2022
Bữa tiệc ly của Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống
Bữa tiệc ly của Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống
Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu là đỉnh cao của nghi lễ phụng vụ trong Giáo hội Công giáo. Cuộc thương khó này bắt đầu từ biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem cho đến lúc Chúa Giêsu được mai táng trong mồ. Trong đó, các bản văn Tin Mừng đều thuật lại Bữa tiệc ly như là nghi thức quan trọng không chỉ vì là dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái, nhưng còn vì đó là nơi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ cử hành “thánh lễ đầu tiên”, nơi mà Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể, và bí tích Truyền Chức Thánh. Bữa tiệc ly trong Tin Mừng nhất lãm ngắn gọn hơn so với Gioan. Tuy vậy, cả bốn Tin Mừng đều cho thấy những nét tương đồng ít nhiều về bữa tiệc này.
Để chú giải bản văn (Mt 26,17–29), chắc chắn chúng ta cần đi vào truyền thống lịch sử của ngày lễ Vượt Qua, để qua chú giải về mặt văn chương và lịch sử, sự phong phú của bản văn được làm nổi bật. Trên hết, khi đi vào từng lớp nghĩa của bản văn, tôi muốn cho thấy Bữa tiệc ly thực sự là nguồn mạch sự sống mà Thiên Chúa dành cho con người ở cả chiều kích chú giải bản văn cũng như chiều kích phụng vụ.
- Bối cảnh lịch sử của bữa tiệc ly
Hầu hết các học giả đều cho rằng Bữa tiệc ly thuộc về dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái, một bữa ăn tối đặc biệt như lời giải thích của rabbi Gamaliel (sống ở thế kỷ 1): “Nhiệm vụ của mỗi người ở mọi thế hệ cần nhắc nhớ mình về việc được giải thoát khỏi ách thống trị ở bên Ai Cập”.[1] Sách Xuất Hành cũng ghi lại chi tiết về một bữa tối sau cùng ở Ai Cập: “Trong ngày ấy, ngươi sẽ kể lại cho con của ngươi rằng: Sở dĩ như vậy là vì những gì Đức Chúa đã làm cho cha khi cha ra khỏi Ai Cập.” (Xh 13,8). Ngoài ra, Gamaliel còn cho biết mục đích của bữa tối như là thời gian để dân Do Thái ngợi khen, chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa đã giải phóng họ khỏi ách nô lệ: từ đau thương đến niềm vui, từ buồn sầu đến hân hoan của ngày lễ, từ bóng tối đến ánh sáng. Việc hát Thánh Vịnh có thể lột tả được những tâm tình này.
Về mặt thời gian, vì Bữa tiệc ly nằm trong dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái nên đó là ngày 14 tháng Ni-xan. Dịp này người dân thường hành hương lên đền thờ Giêrusalem để tham dự lễ hiến tế con chiên. Hình ảnh con chiên cũng nhắc nhở dân rằng mệnh lệnh của Thiên Chúa dành cho dân trước đêm rời khỏi Ai Cập (x. Xh 11,10-14). Đây là buổi lễ vượt qua mà chính Chúa Giêsu cũng lên Giêrusalem, như nhiều lần trước, để tham dự. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình trong dịp lễ này. Chính Ngài cũng chuẩn bị cho bữa tối này trong bí mật.[2] Dường như Chúa Giêsu cũng cảm thấy mối nguy hiểm từ phía Thượng Hội đồng, Tin Mừng nhất lãm đều cho thấy Chúa Giêsu gửi các môn đệ đi nhận phòng dùng cho bữa tối[3]. Trong mạch văn này, chúng ta nhận thấy hôm ấy chỉ có Chúa Giêsu và các môn đệ.[4]
Ngay từ câu 17, Mátthêu cho biết thời gian và bối cảnh của Bữa tiệc ly: “Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men-ἄζυμος.” Ngày này đúng ra bắt đầu từ sau bữa ăn Vượt Qua (chiều ngày 14 tháng Ni-xan, x. Xh 12,1; 23,14). Tuy nhiên, kiểu nói của Mátthêu cũng cho thấy bữa ăn cuối cùng này đối với Chúa Giêsu cũng là ăn lễ Vượt Qua. Thánh Gioan thì cho rằng lúc này là thời gian canh thức chờ ngày lễ Vượt Qua (Ga 13,1). Lúc đó, chính Chúa Giêsu sẽ là con chiên hiến tế trong đền thờ (Ga 19,31. 42). Vượt Qua là một trong những lễ lớn của người Do Thái, nên chắc chắn đám đông sẽ đổ về Giêrusalem để mừng trong những ngày này. Hơn nữa, sẽ có những nghi thức mà Chúa Giêsu và các môn đệ cũng sẽ cử hành trong dịp này.
Về giờ cụ thể cho Bữa tiệc ly, bản dịch của các Giờ Kinh Phụng Vụ (2011) dùng từ: “Chiều đến”. Cần hiểu rằng văn hóa của người Palestine, họ không dùng bữa tiệc Vượt Qua trước khi mặt trời lặn; nghĩa là trời tối, họ mới ăn bữa Vượt Qua. Bản Hy Lạp dịch: “Khi trời đã tối-Ὀψίας-when evening came”; và theo mạch văn, bữa tiệc Vượt Qua diễn ra ở nội thành Giêrusalem[5].
- Thiết lập Bí Tích Thánh Thể
Bữa tiệc Vượt Qua thường rất dài với nhiều nghi thức phụng vụ và cả món ăn, thức uống theo truyền thống của người Do Thái. Trước khi phân tích những điều này, về bản văn, chúng ta thấy chính Chúa Giêsu thông báo về một người sẽ nộp Ngài. Giọng văn cho thấy Chúa Giêsu đã biết trước ai là người phản bội mình, nên nói: “Thầy bảo thật cho anh em, một người trong anh em sẽ nộp thầy.” (Mt 26,20). Dĩ nhiên đây là một tin rất sốc cho các môn đệ, bởi không ai có thể tưởng tượng được người nào dám làm chuyện này. Các môn đệ buồn sầu và nhiều người đã hỏi Chúa Giêsu. Câu trả lời của Ngài là: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với thầy, đó là kẻ nộp thầy.” Câu nói này gợi nhớ lại lời thánh vịnh: “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!” (Tv 41,10). Ở câu 25, Mátthêu nêu đích danh người phản bội Chúa Giêsu chính là Giuđa Ítcariốt với lời xác nhận của Chúa Giêsu: “Chính anh nói đó!” Trong bối cảnh này, sự than vãn của Chúa Giêsu “khốn-οὐαὶ cho kẻ nào nộp Con Người” cần hiểu theo hai nghĩa: 1. thể hiện sự khốn cùng của Giuđa, 2. đồng thời cũng nói lên nỗi đau đớn của chính Chúa Giêsu, vì bị người môn đệ phản bội. Kiểu nói: “Thà người đó đừng sinh ra thì hơn” chỉ là cách Chúa Giêsu lên án tội lỗi của Giuđa, chứ không phải là nguyền rủa người môn đệ này.
Mátthêu và Máccô bắt đầu Bữa tiệc ly bằng việc Chúa Giêsu nói về người môn đệ phản bội. Tuy nhiên, Luca lại chỉ tập trung vào việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Gioan thì cho rằng Bữa tiệc đó không có mặt Giuđa. Như vậy, theo mạch văn của Mátthêu, chúng ta không biết Giuđa có ở lại dùng bữa tối đến cuối không. Trong sự phân biệt này, Giáo hội sơ khởi giải thích cách hiểu của Gioan khi cho rằng Giuđa vắng mặt là: “Không nên rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng.” Về mặt thần học, rõ ràng Gioan cho thấy sự vắng mặt của Giuđa ngay từ đầu bữa tiệc, bởi sự phản bội bao giờ cũng ảnh hưởng tiêu cực đến tình yêu liên vị.[6]
Tạ ơn và chúc tụng
Tuy Mátthêu không trình bày chi tiết nghi thức của bữa tiệc Vượt Qua, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu nhóm của Chúa Giêsu cũng quen với những nghi thức của bữa tiệc này. Chẳng hạn, câu 26 và 27 Mátthêu nhấn mạnh đến hai điểm nổi bật: việc bẻ bánh, như là cử chỉ đầu tiên và nâng chén rượu nho, như là cử chỉ sau cùng. Với việc bẻ bánh, Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng (εὐλογήσας), với việc nâng chén rượu, Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn (εὐχαριστήσας).
