là Đức Trinh Nữ Maria đồng trinh suốt cuộc đời và không có người con nào ngoài Chúa Giêsu. (Để biết thêm về vấn đề này, xem Câu hỏi 31.) Thánh Truyền xác định sách nào thuộc về Kinh Thánh và sách nào không.
Thay vì tách đôi giữa Thánh Kinh (Kinh Thánh) và Thánh Truyền, thì cả hai giống như hai lá phổi trong một thân thể, hoặc hai mặt của một đồng tiền. Cả hai đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và cả hai đều được Hội Thánh giải thích một cách chân thực.
Thánh Truyền ngang bằng với Thánh Kinh vì cả hai đều bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Mặc khải thần linh xuất phát từ cả hai phương thế của cùng một nguồn mạch (Thiên Chúa). Nếu có mâu thuẫn xuất hiện giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền, thì đó là do việc sao chép, chuyển ngữ, hay giải thích bản văn. Vì bản thân Thánh Kinh không bao giờ đưa ra một danh sách đầy đủ về những cuốn sách nên hay không nên được xem là một phần của Thánh Kinh, chỉ có Thánh Truyền mới có thể nói cách không sai lầm cuốn sách nào được linh hứng và cuốn nào không. Không có cuốn sách nào được linh hứng viết rằng “tôi được linh hứng,” và không tác giả thánh nào biết được rằng mình đã được linh hứng vì không ai nói như vậy bao giờ.
Thánh Truyền khác với truyền thống của con người. Truyền thống bắt nguồn từ tiếng Latin artumon, nghĩa là “truyền lại.” Truyền thống của con người thì bất toàn, thiếu sót, có thể sai lầm, và có thể thay đổi. Nhiều phong tục tôn giáo của người Do Thái và Kitô hữu đều là truyền thống của con người, nghĩa là, do con người tạo ra. Thánh Truyền bắt nguồn từ Thiên Chúa và được Thiên Chúa tạo nên. Nó không thể thay đổi. Đó là lý do tại sao sẽ không bao giờ có thêm một cuốn sách nào được bổ sung vào bộ Thánh Kinh. Thánh Truyền nói rằng mặc khải đã kết thúc với cái chết của Thánh Gioan- người được thương mến (khoảng năm 100). Bất kỳ bản viết nào được khám phá sau đó sẽ không bao giờ được đưa vào trong các phiên bản tương lai của bộ Thánh Kinh. Chẳng hạn các Ngụy thư của phái Ngộ đạo, như Phúc âm của Thánh Maria Mađalena được viết vào thế kỷ thứ ba hoặc thứ tư.
Có một sự khác biệt giữa những gì Giáo Hội nhìn nhận về Thánh Truyền và những gì đơn thuần chỉ là truyền thống con người. Thánh Phaolô nói trong Thư 2 Thêxalônica 2,15: “Vậy, thưa anh em, anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ.” Từ ngữ Hy Lạp ban đầu được Thánh Phaolô sử dụng là paradoiseis, nghĩa là “các truyền thống.” Điều này không mâu thuẫn với những gì ngài nói trong Thư 2 Timôthê 3,16: “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính,” vì Thánh Phaolô không bao giờ nói chỉ Thánh Kinh (sola scriptura) hoặc chỉ trong Thánh Kinh mới được thấy sự linh hứng, như quan điểm của Martin Luther. Chính Thánh Phaolô là tác giả của Thư 2 Thêxalônica 2,15 và 2 Timôthê 3,16, và cả hai thư này đều nằm trong Thánh Kinh và được coi là bản văn được linh hứng. Ngài cũng nói trong Thư 1 Côrintô 11,2 ” Tôi có lời khen anh em đã nhớ đến tôi trong mọi dịp và nắm giữ các truyền thống tôi đã để lại cho anh em.”
Với những câu được trích dẫn như trên, Thánh Phaolô không gặp vấn đề gì với Thánh Truyền. Ngài quan tâm đến truyền thống và phong tục của con người đã được khởi đi từ bối cảnh hoặc được chú ý nhiều hơn và ưu tiên hơn các truyền thống có nguồn gốc thần linh. Trong Mátthêu 15,3 Chúa Giêsu khiển trách những người Pharisêu: “Tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?” Chìa khóa ở đây là từ “của các ông.” Khi Chúa Giêsu nói về “truyền thống của các ông,” nó phân biệt và tách biệt khỏi truyền thống “thần linh” hay “thiêng liêng.” Các truyền thống của con người, do con người tạo ra mà người Pharisêu giữ gìn cẩn thận thì không cao hơn hay thậm chí không ngang bằng với các truyền thống bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 37-39.