Lời chúc tụng là nghi thức quen thuộc dành cho người gia trưởng, người trụ cột trong gia đình đọc cho mọi người nghe. Sau đó họ truyền chén rượu lần một và chia thịt cừu với rau đắng cho mọi người (nghi thức này gợi nhớ lại bữa ăn bên Ai Cập). Chén rượu thứ hai, người trẻ nhất sẽ hỏi về ý nghĩa của ngày lễ. Lúc này, vị gia trưởng kể về nguồn gốc và ý nghĩa của lễ Vượt Qua (הַגָּדָה –Haggadah). Sau đó, họ hát Thánh Vịnh trong lúc chia sẻ rượu cho nhau. Chén rượu thứ ba, vị gia trưởng dâng lời chúc tụng và chia sẻ bánh không men cho mọi người. Như vậy theo Mátthêu, lúc “Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng”, là thời điểm của tuần rượu thứ ba. Trong tuần rượu thứ tư (cuối cùng), họ hát phần thứ hai của Thánh Vịnh, tức Ha-lê-lui-a (Tv 113-118). Như vậy theo Mátthêu “hát thánh vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ ra núi Ô-liu” (Mt 26,30) là lúc kết thúc Bữa tiệc ly.
Nhiều nhà chú giải cho rằng trong khi Chúa Giêsu nâng chén rượu và bẻ bánh, ngài đều dâng lời chúc tụng, tạ ơn[7]. Thực ra trong lời chúc tụng cũng nói lên tâm tình tạ ơn (εὐχαριστήσας), bởi ngôn ngữ Hy Lạp hai từ này có chung tiền tố: “εὐ-tốt lành”. Từ sự tốt lành này, những lễ vật dâng lên Thiên Chúa như là của lễ tạ ơn mà chính Chúa Giêsu đang cử hành trong bữa tiệc ly này. Cũng vì ý nghĩa tạ ơn này, nên từ thời Giáo hội sơ khai Bí tích Thánh Thể được gọi là Lễ Tạ Ơn (εὐχαριστία), vì đây chính là việc tạ ơn Thiên Chúa.[8]
Bánh và Mình Thánh Chúa Giêsu
Một trong những đồ ăn chính của bữa tiệc Vượt Qua là bánh không men. Không hẳn bánh này có thể cung cấp dồi dào chất dinh dưỡng, nhưng đúng hơn, bánh không men gợi nhớ đến biến cố Thiên Chúa giải thoát dân khỏi Ai Cập. Do đó trong bất cứ gia đình Do Thái nào, tiệc Vượt Qua phải có bánh không men, mà nhóm của Chúa Giêsu cũng theo truyền thống của người Do Thái. Tuy nhiên, lúc này thay vì Chúa Giêsu trao bánh cho các môn đệ thì ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra. Liền sau đó, Chúa Giêsu nhìn nhận bánh này không còn là bánh nhưng còn là chính thịt, mình của Ngài. Bản văn gốc tiếng Hipri dùng chữ bāśār (thịt), tuy nhiên bản dịch Hy Lạp thay vì dịch là σάρκα (thịt, x. Ga 6,54-56) lại dùng chữ sôma (mình, thân thể-σῶμά) trong câu tuyên bố của Chúa Giêsu: “Đây là mình Thầy–τοῦτό ἐστιν τὸ σῶμά μου”. Các nhà chú giải cho rằng “thân thể” cũng có nghĩa là “thịt”, tức là toàn thể cuộc đời, sự sống của Chúa Giêsu.
Nếu ngày xưa dân ăn bánh không men trước đêm Vượt Qua, thì hôm nay, chính Chúa Giêsu trao mình Ngài cho các môn đệ. Thánh Luca diễn tả việc hiến tế này của Chúa Giêsu: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em.” (Lc 22,19). Nếu như ngày xưa dân giết con chiên để ăn lễ Vượt Qua, thì hôm nay chính Chúa Giêsu hóa nên thịt để nuôi sống các môn đệ. “Anh em hãy cầm lấy mà ăn” không chỉ như là sự chia sẻ sự sống của Chúa Giêsu với các môn đệ, nhưng trong ngôn ngữ Kinh Thánh, việc “cầm lấy mà ăn” còn thể hiện sự linh thiêng, thần linh vốn được sách Khải Huyền diễn tả: “Tôi đến gặp thiên thần và xin người cho tôi cuốn sách nhỏ. Người bảo tôi: Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong.” (Kh 10,9).
Chén rượu và Máu Thánh Chúa Giêsu
Rượu là thức uống không thể thiếu trong các bữa tiệc. Nhất là bữa Vượt Qua, rượu như là biểu tượng của máu con chiên bôi trên cửa trong biến cố Vượt Qua. Hôm nay, chính Chúa Giêsu cũng dùng rượu như là thức uống để biến hóa thành máu của chính mình. Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu và nói: “Đây là máu thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26,28). Ở đây Mátthêu dùng lối diễn tả “bao trùm”, nghĩa là “tất cả anh em hãy cầm lấy mà uống” và “muôn người-πολλῶν được tha tội”. Lối diễn tả này cho thấy rượu mà Chúa Giêsu đang dâng lên chính là máu của Ngài sẽ đổ ra, nhất là trên cây thập giá (Ga 19,34). Nhờ cái chết và sự phục sinh này mà muôn người sẽ được cứu độ.[9]
Ở đây, Mátthêu cho thêm thuộc tính vào danh từ “máu-αἷμά”, đó là “máu giao ước-διαθήκης”. Thánh Luca viết rõ hơn: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Lc 22,20). Hoặc “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới.” (1Cr 11,25). Tuy nhiên, Mátthêu dường như nhấn mạnh đến tính chất tha tội của giao ước mà tiên tri Giêrêmia và Êdêkien đã nhắc đến trong Cựu Ước[10], vốn giao ước gắn liền với ơn tha tội, hơn là tính từ “mới-καινὴ”. Dẫu sao ở đây Máu Chúa Giêsu cũng gợi nhớ đến giao ước cũ vốn được Đức Chúa ký ước với dân ở núi Sinai (Xh 24,3-8); hôm nay, Ngài thiết lập giao ước mới, bí tích Thánh Thể vốn dành tặng cho muôn người.
Như vậy, bánh và rượu với lời tạ ơn chúc tụng của Chúa Giêsu, đã trở nên thịt và máu của Ngài[11]. Các nhà chú giải, cũng như truyền thống Giáo hội đều cho rằng hành động này nói lên việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể[12]. Trong Thánh Lễ đầu tiên này, Chúa Giêsu là linh mục tiên khởi, là thượng tế tối cao, đã trao hiến trọn vẹn con người mình cho các môn đệ đang dùng bữa tối với Ngài. Hơn nữa, Tin Mừng nhất lãm còn cho thấy cuối Bữa tiệc ly, ngoài lời trăn trối (thầy không còn uống sản phẩm này), Chúa Giêsu còn nhắc đến một Thánh Lễ, một Tiệc Thánh Thể ở Nước Trời (Lc 22,18; Mt 26,29). Theo đó, truyền thống Giáo hội cũng cho rằng “bữa ăn này cũng nói lên sự tiền dự vào Bữa Tiệc Cưới Con Chiên tại Giêrusalem trên trời.” (GLGTCG 1329).
- Mình Máu Thánh Chúa Kitô! Amen
Sau khi chú giải về Bữa tiệc ly, David L. Turner nhận xét rằng: “Bí tích Bữa tiệc ly của Chúa Giêsu không phải là việc tưởng nhớ một cách cứng nhắc, nhàm chán, hoặc là nguồn ân sủng tự động tuôn chảy đến mỗi người. Trên hết, khi đón nhận trong đức tin, Bí tích này củng cố, nâng đỡ và có sức năng động cho cộng đoàn tín hữu Chúa Kitô.”[13] Vì lý do này, ngay từ Giáo hội sơ khai, bí tích Thánh Thể luôn là trung tâm đời sống đức tin của các tín hữu. Ngoài việc thực hiện lại lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, các tín hữu còn cử hành lễ bẻ bánh này như là bữa tiệc của tình yêu[14].
Do đó, đặc biệt ngày thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội không chỉ cử hành Thánh lễ Truyền Dầu, nhớ lại bí tích Truyền Chức Thánh, mà còn cử hành lại Bữa tiệc ly. Nơi đó, bốn tác giả Tin Mừng đều cho thấy chính Chúa Giêsu đã, đang và sẽ trở nên Mình và Máu để nuôi dưỡng những ai đón nhận Ngài. Hoặc như Thánh Gioan Vianney nhắn nhủ rằng: “Không rước lễ thì giống như chết khát bên dòng suối.” (Youcat 211). Hình ảnh thật đẹp biết bao khi dòng người lên đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô trong mỗi thánh lễ!
Với Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo hội còn gọi Thánh Lễ là bữa tiệc vui mừng. Đây là bữa tiệc của Chúa Giêsu với mỗi người tham dự. Nơi đó, Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế chính mình Ngài trên bàn thờ. Ngoài việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trong Thánh Lễ, Giáo hội còn cho thấy đây là phụng vụ thần linh, mầu nhiệm thánh. Nghĩa là việc cử hành Thánh Thể là thời gian hân hoan giữa Hội thánh trên trời và dưới đất. Đây là bí tích cực thánh vì trong bánh và rượu có sự hiện diện của chính Chúa Giêsu.
Ước gì trong khi tìm hiểu về Bữa tiệc ly cũng là dịp để mỗi người trân quý món quà này của Chúa Giêsu. Đây là điều sống còn dành cho các tín hữu; bởi trên đường dương thế, chúng ta sẽ chẳng đủ sức nếu không đón nhận của ăn thần linh này. Lời Chúa Giêsu hằng đảm bảo cho mỗi người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6,54).
Khi linh mục nói: Mình Máu Thánh Chúa Kitô, người rước lễ thưa: Amen. “Ἀμὴν-Amen” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là: “Đúng như thế, thật vậy” (Mt 26,21). Đây là một lời tuyên bố xác nhận điều gì đó. Trong Cựu Ước, Amen còn mang nghĩa: “mong được như thế”, để làm cho mong ước hoạt động của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn, hoặc để liên kết với lời ca tụng Thiên Chúa. Amen còn biểu lộ sự đồng tình với một lời nói (x. Gr 28,6), hoặc chấp nhận một sứ mạng (Gr 11,5). Trong Tân Ước, Amen được dùng để tăng cường cho kết luận của lời cầu nguyện. Chính Chúa Giêsu cũng là Amen của Thiên Chúa Cha, vì Ngài thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa. (2Cr 1,19–20).
Với những ý nghĩa trên, chúng ta thấy lời tuyên xưng Amen khi đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô thật đẹp biết bao. Khi đó, người rước lễ cùng với thừa tác viên cho rước lễ xác tín mình đón nhận cả “con người” Chúa Giêsu.[15] Về mặt vật lý, dù họ chỉ nhận một tấm bánh, một chút rượu, nhưng về mặt bí tích, họ xác tín mình đang rước trọn vẹn Chúa Giêsu vào tâm hồn. Khi đó, họ được nên một cùng với Ngài (x. Ga 6,56). Hoặc nói như thánh Phanxicô Salêsiô: “Trong Thánh Thể, ta nên một với Thiên Chúa, như lương thực nên một với thân xác.” (YouCat 211).
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã trao ban Mình Máu Ngài cho con nơi Bí Tích Thánh Thể, trong Bữa Tiệc Ly. Đó là nguồn mạch sự sống dành cho mỗi người chúng con. Ngài đã trở nên của ăn thần linh nuôi sống con trên cuộc đời dương thế. Con mời Chúa vào tâm hồn con lúc này. Nhờ đó, Mình Máu Thánh Chúa thánh hóa cuộc đời con nên nhân chứng giữa đời. Amen.
[1] Ortensio da Spinetoli, Máté-Az egyház evangéliuma, Agapé, Szeged, 1998, 707.
[2] Về khoảng cách thì phòng tiệc ly gần với nhà Cai-Pha làm thượng tế năm đó. Đấy cũng là nơi Thượng Hội Đồng đang tìm bắt Chúa Giêsu. (Mt 26, 57). Lính tráng sẵn sàng võ trang để truy tìm Thầy lúc này. Bởi đó Thầy trò Giêsu cần bí mật bởi chốn này là “tai vách mạch dừng”.
[3] Mt 26,18; Mc 14,13; Lc 22,10.
[4] Stuhlmacher, Peter: Az Újszövetség bibliai teológiája 1. Alapvetés. Jézustól Pálig (ford. Koczó Pál), Kálvin Kiadó, Budapest, 2017, 138.
[5] Frank E. Gaebelein (editor), Expositors Bible Commentary, Volume 8, Regency, 1984, 531.
[6] Dr Jakubinyi György, Máté Evangélium, Szent István Társulat, Budapest, 1991, 290.
[7] Dr Jakubinyi György,Máté Evangélium, Szent István Társulat, Budapest, 1991, 293.
[8] “Tân Ước dùng các từ Hy Lạp eucharistein (x. Lc 22,19; 1Cr 11,24) và eulogein (x. Mt 26,26; Mc 14,22), gợi nhớ lại việc người Do Thái, đặc biệt trong bữa ăn, ca ngợi Thiên Chúa vì những kỳ công Người đã thực hiện: sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa.” (GLHTCG số 1328).
[9] Frank E. Gaebelein (editor), Expositors Bible Commentary, Volume 8, Regency, 1984, 538.
[10] Gr 31,31-34; Ed 36,26-28.
[11] Mt 26,26-28; Mc 14,22-24; Lc 22,19; 1 Cr 11,23-25.
[12] GLHTCG 1323.
[13] Robert W. Yarbrough and Robert H. Stein (editors), Baker Exegetical Commentary on the New Testament, Baker Academic, 2008, 626.
[14] X. Cv 2,42; 20:7–12; 1Cr 11,20–22; 2Pr 2,13.
[15] Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nhắn với các linh mục rằng: “Mỗi khi trao Chúa Giêsu Thánh Thể cho giáo dân, con hãy ý thức trao cả đời con, thời giờ của con, sức khỏe, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người không phân biệt ai.” (Đường Hy Vọng 376.) Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Thứ Năm Tuần Thánh 2022
2022
Việc bái gối trước Thánh Giá được hiểu ra sao?
Việc bái gối trước Thánh Giá được hiểu ra sao?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi 1: Có người hỏi tại sao người Công Giáo bái gối trước Thánh giá từ Thứ Sáu Tuần Thánh đến Thứ Bảy Tuần Thánh, bởi vì hành động bái gối chỉ được dành riêng cho Phép Thánh Thể trong giờ chầu. Như vậy, việc bái gối trước Thánh giá phải chăng là hành vi của thờ ngẫu tượng? – M. U., Lagos, Nigeria.
Hỏi 2: Trong Thứ Sáu Tuần Thánh, phụng vụ của buổi cử hành này nói rằng một phần của buổi cử hành là nghi thức Thờ lạy (adoration) Thánh Giá, với ba lần cộng đoàn thưa: “Ta hãy đến thờ lạy…” Con nhớ lại rằng trước đây nghi thức được gọi là Suy tôn (Veneration) Thánh Giá. Các tín hữu Tin lành thường cáo buộc người Công Giáo thờ phượng các ảnh và tượng. Con đã luôn trả lời cho họ rằng chúng tôi chỉ thờ lạy Chúa, và chúng tôi có thể “suy tôn” các biểu tượng khác. Từ ngữ “thờ phượng” (worship) có xu hướng ủng hộ lập trường của họ. Xin cha cho một lời giải thích về việc dùng từ ngữ này. – J. D., Williams Lake, British Columbia, Canada.
Đáp: Tiêu đề chính thức của nghi thức này là “Suy Tôn Thánh Giá”, và câu đáp cho lời mời gọi: “Đây là cây Thánh giá, nơi treo Đấng Cứu Độ Trần Gian” là “Ta hãy đến thờ lạy” (“Venite adoremus”).
Từ “thờ phượng” (worship) trong tiếng Anh hiện đại thường là, mặc dù không phải là chuyên thuộc, dành riêng cho việc thờ Chúa.
Đúng là Giáo Hội không đưa ra một hành động thờ lạy một tượng gỗ, nhưng thờ lạy Chúa Kitô. Cũng vậy, nghi thức tôn thờ Thánh giá vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh được mặc một cường độ đặc biệt, vốn là khác với việc kính trọng đối với thánh giá trong suốt phần còn lại của năm. Điều này được diễn tả bởi sự việc rằng, từ lúc cử hành cuộc Thương Khó và Thứ Bảy Tuần Thánh đến lễ Vọng Phục Sinh, mọi người bái gối trước Thánh Giá (Cross) hay Thánh giá có hình Chúa (Crucifix), được sử dụng trong buổi cử hành.
Sự bái gối (genuflection, từ tiếng Latinh “genu flectere”, nghiêng gối) là một cử chỉ thể hiện một loạt thái độ suy tôn và kính trọng. Ngày nay, hành động bái gối được liên kết chặt chẽ đến hành động thờ lạy Thiên Chúa. Thật vậy, đây là nghĩa duy nhất được đề cập trong Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (GIRM):
“274. Bái gối, nghĩa là gối phải nghiêng đụng đất, là cử chỉ thờ phượng, do đó dành cho Thánh Thể và Thánh Giá từ khi được tôn kính trọng thể trong phụng vụ thứ Sáu Thánh tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa, cho đến bắt đầu Vọng Phục Sinh” (Bản dịch Việt ngữ của Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Chí Cần, Giáo Phận Nha Trang).
Trong khi lời này là đúng, hành động bái gối đã được giải thích cách rộng rãi hơn, và không phải chỉ dành cho sự thờ lạy. Sự bái gối là một bổ sung khá gần đây vào thực hành phụng vụ, và chỉ trở nên bắt buộc sau năm 1502. Ngoài việc sử dụng hành động này như là một hành động thờ lạy Phép Thánh Thể, việc bái gối được quy định khi tín hữu đọc câu “Người đã nhập thể” trong Kinh Tin Kính ngày lễ Giáng sinh, và ngày lễ Truyền Tin. Việc bái gối cũng được dự kiến cho bất kỳ sự suy tôn Thánh Giá Thật nơi công cộng, và trong Tam nhật thánh như đã thấy ở trên. Cho đến gần đây, việc bái gối được chỉ định trong sự hiện diện của một Giáo hoàng, và bất cứ khi nào Giám mục giáo phận đi tới, khi Ngài chủ trì một buổi lễ.
Bên ngoài phụng vụ, lòng đạo đức bình dân đã có nhiều dịp cho việc bái gối. Thí dụ, nhiều người Công Giáo có thói quen bái gối, khi đi Đàng Thánh giá, lúc đọc “Adoramus Te, Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa, và chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh giá mà chuộc tội cho thiên hạ”.
Ngoại trừ các việc bái gối nay đã bỏ (trong hình thức thông thường) đối với Đức Giáo Hoàng và Giám mục, tất cả các lần bái gối khác, một cách nào đó, phản ảnh sự thờ lạy Chúa Kitô, hoặc thực sự hiện diện trong Phép Thánh Thể, hoặc được biểu trưng bằng một cách đặc biệt.
Do đó, bởi vì cử chỉ bái gối là không chỉ dành cho sự thờ lạy Chúa, việc bái gối vào Thứ Sáu Tuần Thánh và Thứ Bảy Tuần Thánh không hề ngụ ý bất kỳ hình thức ngẫu tượng nào.
Từ viễn tượng lịch sử, lý do cho sự sử dụng cử chỉ suy tôn đặc biệt này, có lẽ là do nghi thức suy tôn Thánh giá có nguồn gốc tại Giêruxalem vào cuối thế kỷ IV, và tại Rôma vào thế kỷ VII, và được hướng tới các di tích chính của Thánh Giá Thật, vốn được lưu giữ tại các thành phố này.
Chỉ sau đó, khi nghi thức trở thành phổ biến, sự bái gối là dấu hiệu của sự suy tôn, thường được dành riêng cho Thánh Giá Thật, được mở rộng đến Thánh giá có hình Chúa được sử dụng trong buổi lễ.
Trong khi đối tượng thờ lạy hoặc thờ phượng luôn luôn là Chúa Kitô, sự suy tôn đặc biệt Thánh giá vào các ngày này dường như muốn nói rằng, mặc dù nhà tạm trống rỗng, tất cả các ảnh khác được che phủ, và Giáo Hội âm thầm chờ đợi Chúa sống lại, sự hiện diện của Chúa được biểu tượng bởi hình ảnh Thánh giá, mà nhờ đó Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi của mình.
Bằng cách tập trung vào hình ảnh Thánh giá, Giáo Hội, như Louis Bouyer đã nói, “làm cho chúng ta nhận ra những gì không thể được phát hiện bởi ‘các quyền lực’ đã đóng đinh Chúa Vinh Hiển, chính trên Thánh giá của Ngài là sự vinh hiển của chúng ta”.
(Nguyễn Trọng Đa/ Zenit.org 11-4-2017)
2022
Điều gì đã xảy ra với Simon thành Kyrênê sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh?
Điều gì đã xảy ra với Simon thành Kyrênê sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh?
Người ta biết rất ít về những gì đã xảy ra với Simon thành Kyrênê sau khi ông giúp Chúa Giêsu vác cây thập tự đến nơi bị đóng đinh.
Chỉ có một cá nhân duy nhất trong lịch sử thế giới đã thực sự giúp Chúa Giêsu vác thập giá của mình. Ông được nhắc đến với cái tên Simon xứ Kyrênê và rất ít người biết về ông, hoặc những gì đã xảy ra cho ông sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Các sách Tin Mừng chỉ đề cập đến một số chi tiết về người đàn ông bí ẩn này.
“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Kyrênê, tên là Simon; chúng bắt ông vác thập giá của Ngài” (Mátthêu 27:32)
“Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alêxanđê và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Chúa Giêsu” (Máccô 15:21)
Về cơ bản, chúng ta biết rằng Simon gốc ở Kyrênê, một khu vực ở Bắc Phi đã trở thành thuộc địa của La Mã và có một lượng lớn người Do Thái.
Bản thân văn bản dường như nói rằng Simon bị buộc phải vác thập giá của Chúa Giêsu, có nghĩa là ông không có ý muốn bị liên kết với “tội phạm” này.
Anne Catherine Emmerich, một nhà thần bí từ thế kỷ 19, tuyên bố trong cuốn “Khổ nạn đau thương” của mình rằng Simon là một người ngoại giáo.
- Đúng lúc đó, Simon xứ Kyrênê, một người ngoại giáo, tình cờ đi ngang qua, dẫn theo ba đứa con của ông. Ông ta là một người làm vườn, vừa trở về nhà sau khi làm việc trong một khu vườn gần bức tường phía đông của thành phố, và mang theo một bó củi khô. Những người lính nhìn qua cách ăn mặc của ông ta cho rằng ông ta là một người ngoại giáo, bắt ông ta và ra lệnh cho ông ta hỗ trợ Chúa Giêsu vác thập giá của Ngài. Lúc đầu, ông từ chối, nhưng nhanh chóng bắt buộc phải tuân theo, mặc dù các con của ông, sợ hãi, khóc lóc và gây ồn ào, một số phụ nữ xoa dịu chúng và lãnh trách nhiệm trông nom chúng. Simon đã rất khó chịu, và tỏ ra hết sức bực dọc khi bị bắt buộc phải đi cùng một người đàn ông trong tình trạng bẩn thỉu và khốn khổ thảm hại như vậy;
Hơn nữa, Emmerich cũng tuyên bố rằng trải nghiệm này đã thay đổi các con trai của Simon, sau này trở thành Kitô hữu.
- Các con của ông mặc áo chẽn lưng may bằng nhiều mảnh vải đủ mầu sắc. hai anh lớn, tên là Ruphô và Alêxanđê, sau đó gia nhập vào đoàn các môn đệ; người thứ ba trẻ hơn nhiều, nhưng một vài năm sau đã đến sống với Thánh Stêphanô. Simon đã không vác thập giá theo Chúa Giêsu một khoảng thời gian lâu dài nào trước khi ông cảm thấy lòng mình được ân sủng đánh động sâu sắc.
Một số nhà sử học Kinh thánh tin rằng Ruphô và Alêxanđê có thể nổi tiếng trong cộng đoàn Kitô giáo sơ khai, đó là lý do tại sao tên của họ được nhắc đến trong sách Tin mừng.
Ví dụ, Thánh Phaolô đề cập đến một “Ruphô” trong lá thư của ông gửi cho tín hữu Rôma, “Xin gửi lời thăm anh Ruphô, người được Chúa chọn, và thăm mẹ của anh, cũng là mẹ của tôi.” (Rôma 16:13).
Điều gì đã xảy ra với Simon?
Không biết điều gì đã xảy ra với Simon, người đã vác thập giá của Chúa Giêsu theo đúng nghĩa đen. Ông không được tôn kính rộng rãi như một vị thánh, mặc dù thật khó tin rằng việc ở gần Chúa Giêsu đến thế lại không thay đổi được gì nơi ông. Một số truyền thống tôn vinh ông là Thánh Simon xứ Kyrênê, với một ngày lễ vào ngày 1 tháng Mười Hai.
Dù số phận của ông thế nào đi nữa, chúng ta có thể cố gắng chấp nhận cách sẵn lòng thập giá của mình từ Thiên Chúa và để cho sự đau khổ của Chúa Giêsu biến đổi cuộc đời của chúng ta.
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ
2022
Đức Giê-Su Ki-Tô – Đường Đau Khổ
Đức Giê-Su Ki-Tô – Đường Đau Khổ
Là con người, ai cũng phải gặp đau khổ. Đau khổ gắn liền với cuộc sống con người từ khi hình thành trong lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Tuy nhiên, thật khó để đưa ra một định nghĩa tổng quát về đau khổ bởi vì các hình thức đau khổ thật đa dạng. Chẳng hạn, có những người đau khổ vì bệnh tật, vì cô đơn, vì nghèo khổ, vì thiếu hiểu biết, vì sợ hãi, vì bị vu oan giá họa; có những người đau khổ vì những lầm lỗi trong tư tưởng, lời nói hay việc làm; có những người đau khổ vì yêu thương, vì muốn sống thánh thiện, vì xả thân cứu giúp người khác; có những người đau khổ vì ‘quá khôn ngoan và nhiều hiểu biết’ như tác giả sách Giảng viên khẳng định: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn, càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1,18); có những người đau khổ vì chiến tranh, vì bất công xã hội, vì bị phân biệt chủng tộc; có những người đau khổ vì thảm họa thiên nhiên như động đất, núi lửa, thời tiết thất thường hay dịch bệnh.
‘Bóng dáng đau khổ’ hiện diện trong mọi nơi, mọi lúc của đời sống con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Không ai được mọi người yêu mến mà không đau khổ vì họ; không ai khỏe mạnh mà không phải ra công tập luyện; không ai thành đạt mà không phải đổ mồ hôi; không ai giỏi giang mà không phải kiên tâm học hỏi; không ai thánh thiện mà không phải chịu nhiều hy sinh. Người trẻ cũng như người già, người giàu cũng như người nghèo, người vui cũng như người buồn, người sang cũng như người hèn, ai ai cũng phải đối diện với đau khổ. Người lạc quan hay người thất vọng đều cảm nhận đau khổ bao phủ đời mình. Quả thực, đau khổ len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống con người cũng như các hình thái xã hội: Có những người tìm cách để thoát khỏi đau khổ nhưng lại phải chịu nhiều đau khổ hơn; có những người tìm cách để quên đi đau khổ nhưng lại nhớ đến đau khổ nhiều hơn; có những người tìm cách phủ nhận đau khổ nhưng đau khổ càng hiện diện cách rõ nét hơn. Kinh nghiệm cuộc sống cho mọi người nhận thức rằng trong xã hội loài người, không có niềm vui nào lại không pha chút buồn phiền; không có thành công nào lại không vương mùi thất bại; không có tình yêu nào lại vắng bóng ghét ghen. Tắt một lời, không có gì liên quan đến con người mà miễn nhiễm đau khổ: Con người muốn được bình an nhưng gian nan luôn kề cận; con người muốn ánh sáng nhưng bóng tối lại bao trùm; con người muốn tự do nhưng phải đương đầu với muôn hình thức giới hạn.
Dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, đau khổ không chỉ gắn liền với con người mà còn với muôn vật muôn loài. Điều này được thánh Phao-lô diễn tả trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người… Thật vậy, chúng ta biết rằng: Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-22). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy rằng: “Trong sự khôn ngoan và nhân hậu vô biên của Người, Thiên Chúa đã tự ý sáng tạo một thế giới trong ‘tiến trình’ hướng về sự trọn hảo tối hậu. Theo ý định của Thiên Chúa, sự tiến hóa này gồm có việc vật này xuất hiện và vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và cũng có tàn phá trong thiên nhiên. Vì vậy bao lâu mà cuộc sáng tạo chưa đạt được sự trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý” (GLGHCG 310). Như thế, đau khổ gắn liền với tội lỗi, với sự tự do của con người cũng như với tiến trình biến đổi của thế giới thụ tạo.
Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, ba hình thức đau khổ đáng để chúng ta quan tâm là: (1) đau khổ thể lý, (2) đau khổ luân lý và (3) đau khổ đời đời. Đau khổ thể lý được xem là đau khổ tự nhiên liên quan đến thân thể con người. Đau khổ luân lý liên quan đến đến tội lỗi, chẳng hạn, những tội lỗi về tư tưởng, lời nói và hành vi của con người trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và muôn vật muôn loài. Đau khổ đời đời là hậu quả của sự tự do chọn lựa đời sống luân lý của mỗi người. Trong gia đình nhân loại, không ai có thể miễn nhiễm khỏi đau khổ thể lý và đau khổ luân lý. Với thời gian, đau khổ thể lý sẽ qua đi. Đặc biệt, đau khổ thể lý đạt đỉnh điểm trong cái chết của mỗi người. Đau khổ luân lý được hòa giải nhờ tin tưởng, lắng nghe và thực thi giáo huấn của Đức Giê-su. Còn đau khổ đời đời thuộc về những ai từ chối tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện. Đây là hình thức đau khổ chung quyết và không thể thay đổi.
Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ hay đau khổ trong thế giới thụ tạo, bởi vì “mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31). Theo sách Sáng Thế, khi con người vô ơn, khi con người kiêu ngạo, khi con người bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa cũng là khi tội lỗi xâm nhập trần gian và khi tội lỗi xâm nhập trần gian cũng là khi con người phải đối diện với muôn hình thức đau khổ (St 3,1-19). Tác giả sách Khôn Ngoan (sách này được thu thập và soạn thảo cuối cùng trong các sách Cựu Ước, khoảng năm 130 trước Công Nguyên), viết rõ hơn: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,23-24). Dưới nhãn quan của truyền thống Do-thái Giáo thuở ban đầu, đau khổ của con người được xem là hậu quả của tội lỗi. Quan điểm này vẫn còn khá thịnh hành theo dòng lịch sử dân Do-thái cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận biết rằng đau khổ không nhất thiết do hậu quả của tội lỗi.
Câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước giúp con người có cái nhìn mới mẻ hơn về đau khổ. Theo đó, đau khổ được nhìn nhận như là thử thách của Thiên Chúa đối với con người. Ông Gióp bị mất mát quá lớn cũng như mang lấy bệnh tật hiểm nguy. Trong thất vọng, người vợ của ông nói: “Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” (G 2,9). Những người bạn của ông thì lại cho rằng vì tội lỗi của bản thân mà ông phải chuốc lấy tai họa, chẳng hạn như ông Ê-li-phát, người Tê-man nói: “Điều tôi thấy rành rành là những người vun trồng tội ác và gieo tai rắc họa cuối cùng chỉ gặt lấy họa tai” (G 4,8). Tuy nhiên, ông Gióp luôn minh chứng rằng mình vô tội và trong mọi hoàn cảnh, ông ca ngợi lòng nhân từ của Thiên Chúa. Với ông, dù giàu nghèo hay sống chết, ông luôn tín thác vào Người. Ông nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: Xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1,21). Với niềm tin vững chắc, tâm hồn ông luôn hướng về môi trường vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27). Câu chuyện ông Gióp cho thấy hai ý nghĩa của đau khổ vượt xa quan niệm truyền thống: (1) Xét theo chiều kích luân lý: Đau khổ có thể cảnh báo con người xa lánh tội lỗi, tránh được tính kiêu căng hay tự mãn, giữ linh hồn khỏi sa vào vực thẳm, cứu sinh mạng khỏi rơi xuống đường hầm và nhất là đau khổ giáo dục con người (G 33,15-24). (2) Xét theo chiều kích tín lý: Đau khổ nhằm để thử thách, để xem lòng kính sợ Thiên Chúa của ông Gióp có hoàn toàn vô vị lợi hay không. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, cuối cùng ông đã được Thiên Chúa ân thưởng gấp bội và lìa bỏ cõi trần trong bình an (G 42,10-17). Hình ảnh ông Gióp được xem là hình ảnh báo trước Đức Giê-su, Đấng Công Chính phải chịu đau khổ cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su cảm nhận sâu xa những đau khổ của kiếp người, chẳng hạn như Người sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo hèn; hành trình rao giảng là hành trình không nhà cửa; Người mệt nhọc, lo lắng, buồn phiền, khóc lóc; Người bị bà con quê hương xa lánh, những bậc vị vọng trong dân Do-thái khinh bỉ, những người ngoại bang chê cười; Người bị kết tội phá vỡ tập tục truyền thống tổ tiên, nói phạm thượng, gây náo loạn cộng đồng. Thư gửi tín hữu Do-thái nói về Đức Giê-su: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,18). Do đó, Người quan tâm đến mọi người, đặc biệt những ai đau khổ về tâm hồn, thể xác. Chẳng hạn, Người chạnh lòng thương những người vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36); chạnh lòng thương trước những người đói khát và hóa bánh ra nhiều cho họ ăn (Mt 14,13-21); chạnh lòng thương trước những người mù lòa và cho họ được sáng mắt (Mt 20,29-34); chạnh lòng thương trước người bị phong hủi và chữa anh khỏi bệnh (Mc 1,40-45); chạnh lòng thương trước đứa trẻ bị quỷ ám mắc bệnh động kinh và cho em được khỏe mạnh (Mc 9,14-29); chạnh lòng thương trước cái chết của con trai bà góa thành Na-in và làm cho con trai bà hồi sinh (Lc 7,11-17); chạnh lòng thương trước người mù từ lúc mới sinh và giúp ông thoát cảnh tăm tối (Ga 9,1-41). Không những thế, Người đồng hóa mình với những người khổ đau, chẳng hạn như những người đói khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày trong xã hội (Mt 25,31-46).
Trước những người đau khổ, Đức Giê-su dạy các môn đệ rằng không phải mọi hình thức đau khổ là do tội của họ hay của những người thân thuộc. Chẳng hạn, thánh Gio-an trình thuật: “Khi ấy Ðức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này mới sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? Ðức Giêsu trả lời: Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,1-3). Một mặt, chúng ta thấy rằng Đức Giê-su không phủ nhận đau khổ do tội gây nên. Mặt khác, Người mời gọi mọi người hãy mở trí lòng để có thể đón nhận chương trình của Thiên Chúa đối với các hình thức đau khổ trong gia đình nhân loại. Chỉ Đức Giê-su, chỉ Thiên Chúa mới thấu rõ ngọn ngành của đau khổ, còn con người cần biết cộng tác với Thiên Chúa và với nhau trong việc xoa dịu đau khổ cho của chị em mình.
Với Đức Giê-su, đau khổ là bài học quý giá giúp mọi người hoán cải. Thánh Lu-ca trình thuật rằng khi nghe người ta kể về việc tổng trấn Phi-la-tô giết một số người Ga-li-lê cách rùng rợn thì Đức Giê-su cho họ biết rằng không phải những người Ga-li-lê này tội lỗi nhiều hơn những người Ga-li-lê khác. Người cũng nói cho họ biết rằng mười tám người bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết không phải là những người tội lỗi hơn những người khác ở Giê-ru-sa-lem. Hai lần Đức Giê-su nói rằng nếu họ không chịu sám hối thì cũng sẽ chết như vậy (Lc 13,1-5). Với Đức Giê-su, hai biến cố chết chóc thảm thương không phải do tội của những người chết, cũng không phải do sự trừng phạt của Thiên Chúa. Điều người muốn diễn tả là cuộc đời con người đầy những đau khổ, bất trắc và không ai có thể biết trước được. Tâm tình quan trọng nhất mà mọi người cần có là hoán cải, trở về với Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người trong mọi biến cố của cuộc đời. Khi con người sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Người thì bất cứ những gì xảy ra trên trần gian này đều không đáng lo sợ.
Theo thánh Mác-cô, khi Đức Giê-su và các môn đệ trên đường lên Giê-ru-sa-lem thì Người nói với họ: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10,33-34). Như vậy, đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ đã được báo trước, đau khổ được ứng nghiệm (Mt 26,54). Xa hơn thế, khoảng bảy trăm năm trước sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế, lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a cho chúng ta biết: “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53,3); “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Dù biết rằng đau khổ sẽ ập đến, Đức Giê-su vẫn tự nguyện mang lấy để thông phần đau khổ và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của người công chính, của người vô tội, của người chịu đựng vì người khác. Điều này cũng đã được tiên báo trong Cựu Ước: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,4-5). Trong cuộc thương khó, sau khi phản bội Đức Giê-su, Giu-đa đã nhìn nhận: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan” (Mt 27,4). Khi Đức Giê-su tắt thở trên thập giá, viên đại đội trưởng đã thốt lên: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23,47). Sau này, trong hành trình rao giảng Tin Mừng, thánh Phê-rô, người môn đệ trưởng của Đức Giê-su viết: “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2,21-23). Tương tự như vậy, thánh Gio-an, người môn đệ Chúa yêu, cũng viết: “Đức Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi” (1 Ga 3,5). Như thế, Đức Giê-su chịu đau khổ do người khác và vì người khác.
Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa hiện diện trong môi trường thế giới thụ tạo: Vị Thiên Chúa toàn năng, cũng là vị Thiên Chúa mang thân phận con người; vị Thiên Chúa là nguồn gốc của muôn vật muôn loài, cũng là vị Thiên Chúa chịu cảnh đau khổ của muôn vật muôn loài; vị Thiên Chúa thi ân giáng phúc, cũng là vị Thiên Chúa bị người đời khinh khi nhục mạ; vị Thiên Chúa thánh thiện, cũng là vị Thiên Chúa là nạn nhân của tội lỗi; vị Thiên Chúa trao ban bình an, cũng là vị Thiên Chúa bị kết án là nguyên nhân chia rẽ; vị Thiên Chúa là Nguồn Sống, cũng là vị Thiên Chúa chịu chết trên thập giá. Không ai có thể liệt kê hết những nghịch lý nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su trong hành trình trần thế. Cách thức Đức Giê-su tiêu diệt tội lỗi, đau khổ và sự chết hoàn toàn mới lạ so với tâm thức của con người qua mọi thời đại. Quả thực, nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su, lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a về tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa được ứng nghiệm (Is 55,8-9).
Con người thường ngạc nhiên trước những điềm thiêng dấu lạ mà Đức Giê-su thực hiện hơn là những đau khổ của Người. Thực ra, những đau khổ của Người đáng ngạc nhiên hơn những điềm thiêng dấu lạ Người thực hiện. Hai biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Giê-su diễn ra trên núi Ta-bo và núi Sọ giúp mọi người hiểu thêm điều này: Khuôn mặt Đức Giê-su đẫm mồ hôi máu trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn khuôn mặt sáng láng của Người trên núi Ta-bo; hình ảnh Đức Giê-su trần truồng trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn hình ảnh Người với áo trắng sáng láng tinh tuyền trên núi Ta-bo; sự cô đơn của Đức Giê-su trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn sự sum vầy của Người với những môn đệ thân tín cùng Mô-sê và Ê-li-a trên núi Ta-bo; tiếng kêu thương của Đức Giê-su trên núi Sọ “lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” đáng ngạc nhiên hơn tiếng nói của Thiên Chúa Cha “đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” trên núi Ta-bo; bóng tối bao phủ mọi người trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn mây trắng bao phủ Đức Giê-su và các môn đệ trên núi Ta-bo. Quả thực, những điềm thiêng dấu lạ Đức Giê-su thực hiện diễn tả quyền năng vốn có của Người, còn những gì Đức Giê-su chịu đau khổ diễn tả tình yêu huyền nhiệm vượt quá tư tưởng và hiểu biết của con người qua muôn thế hệ.
Đức Giê-su là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa bởi vì Người là Vua mà lại đón nhận đau khổ, là Chúa mà lại chịu khổ đau. Suy niệm và ngắm nhìn Đường Đau Khổ của Đức Giê-su, con người có thể nhận ra rằng trong gia đình nhân loại, người vĩ đại nhất là người chịu đau khổ nhiều nhất. Từ muôn thuở, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Người thuộc Gia Đình Thiên Chúa. Trong thân phận con người, Đức Giê-su là con Đức Ma-ri-a và là con của gia đình nhân loại. Sự vĩ đại nhất của Đức Giê-su không phải là nơi những điều làm cho người ta vỗ tay tán thưởng nhưng là nơi đau khổ cùng cực mà Người phải chịu để cứu giúp con người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, đau khổ và sự chết muôn đời. Nói cách khác, quyền năng vĩ đại nhất mà Đức Giê-su thực hiện là quyền năng diễn tả qua những đau khổ và yếu đuối của Người.
Con người không thể đến với Thiên Chúa nếu không đón nhận tình yêu của Người được thực hiện nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su. Quả thực, Đường Đau Khổ là đường cứu độ, là Đường đem lại sự chữa lành chung cuộc và trọn vẹn cho con người cũng như muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Chính tình yêu của Thiên Chúa nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su mới cho con người câu trả lời đầy đủ nhất về ý nghĩa của đau khổ mà con người phải chịu trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ của Người về điều này: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,12-13). Tình yêu cứu độ (salvific love) của Đức Giê-su chính là tình yêu đau khổ (suffering love) của Người. Điều này có nghĩa rằng thuộc tính của tình yêu Đức Giê-su diễn tả trong hành trình trần thế là đau khổ. Nói cách khác, tình yêu cứu độ cũng là tình yêu đau khổ và ngược lại.
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su không hứa ban cho các môn đệ của Người cuộc sống sung túc, miễn nhiễm các hình thức đau khổ nhưng cho họ biết về những đau khổ mà họ phải chịu đựng. Người nói: “Anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết” (Mc 13,9); “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15,18-21). Cũng trong bối cảnh trước khi bước vào cuộc thương khó, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Những điều Đức Giê-su nói được ứng nghiệm đối với những ai trung tín với Người trong dòng lịch sử. Chúng ta có thể khái quát rằng càng trung tín với Đức Giê-su bao nhiêu, con người càng thông phần đau khổ của Người bấy nhiêu.
Đức Giê-su hằng liên đới với mọi người trong đau khổ. Thân xác phục sinh của Người vẫn còn in đậm những vết thương. Theo thánh Gio-an, khi hiện ra lần thứ hai sau phục sinh, Người nói với Tô-ma, môn đệ hoài nghi sự phục sinh của Người: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Điều này giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giê-su vẫn luôn đồng hành, chia sẻ và liên đới với tất cả mọi người, nhất là những ai đang phải đương đầu với muôn hình thức đau khổ. Quả thực, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Trước khi về trời, Người cũng nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Hơn ai hết, thánh Phao-lô là gương mẫu điển hình trong việc cảm nghiệm về sự liên đới với Đức Giê-su và Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Người trong hành trình trần thế. Thánh nhân viết: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24). Tương tự như vậy, nhờ việc gắn bó với Đức Giê-su và có kinh nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Người, nhà bác học Blaise Pascal (1623 – 1662) viết: ”Đức Giê-su vẫn còn hấp hối cho đến tận thế”. Quả thực, Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, sống lại và về trời. Tuy nhiên, Người vẫn luôn hiện diện, đồng hành, chia sẻ đau khổ với mọi người trong gia đình nhân loại.
Ai có kinh nghiệm về sự liên kết mật thiết với Đức Giê-su thì luôn phản ứng tích cực trước các hình thức đau khổ, kể cả sự chết. Chẳng hạn, cảm nhận được sự liên kết mật thiết với Đức Giê-su, thánh Phao-lô minh định: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35). Cũng theo thánh nhân: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). Đặc biệt, thánh Phao-lô luôn ý thức về những đau khổ của ngài nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Đức Giê-su và Tin Mừng của Người. Thánh nhân viết cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Chúng tôi đã đau khổ và bị làm nhục tại Phi-líp-phê; nhưng vì tin tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go” (1 Tx 2,2). Đau khổ là tủi nhục, là yếu đuối theo nhãn quan người trần mắt thịt. Tuy nhiên, theo nhãn quan đức tin, thánh Phao-lô xác tín: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10).
Chúng ta biết rằng đặc điểm chung của các thánh là chịu nhiều đau khổ. Thật khó biết bao khi kiếm tìm trong lịch sử một vị thánh không nếm mùi đau khổ. Đối với các ngài, đau khổ là cần thiết cho việc thanh luyện tâm hồn. Điểm chung của các ngài là nhận thức về ý nghĩa của chương trình Thiên Chúa cứu độ được thực hiện nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su. Càng đau khổ bao nhiêu, các ngài càng gắn bó mật thiết với Người bấy nhiêu. Chính đau khổ đã biến đổi con người và cuộc sống các ngài. Qua muôn thế hệ, các ngài luôn là những mẫu gương cho mọi người học đòi bắt chước. Suy niệm về cuộc đời các thánh, chúng ta có thể khẳng định rằng người thánh thiện nhất là người chịu đau khổ nhiều nhất. Người gần Thiên Chúa nhất là người phải chịu đau khổ nhiều nhất hay càng gần Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng phải chịu đau khổ bấy nhiêu. Chúng ta có thể quả quyết rằng châm ngôn (motto) đáng để các Ki-tô hữu quan tâm nhất là ‘qua đau khổ tới vinh quang’ (Lc 24,26). Đức Giê-su đã thực thi châm ngôn này và Người mời gọi những ai theo Người cũng thực thi như vậy.
Đâu là nguyên nhân, nguồn gốc của đau khổ? Đau khổ có ý nghĩa gì không? Con người có thể tiêu diệt đau khổ không? Đâu là cách thức hữu hiệu nhất để loại trừ đau khổ? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại để con người đau khổ? Thiên Chúa ở đâu khi những người vô tội phải đau khổ? Quả thực, những câu hỏi về đau khổ quá nhiều so với những giải thích hữu lý về đau khổ. Khi con người càng tìm cách trả lời những câu hỏi liên quan đến đau khổ cũng là khi con người càng phải đối diện với nhiều vấn đề không thể vượt qua. Quả thực, sự dữ, gian ác hay đau khổ thật là nhiệm mầu (2 Tx 2,7). Thánh Au-gút-ti-nô chia sẻ: “Tôi đã truy tìm nguồn gốc sự dữ nhưng không thu được kết quả nào” [quaerebam unde malum, et no erat exitus] (Confessions, VII, 7.11). Cuối cùng, thánh nhân nhìn nhận chương trình Thiên Chúa được thực hiện nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su như là câu trả lời khả dĩ nhất cho những trăn trở của ngài. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su và đi Đường Đau Khổ của Người, thánh nhân đã không ngừng hoán cải và trở thành mẫu gương sáng ngời cho những ai thành tâm tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống mình trong thế giới thụ tạo cũng như thế giới mai ngày.
Con người cần ý thức rằng bao lâu còn trong hành trình trần thế, bấy lâu còn phải đối diện với mầu nhiệm đau khổ. Tự thân, con người không bao giờ có thể loại bỏ các hình thức đau khổ khỏi cuộc sống mình. Các hình thức đau khổ trong đời sống con người thật nhiệm mầu nhưng Đường Đau Khổ của Đức Giê-su còn nhiệm mầu hơn. Như đã được đề cập ở trên, các trình thuật Tân Ước cho chúng ta nhận thức rằng ưu tiên của Đức Giê-su trong hành trình trần thế không phải để giải thích mầu nhiệm đau khổ mà là sống và nếm trải các hình hình thức đau khổ. Do đó, điều cần thiết là con người cần sống với đau khổ theo cách thức Đức Giê-su đã sống. Mầu nhiệm đau khổ của con người gắn liền với mầu nhiệm đau khổ của Đức Giê-su, Người là Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa (Is 52,13-53,12). Công Đồng Vatican II khẳng định rằng mầu nhiệm con người chỉ có thể được sáng tỏ trong mầu nhiệm của Biến Cố Đức Giê-su (GS 22). Nói cách khác, mầu nhiệm đau khổ của con người cần được nhìn nhận trong tương quan với mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa được diễn tả nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su.
Các hình thức đau khổ trong môi trường thiên nhiên giúp chúng ta nhận thức rằng thế giới này không hoàn hảo. Con người dễ bị tổn thương bởi động đất, núi lửa, sóng thần, dịch bệnh, chiến tranh và nhiều hình thức tàn phá khốc liệt khác. Đây là những dấu chỉ giúp chúng ta nhận ra sự mong manh của kiếp người, sự mong manh của những gì chúng ta cho là bền vững, sự mong manh của thế giới vật chất, sự mong manh của muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Bên cạnh nhiều điều chúng ta không chắc chắn ở trần gian này thì có hai điều chắc chắn mà chúng ta cần quan tâm: (1) Sự chết của con người và (2) ‘sự chết’ của muôn vật muôn loài. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng không phải chúng ta cũng như muôn vật muôn loài phải chết nhưng được biến đổi (1 Cr 15,51; Kh 21,1-3). Thánh Phao-lô chia sẻ kinh nghiệm của ngài: “Tôi nghĩ rằng: Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Còn tác giả sách Khải Huyền thì diễn tả tình trạng của những ai trung tín với Đường Đau Khổ của Đức Giê-su như sau: “Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Đau khổ giúp con người trưởng thành hơn về ba nhân đức quan trọng của Ki-tô Giáo là đức tin, đức cậy và đức mến. Theo tác giả Thánh Vịnh 119: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71). Thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Chúng ta biết rằng dân Do-thái bị lưu đày ở Ai Cập hay Ba-by-lon là những sự dữ đối với họ. Tuy nhiên, nhờ đó, họ mới có được kinh nghiệm sâu xa về tình yêu, sự trung tín và giải thoát của Thiên Chúa. Câu chuyện Giu-se, con Gia-cóp, bị các anh mình bán sang Ai-cập là ví dụ điển hình diễn tả việc Thiên Chúa biến sự dữ thành sự lành. Bởi vì, nhờ Giu-se, con cháu và hậu duệ Gia-cóp khỏi phải lâm cảnh chết đói. Khi gặp các anh mình sang Ai-cập để mua lương thực, Giu-se nói: “Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo” (St 50,20). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo trích lại lời của thánh Au-gút-ti-nô: “Thiên Chúa Toàn Năng bởi Người tốt lành vô cùng, nên không bao giờ để bất cứ một sự dữ nào xảy ra trong các công trình của Người, nếu Người không đủ quyền năng và lòng nhân lành để rút lấy điều lành từ chính sự dữ” (GLGHCG 311). Cũng theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của mọi người gây nên, Thiên Chúa đã rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng: Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên không vì thế mà cái xấu trở thành cái tốt được” (GLGHCG 312).
Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Không có bất cứ chi tiết nào của sứ điệp Ki-tô giáo mà không là một phần của câu trả lời cho câu hỏi về sự dữ” (GLGHCG 309). Cũng theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu quả của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lý do thụ tạo gây nên” (GLGHCG 312). Như vậy, một mặt, chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của sự dữ và hậu quả của sự dữ là đau khổ. Mặt khác, chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa có thể ‘rút sự lành từ hậu quả của sự dữ’. Điều này có nhiều bằng chứng trong Kinh Thánh Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chẳng hạn, vua Đa-vít là người tội lỗi, đã làm điều dữ, gây đau khổ cho nhiều Người. Tuy nhiên, vua đã ăn năn hối cải chân thành, được Thiên Chúa tha thứ và được gọi là ‘vua thánh’. Sự thánh thiện của vua Đa-vít là sự thánh thiện qua việc hoán cải. Hơn ai hết, Đức Giê-su là hiện thân của việc ‘rút sự lành từ hậu quả của sự dữ’ qua hành trình trần thế của Người. Đường Đau Khổ của Người trở thành Đường cứu độ nhân loại, cứu độ trần gian (Ga 1,29).
Mọi người được mời gọi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ trong gia đình nhân loại. Với sự phát triển của y học, các hình thức đau khổ thể lý ngày càng được giảm thiểu. Tuy nhiên, những gì con người làm được thì quá ít ỏi so với những gì con người không thể làm được. Nói cách khác, các hình thức đau khổ của con người luôn vượt quá sự phát triển của y học. Đặc biệt, không ai có thể làm cho mình hay người khác thoát khỏi đau khổ tồi tệ nhất là cái chết. Thực ra, có những hình thức đau khổ không thuộc trật tự của y học. Các hình thức bệnh tật của con người luôn dồi dào hơn các phương thức và thuốc men chữa bệnh. Hơn nữa, không ai có thể đếm hết được các hình thức bệnh tật tiềm tàng trong xã hội loài người cũng như môi trường thiên nhiên. Chẳng hạn, trong bối cảnh hiện tại, nhân loại đang phải đối diện với Covid-19. Tuy nhiên, môi trường thiên nhiên còn có vô số loại vi-rút khác nữa chưa xuất đầu lộ diện.
Trong thực tế, con người thường quan tâm đến những đau khổ tự nhiên, đau khổ thể lý nhưng ít quan tâm đến những đau khổ luân lý. Quả thực, đau khổ luân lý đáng để con người quan tâm hơn bởi vì hình thức đau khổ này liên quan trực tiếp đến ‘nội tâm con người’, liên quan đến hữu thể ưu tuyển có tên gọi là ‘con người’. Nói cách khác, đau khổ thể lý liên quan đến ‘cái con người có’ trong khi đau khổ luân lý liên quan đến ‘cái con người là’. Chẳng hạn, có những người tỏ vẻ bề ngoài nhân đạo như hô hào mọi người làm từ thiện hay xoa dịu nỗi đau của các nạn nhân bị dịch bệnh. Tuy nhiên, tâm hồn họ đầy ác ý, dung dưỡng hận thù, ghen ghét, đố kỵ, nói xấu người khác hay dàn dựng và phổ biến những thông tin nặc danh nhằm bôi nhọ, hạ nhục người khác. Thực ra, con người hồn xác nhất thể. Mọi người được mời gọi cộng tác với nhau trong việc xoa dịu những nỗi đau luân lý và thể lý của anh chị em đồng loại như Đức Giê-su đã làm. Chẳng hạn, trước người bại liệt, Đức Giê-su chữa anh khỏi đau khổ luân lý: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5). Đồng thời, Người cũng chữa anh khỏi đau khổ thể lý: “Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” (Mc 2,11).
Con người hay có cái nhìn phiến diện và thường quan tâm nhiều về những đau khổ, thiếu sót, khiếm khuyết của thế giới thụ tạo mà không quan tâm đúng mức về những điều tốt lành trong đó. Chẳng hạn, con người thường quan tâm nhiều về sự đột biến gen (đơn vị cơ bản của di truyền) diễn ra trong quá trình phân chia của một phân tử ADN (acid deoxyribonucleic) dẫn đến bệnh tật mà không quan tâm đúng mức về sự kỳ diệu của toàn bộ phân tử AND; rõ ràng những đột biến diễn ra trong quá trình phân chia của phân tử ADN dẫn đến bệnh tật quá nhỏ so với sự phân chia phân tử ADN diễn ra bình thường, giúp con người phát triển lành mạnh. Con người thường quan tâm nhiều về một số em nhỏ bị bệnh đao (down syndrome) mà không quan tâm đúng mức về tỷ lệ các em bị bệnh đao quá ít so với các em được sinh ra khỏe mạnh. Tương tự như vậy, con người thường quan tâm nhiều về một số trận động đất xảy ra mà không quan tâm đúng mức về việc trái đất đang nuôi dưỡng khoảng tám tỷ người. Con người thường quan tâm nhiều về cái chết của vài triệu người do Covid-19 gây nên mà không quan tâm đúng mức về hàng tỷ người đang sống khỏe mạnh và dịch bệnh ngày càng suy giảm; kinh nghiệm lịch sử cho con người biết rằng Covid-19 hay bất cứ hình thức dịch bệnh nào rồi cũng sẽ qua đi. Quả thực, mỗi hình thức đau khổ đều cho con người những bài học quí giá và mời gọi con người luôn sống tâm tình tạ ơn, phó thác hơn là tâm tình vô ơn, lãnh đạm.
Thập giá Đức Giê-su chính là câu trả lời cho tất cả những ai đặt câu hỏi: ‘Tại sao con người phải đau khổ?’. Trong khi Đức Giê-su không trả lời câu hỏi về đau khổ bằng lời nói thì Người trả lời bằng hành động gánh chịu đau khổ tột cùng. Như vậy, thay vì đặt câu hỏi ‘tại sao con người đau khổ?’, chúng ta nên đặt câu hỏi ‘tại sao Đức Giê-su là Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ và tại sao tình yêu của Thiên Chúa lại được diễn tả nơi đau khổ của Đức Giê-su?’. Như đã được đề cập ở trên, trong hành trình trần thế, Đức Giê-su không quan tâm đến những giả thuyết về đau khổ hay giải thích đau khổ bằng ngôn ngữ trừu tượng nhưng giải thích bằng việc tự nguyện chấp nhận đau khổ và tham dự vào muôn hình thức đau khổ của kiếp người. Như vậy, mọi người cần quy chiếu đau khổ của mình về đau khổ của Đức Giê-su, đặt ‘bức tranh nhỏ về đau khổ của mình’ trong ‘bức tranh lớn về đau khổ của Người’ để có thể ngày càng nhận diện rõ hơn về tình yêu vô bờ của Người đối với bản thân mình cũng như tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Chúng ta có thể nhận định rằng, dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, niềm tin không đau khổ là niềm tin giả tạo; tình yêu không đau khổ là tình yêu vô vị; hy vọng không đau khổ là hy vọng hão huyền. Biểu tượng trung tâm của Ki-tô Giáo là thập giá Đức Giê-su, biểu tượng đau khổ; cũng là biểu tượng của niềm tin, tình yêu và hy vọng. Tham dự vào đau khổ của Đức Giê-su và phó thác mọi đau khổ cho Người là cách thức phù hợp nhất diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Đức Giê-su đã đi Đường Đau Khổ để đến với gia đình nhân loại và cũng đi Đường đó để đến với Chúa Cha. Do vậy, mọi người trong gia đình nhân loại cũng hãy đi Đường Đau Khổ để đến với nhau, đến với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo và đến với Thiên Chúa.
Những ai đón nhận Đức Giê-su thì được mời gọi sống theo Đường Đau Khổ của Người, diễn tả Đường Đau Khổ của Người và loan báo Đường Đau Khổ của Người cho anh chị em đồng loại. Nói cách khác, Đường Đau Khổ của Đức Giê-su cần được đón nhận cách đầy đủ, suy niệm cách thấu đáo và diễn tả cách chân thành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết rằng trong biến cố Phao-lô trở lại và được chọn làm tông đồ có sự tham dự của ông Kha-na-ni-a. Khi ông phân vân về việc gặp Phao-lô, Đức Giê-su phục sinh nói với ông: “Cứ đi, vì người ấy [Phao-lô] là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ít-ra-en. Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta” (Cv 9,15-16). Đau khổ trở thành đặc tính căn bản của những ai muốn trở thành môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su, Đấng minh định rằng: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ” (Mt 10,24). Nói cách khác, ai muốn đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su thì hãy luôn trung tín với Đường Đau Khổ của Người.
Những quan sát, đánh giá và tổng hợp trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng muôn vật muôn loài được Thiên Chúa sáng tạo đều tốt đẹp. Khi con người phạm tội cũng là khi con người phải chịu muôn hình thức đau khổ trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Tuy nhiên, không phải các hình thức đau khổ đều gắn liền với tội lỗi của con người. Điều này có nghĩa rằng đau khổ luôn là mầu nhiệm lớn lao, vượt quá sự lĩnh hội, hiểu biết và giải thích của con người. Để giải thoát con người khỏi đau khổ đời đời, Đức Giê-su đã đi Đường Đau Khổ để đến với gia đình nhân loại. Hành trình trần thế của Người cũng là hành trình nâng đỡ những người đau khổ. Đồng thời, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng Thiên Chúa không bao giờ để con người chịu đau khổ quá sức mình và rằng mọi người được mời gọi cộng tác với nhau để xoa dịu các hình thức đau khổ cho anh chị em đồng loại. Đức Giê-su cũng cho mọi người biết rằng Thiên Chúa cho phép đau khổ hiện diện và hoạt động để thanh luyện con người, đồng thời, đau khổ giúp con người gia tăng niềm tin, cậy, mến giữa những khó khăn bấp bênh của cuộc sống hằng ngày. Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và sống lại để trao ban sự sống vĩnh cửu cho muôn người. Tiếng nói cuối cùng của gia đình nhân loại, của thế giới thụ tạo không phải là tiếng nói của tội lỗi, của sự dữ, của đau khổ hay sự chết nhưng là tiếng nói của Thiên Chúa tình yêu, của Sự Sống vĩnh cửu. Ước gì, Đường Đau Khổ của Đức Giê-su luôn được mọi người đón nhận, sống và diễn tả trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình trên hành trình về với Nước Thiên Chúa viên mãn.
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên