2023
Thấy mình trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu
a) Suy niệm sâu sắc về “Bảy Lời Cuối Cùng của Chúa Giêsu từ Thập Giá.”
b) Trình bày cách mô tả “Các Nhân Vật Trong Cuộc Khổ Nạn.” Ngài mô tả các thái độ, nhân đức hoặc tính xấu khác nhau của nhiều người tham gia vào Cuộc Khổ Nạn – đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
“Các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô” chắc chắn có thể dùng như một tấm gương để xét mình nghiêm túc đối với mỗi người trong chúng ta. Chúng ta có thể khám phá và xác định mình với nhiều đặc điểm của các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa – một số tích cực và đáng khen, một số tiêu cực và đáng trách.
Vì vậy, chúng ta hãy can đảm bước vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu bằng cách vừa suy gẫm vừa suy nghĩ về những nhân vật hoặc những người liên quan Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa chúng ta. Hy vọng chúng ta sẽ được coi là những người trung thành của Chúa Giêsu, những người mang lại niềm an ủi sâu sắc cho Trái Tim bị thương và chảy máu của Ngài.
Chúng ta sẽ xem xét một số nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Bài viết ngắn này không đầy đủ, nhưng nó sẽ cho chúng ta nếm trải ít nhất một hương vị trong nhiều tính cách của những người có mặt trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, cách phác họa các động độ khác nhau sẽ tác động đến chúng ta theo nhiều cách và có thể thúc đẩy chúng ta hoán cải.
1. ÁC VƯƠNG HÊRÔĐÊ
Chúa Giêsu bị chất vấn trước mặt vua Hêrôđê và triều đình, nhưng Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi nào. Ông vua độc ác này đại diện cho những người theo chủ nghĩa nhục dục, chủ nghĩa khoái lạc, phó mặc cho những ham muốn xác thịt. Chúa Giêsu không mở miệng bởi vì Ngài sẽ chỉ bị chế giễu, mỉa mai và nhạo báng. Với những loại người này, Chúa Giêsu xác định: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.” (Mt 7:6)
Ngày nay, nhiều người theo chủ nghĩa khoái lạc, hướng về nhục dục, hoàn toàn phó mặc cho những ham muốn xác thịt. Chúa Giêsu xác định với ông Nicôđêmô: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:5-6)
2. TỔNG TRẤN PHILATÔ
Người biện lý La Mã này đại diện cho nhiều người ngày nay. Về cơ bản, Philatô đại diện cho kẻ hèn nhát điển hình. Vợ ông là Claudia đã mơ về sự vô tội của Chúa Giêsu, nhưng ông ta đã bỏ qua yếu tố chân lý này. Ông ta muốn làm hài lòng đám đông, ông ta là “người làm vui lòng dân hơn là làm vui lòng Chúa!”
Chúng ta thường hành động và phản ứng như thế nào để làm vui lòng mọi người, để được mọi người vui thích và tán thưởng, để làm tổn hại chúng ta vì đã từ chối ý muốn của Thiên Chúa và làm mất lòng Chúa? Sự tôn trọng dành cho con người lại thường vượt xa sự tôn trọng dành cho Thiên Chúa!
3. PHARISÊU, KINH SƯ VÀ SAĐỐC
Nhiều người từ chối Chúa Giêsu và kêu gào kết án Ngài, điều đó thể hiện sự kiêu ngạo về trí tuệ. Đây là giới trí thức – nhóm có học thức và uyên bác về Kinh Thánh. Họ là những người biết nhiều về tâm linh. Người ta cảm thấy quá sức tưởng tượng khi đối diện với một người thợ mộc khiêm tốn, ít học, đến từ Nadarét, giống như một thỏi nam châm, thu hút vô số người bởi những lời nói và việc làm của Ngài.
Quả thật, chính sự kiêu ngạo và đố kỵ về trí tuệ của họ đã làm cho họ mù quáng, không thể nhận ra mà chấp nhận Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của họ. Ngày nay có biết bao người vẫn mù quáng, không nhận biết và không chấp nhận sự thật do sự kiêu ngạo về trí tuệ!
4. VÔ SỐ NGƯỜI THEO DÕI CHÚA GIÊSU
Nhiều người trong nhóm này là biểu tượng của những người tò mò. Nhiều người tìm kiếm sự mới lạ, sự đổi mới, mốt mới và kiểu lạ để khơi gợi sự tò mò bệnh hoạn của họ. Thật nguy hiểm biết bao khi họ chỉ sống vì sự phấn khích mau qua. Người ta có câu: “Sự tò mò giết chết con mèo!”
5. TIẾNG HÔ “ĐÓNG ĐINH!”
Có những người trên thế giới thực sự có lòng căm thù đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Giêsu, và tất cả những gì liên quan Thiên Chúa. Nhóm Sađốc, các thượng tế đứng dưới thập giá và đám đông trước mặt Philatô kêu to: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Ngày nay, càng ngày càng có nhiều người nuôi dưỡng lòng căm thù quỷ quyệt đối với Chúa Giêsu và tất cả những gì liên quan Thiên Chúa. Số người này trong thế giới hiện đại vẫn tiếp tục gia tăng!
6. ÔNG SIMÔN KYRÊNÊ
Sau khi làm việc và trở về từ cánh đồng, ông Simôn thành Kyrênê bị bắt buộc phải giúp Chúa Giêsu vác thập giá. Lúc đầu, Simôn chống cự và tìm cách thoái thác, nhưng khi đã chấp nhận vác thập giá, ông ấy không chỉ thấy hoàn toàn phù hợp với công việc này, mà còn thích giúp Chúa Giêsu vác thập giá.
Có thể đó là bạn và tôi: ngay từ đầu chúng ta chạy muốn trốn khỏi thập giá, nhưng khi đã chấp nhận, chúng ta thấy “ách êm ái và gánh nhẹ nhàng.” (Mt 11:30)
7. BÀ VÊRÔNICA
Bà Vêrônica là một phụ nữ dũng cảm. Bà đã chen qua đám đông và lau mặt Chúa Giêsu bằng khăn trùm của mình. Chúa Giêsu đã đền đáp cho bà bằng cách để Thánh Nhan Ngài in vào tấm khăn đó. Còn chúng ta, liệu chúng ta có can đảm ra đi để giúp đỡ những người đang đau khổ và hoạn nạn hay không?
8. NHỮNG NGƯỜI ĐÓNG ĐINH CHÚA
Mặc dù điều này có thể khó chấp nhận, nhưng mỗi khi chúng ta đồng ý phạm một tội trọng, thì theo nghĩa thực tế, chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc đóng đinh Chúa Giêsu, về những chiếc đinh đâm vào chân tay Ngài. Tuy nhiên, bằng cách xưng tội nên, chúng ta nhổ đinh và để cho Chúa Giêsu Phục Sinh bước đi!
9. NHỮNG NGƯỜI LÍNH RÚT THĂM CHIA CHÁC
Có những người lính bên dưới khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá và đau đớn tột cùng. Họ rút thăm xem ai được nhận y phục của Chúa Giêsu. Những người này, cùng với nhiều người trong đám đông đang nhìn xem, thể hiện thái độ dửng dưng và lãnh đạm.
Ngày nay có quá nhiều người bày tỏ thái độ dửng dưng, lãnh đạm, thờ ơ, xa cách đối với Chúa Giêsu. Sách Khải Huyền lên án mạnh mẽ thái độ này bằng những lời lẽ làm rung chuyển trái đất này: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3:15-16)
Đáng buồn là có một số đông những người được gọi là Kitô hữu Công giáo thể hiện thái độ dửng dưng và lãnh đạm với Chúa, với các Bí Tích và với Giáo Hội. Có lẽ chúng ta thuộc nhóm này. Nếu vậy, đã đến lúc chúng ta phải thay đổi!
10. KẺ TRỘM DỮ
Bất chấp gương tốt của Chúa Giêsu và tấm gương cao quý nhất về lòng nhân từ và thương xót của Ngài: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc. 23: 24) Tên tử tội xấu đã tự kết liễu đời mình bằng cách nguyền rủa và thách thức Chúa Giêsu. Thậm chí hắn còn muốn biến đổi tử tội cùng bị đóng đinh với mình, nhưng hắn vẫn chết với trái tim lạnh lùng, nhẫn tâm và độc ác! Có những người, mặc dù được Thiên Chúa ban cho nhiều ân sủng, nhưng họ lại trở nên chai cứng và nhẫn tâm hơn. Xin Chúa giải cứu chúng ta!
11. NGƯỜI TRỘM LÀNH
Ở mặt khác của đồng tiền, bên cạnh Chúa Giêsu trên Thập Giá, chúng ta gặp người trộm lành. Anh ta kết thúc đời mình bằng cách ăn năn và cầu xin Chúa Giêsu thương xót. Chúa Giêsu luôn sẵn sàng tha thứ, tỏ lòng thương xót, và mở Thiên Đàng cho tử tội sám hối này, với những lời an ủi nhất: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc. 23:43) TGM Sheen nhắc nhở chúng ta: “Anh ta chết mà vẫn ăn trộm vì anh ta đã lấy trộm Thiên Đàng.” Sự cứu rỗi có thể xảy ra ngay giây phút cuối cùng đối với những người thật lòng ăn năn!
12. VIÊN ĐỘI TRƯỞNG ĐÂM CHÚA
Sau khi đâm Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, viên đại đội trưởng này đã tin! Ông công nhận: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!” (Mc 15:39) Máu và nước tuôn ra từ Trái Tim Chúa Giêsu là nguồn ơn hoán cải và ơn cứu độ vô tận!
13. MARIA MAĐALÊNA
Sau khi được trừ bảy quỷ, bà Mađalêna đã biến đổi nhờ tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đứng dưới chân Thập Giá, ôm lấy Thập Giá với mái tóc rối bù, bà Mađalêna thể hiện tình yêu chân thành và lòng sùng kính dành cho Chúa Giêsu. Bà Mađalêna đại diện cho những người thực sự canh tân cuộc sống. Tất cả đều được mời gọi ăn năn và tín thác. Có lẽ vẫn còn điều gì đó giống bà Mađalêna trong chúng ta, đó là cần đổi mới chăng?
14. MÔN ĐỆ GIOAN
Môn đệ Gioan đứng dưới Thập Giá đại diện cho giới tư tế. Linh mục có thể được định nghĩa là nạn nhân, là vật hy sinh, là người dâng những lời cầu nguyện và hy sinh để đền tội cho mình và cho các tội nhân. Chúa Giêsu là lễ vật không tì vết, và bị treo trên Thập Giá. Môn đệ Gioan đứng bên Mẹ Maria, dưới chân Thập Giá, dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha Hằng Hữu để xin ơn cứu độ tội nhân và nhân loại. Xin cho các giáo sĩ biết noi gương Thánh Gioan!
15. ĐỨC MẸ
Có rất nhiều danh hiệu dành cho Đức Mẹ. Tuy nhiên, TGM Sheen tôn vinh Đức Mẹ là Đấng Vô Tội – Innocence, vì Đức Mẹ đã đứng bên Thập Giá suốt ba giờ. Tất cả chúng ta đều đóng đinh Chúa Giêsu vào Thập Giá do tội lỗi của mình. Đức Maria không hề phạm tội, nhưng đã dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha để cứu rỗi toàn thể nhân loại.
16. CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH
Khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, chúng ta có cách mô tả rõ ràng nhất về Tình Yêu Nhập Thể. Thánh Inhaxiô nói rằng Chúa Giêsu chết trên Thập Giá vì hai lý do:
a) Cho chúng ta thấy sự xấu xa của tội lỗi.
b) Đặc biệt cho chúng ta thấy sự vĩ đại của tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Nếu bạn là người duy nhất trên thế giới, Chúa Giêsu vẫn chịu khổ nạn và chịu chết vì yêu thương bạn và cứu rỗi linh hồn bất tử của bạn.
17. CHÚA CHA VĨNH HẰNG
Trong bộ phim The Passion of the Christ (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của Mel Gibson, cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá kết thúc bằng một giọt nước khổng lồ từ trên trời rơi xuống. Cách hiểu thế nào? Đó là Giọt Nước Mắt của Chúa Cha từ trời cao. Chúa Cha khóc trước cái chết của Con Ngài và khóc vì tội lỗi của nhân loại. Nhưng Chúa Cha cho phép Con Ngài chết vì yêu thương chúng ta và sự cứu rỗi đời đời của chúng ta.
KẾT LUẬN
Hãy dành nhiều thời gian để suy ngẫm về các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Bạn có thể xác định điều gì trong số những điều này với cuộc sống của chính mình? Cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí bạn để biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát bạn.
2023
Phụng vụ Mùa Chay và đầu Tuần Thánh
Trong năm Phụng vụ, các mùa Phụng vụ có những tầm quan trọng khác nhau. Tam Nhật Vượt qua luôn là trung tâm điểm với cao điểm là lễ Phục sinh. Các mùa khác có những ý nghĩa cũng như tầm quan trọng nhất định, trong đó mùa Chay giữ một ý nghĩa đặc biệt. Mùa Chay kéo dài từ thứ tư lễ Tro và kết thúc trước thánh lễ chiều Tiệc Ly ngày thứ Năm Tuần Thánh. Mùa Chay là thời gian chuẩn bị mừng đại lễ Vượt qua, với lời kêu gọi các tín hữu hãy từ bỏ tội lỗi, hãy hoán cải, cầu nguyện, chay tịnh và thi hành bác ái.[1]
Do đó, mùa Chay là thời gian rất ý nghĩa đối với mỗi tín hữu khi tham dự vào các nghi thức Phụng vụ. Với tâm tình hoán cải của một người con tội lỗi, mùa Chay mời gọi mỗi người hãy hòa giải với Thiên Chúa qua việc từ bỏ đời sống tội lỗi của mình. Nhờ đó mỗi người cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho mình. Với thời gian chuẩn bị trong mùa Chay, các tín hữu hân hoan bước vào việc cử hành mầu nhiệm cao đẹp nhất, mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
I* Nguồn gốc của mùa Chay
1* Nguồn gốc và ý nghĩa mùa Chay
Chúng ta không biết một cách chắc chắn rằng mùa Chay do ai thiết lập và đã xuất hiện ở đâu trước tiên, nhưng chỉ biết vào khoảng cuối thế kỷ III đầu thế kỷ IV tại Ai Cập mùa Chay đã hình thành một cách rõ nét, còn tại Rôma vào cuối thế kỷ 4 đã có các quy định chặt chẽ về mùa Chay. Một trong những đặc tính nổi bật của mùa Chay là việc giữ chay tịnh. Khác với chay tịnh mừng lễ Phục sinh thường đi liền trước buổi cử hành Đêm vọng Phục sinh và là thành phần chính yếu của cử hành này, còn chay tịnh của mùa Chay lúc ban đầu vừa nhằm chuẩn bị xa cho Đại lễ Phục sinh, vừa theo gương Đức Giêsu giữ chay tịnh trong hoang địa 40 ngày trước khi bước vào cuộc đời công khai (Mt 4,1-11; Mc 1,12-13; Lc 4,1-13).
Ngoài chay tịnh, còn có cầu nguyện và thực hành bác ái là những đặc tính nổi bật của mùa Chay. Giáo hội luôn liên kết ba hành động này trong đời sống của dân Chúa, bởi vì đây chính là giáo huấn của Chúa Kitô (Mt 6,1-18). Tại Rôma vào cuối thế kỷ IV, các dự tòng chuẩn bị lãnh các bí tích khai tâm vào đêm vọng Phục sinh được mời gọi sống ba đặc tính mùa Chay này, họ phải tập luyện từ bỏ con người cũ, sống đời bác ái và chuyên chăm cầu nguyện. Cũng trong thời gian này các Kitô hữu cũng được mời gọi hoán cải và sám hối để chuẩn bị mừng lễ Phục sinh, cách riêng những người phạm tội nặng và công khai như bỏ đạo, giết người, ngoại tình… họ phải thật lòng sám hối và làm việc đền tội trong suốt mùa Chay, để cuối cùng được ơn tha thứ cũng như hoà giải với Thiên Chúa và Giáo hội trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, trước lễ Phục sinh.
Như vậy mùa Chay mang ý nghĩa cho mọi người:
Đối với toàn thể dân Kitô giáo đây là thời gian mọi người chuyên chăm cầu nguyện, giữ chay tịnh và thực hành bác ái.
Đối với các dự tòng đó là thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho họ lãnh các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh.
Đối với các hối nhân đây là thời kỳ đền tội và sám hối để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ và hoà giải.
2* Cấu trúc mùa Chay
Khi nói đến mùa Chay người ta thường nghĩ đến 40 ngày chay tịnh; thực ra cách tính 40 ngày chỉ có vào khoảng giữa thế kỷ IV (từ năm 354 đến 384), vào thời đó mùa Chay bắt đầu từ Chúa nhật thứ nhất mùa Chay và kết thúc trước Tam Nhật Vượt qua và kéo dài đúng 40 ngày. Nhưng vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII, thần học về ngày Chúa nhật phát triển, người ta không tính ngày Chúa nhật trong số 40 ngày chay tịnh nữa, và để bù vào những ngày Chúa nhật bị mất, người ta kéo dài mùa Chay thêm một số ngày trước Chúa nhật I mùa Chay để giữ ý nghĩa biểu tượng của con số 40. Cuối cùng ngày thứ Tư trước Chúa nhật I mùa Chay được chọn làm ngày khởi đầu mùa Chay. Nhưng dầu sao cách chọn ngày thứ Tư vẫn không đủ 40 ngày của mùa Chay, bởi vì mùa Chay có 6 Chúa nhật (5 Chúa nhật và Chúa nhật lễ Lá), và nếu muốn tính đủ 40 ngày thì phải chọn ngày thứ Hai chứ không phải thứ Tư. Thế nhưng Giáo hội lại chọn ngày thứ Tư vì hai lý do sau đây:
Truyền thống từ rất lâu trong Giáo hội vẫn coi ngày thứ Tư và thứ Sáu trong tuần là những ngày sám hối, vì vậy khi chọn thứ Tư điều đó sẽ phù hợp với ý nghĩa sám hối và hoán cải của mùa Chay.
Giáo hội kế thừa truyền thống Do Thái về biến cố xuất hành ra khỏi Ai Cập, mà theo truyền thống này Chúa đã giải thoát dân và giao ước với họ vào ngày thứ Tư trong tuần. Ngày thứ Tư được coi là mốc điểm của biến cố cứu độ, đó cũng chính là ý nghĩa của mùa Chay khi Giáo hội chuẩn bị mừng biến cố Vượt qua của Chúa Kitô.[2]
Vì những lý do này mà ngày nay chúng ta nên hiểu 40 ngày chay tịnh của mùa Chay chỉ mang nghĩa biểu tượng chứ không theo cách tính toán chính xác. Vì thế “Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch” đã không xác định mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày mà chỉ nói cách chung: “Bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro và kết thúc ngay trước thánh lễ Tiệc Ly”;[3] trong khi đó lại minh nhiên xác định mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày.[4]
a* Thứ Tư lễ Tro – khởi đầu mùa Chay
Ban đầu ngày thứ Tư khởi đầu mùa Chay không có cử hành nào đặc biệt, nhưng vào thế kỷ X tại vùng Rhénan (Đức), người ta thấy việc xức tro được cử hành rộng rãi vào ngày thứ Tư. Quả thực, cử chỉ xức tro có trong văn hoá của nhân loại từ lâu nhưng mang nhiều ý nghĩa khác nhau: Người Yogi và người Sadđou bên Ấn Độ lấy tro xoa mình để biểu thị việc chối bỏ mọi vinh hoa trần thế; còn truyền thống Trung Hoa lại phân biệt tro khô với tro ẩm, theo Lieu-Tseu (Liệt Tử) thì tro ẩm là điềm báo tử.[5] Còn trong truyền thống Kinh thánh, tro là biểu tượng của sự mau qua, của tính bấp bênh đời người. Cuộc sống con người chỉ là tạm bợ, dù con người có là gì đi nữa thì không ai thoát cái chết, chính cái chết sẽ biến đổi tất cả ra tro bụi. Abraham trong cuộc mặc cả với Chúa về việc tiêu hủy thành Sodoma và Gomora (St 18,16-33) đã tự nhận mình chỉ là tro bụi (St 18,27). Trước mặt Chúa con người yếu đuối mỏng dòn, họ chỉ là tội nhân cần được thanh luyện. Lửa thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ thiêu đốt tội lỗi và tính kiêu căng con người thành tro bụi (Ed 28,18). Vì thế, Tro còn là dấu chỉ của tâm tình sám hối và hoán cải (Gs 7,6; 2 Sm 13,19; Ed 27,30; G 2,12; 42,6 ), người rắc tro lên đầu hoặc ngồi trên tro biểu lộ sự buồn phiền, đau khổ và ăn năn.
Giáo hội ban đầu cũng duy trì ý nghĩa xức tro theo truyền thống Cựu ước. Các tín hữu thuở ban đầu thường xức tro để tỏ lòng sám hối; đặc biệt là đối với người có tội công khai thì cử chỉ này là cách biểu hiện bề ngoài của thái độ sám hối nội tâm. Vào thời đầu của Giáo hội, xức tro diễn tả hai ý nghĩa cơ bản sau:
Con người chỉ là thụ tạo, thân phận mau qua. Trước mặt Thiên Chúa con người không là gì để tự mãn, mỏng dòn và mau thay đổi.
Xức tro nhắc đến thái độ nội tâm của con người: vì là thụ tạo, mau qua, con người phải biết khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Loại bỏ tính tự mãn là cách thức tẩy trừ tội lỗi để đưa con người sống ân tình với Thiên Chúa, Đấng không thay đổi và bảo đảm sự hiện hữu của con người.
Cho đến năm 1091 (thế kỷ XI), Công đồng miền Bénévent (Ý) mới chỉ thị: “Ngày thứ Tư lễ Tro, tất cả mọi người, giáo sĩ và giáo dân, đàn ông và phụ nữ, đều phải nhận tro”. Và chỉ từ thế kỷ XIII, việc xức tro mới thực sự được cử hành trong phụng vụ của toàn Giáo hội.[6]
b* Các Chúa nhật dành cho dự tòng
Trong những thế kỷ đầu Giáo hội chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho các dự tòng trước khi cử hành thánh tẩy cho họ. Có ba giai đoạn trong tiến trình gia nhập Kitô giáo:
Giai đoạn khởi giảng Tin mừng là thời gian đầu tiên các dự tòng có thiện cảm và bước đầu tìm hiểu Kitô giáo.
Giai đoạn học đạo kéo dài nhiều năm, và thời gian cuối của giai đoàn này thường trùng vào mùa Chay.
Giai đoạn nhiệm huấn kéo dài trong suốt tuần Bát nhật Phục sinh sau khi đã chịu thánh tẩy.
Vì giai đoạn cuối để gia nhập đạo trùng vào mùa Chay nên Giáo hội cử hành một số nghi thức đặc biệt dành cho các dự tòng: Chúa nhật I mùa Chay cử hành nghi thức tuyển chọn, còn gọi là nghi thức ghi danh, qua nghi thức này, người dự tòng chính thức là ứng viên đón nhận các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh. Sau đó vào Chúa nhật, thứ III, IV và V họ sẽ tham dự các nghi thức “khảo hạch”, tức giám mục sẽ giảng dạy và hỏi các dự tòng tổng quát về giáo lý Kitô giáo, kế đó ngài sẽ cử hành nghi thức trao kinh cho họ, nghĩa là trao cho họ hai kinh Tin Kính và Lạy Cha, họ sẽ học hai kinh này và đọc lại cho giám mục nghe mỗi khi ngài giảng dạy vào những Chúa nhật kế tiếp của mùa Chay trong thời gian học đạo.
II* Cử hành phụng vụ trong mùa Chay
1* Cử hành thứ Tư lễ Tro
Trước Công đồng Vaticanô II, vào ngày thứ Tư lễ Tro, nghi thức làm phép và xức tro được cử hành ngay đầu thánh lễ, còn trong Nghi thức hiện nay, việc xức tro được đặt trong phần Phụng vụ Lời Chúa sau bài Tin mừng, và người ta không nhất thiết phải cử hành Thánh Thể sau khi xức tro, bởi vì Nghi thức xức tro có thể cử hành trong thánh lễ hay ngoài thánh lễ.[7] Khi cử hành ngoài thánh lễ, sau phần xức tro cộng đoàn sẽ đọc lời nguyện chung để kết thúc buổi cử hành phụng vụ. Sách lễ Rôma hiện nay đặt nghi thức xức tro vào loại cử hành sám hối (celébration pénitentielle).
Trước đây, khi xức tro, chỉ có một công thức duy nhất: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Công thức này được trích từ Cựu ước, nhắc đến giá trị truyền thống của cử chỉ xức tro và ý nghĩa đích thực mỏng manh của đời người. Nhưng trong Nghi thức hiện nay, công thức này lại được bổ túc bằng công thức thứ hai trích từ Tân ước, lời của Đức Kitô: “Hãy sám hối và đón nhận Tin mừng” (Mc 1,15). Chính lời Đức Kitô soi sáng và mang cho cử chỉ xức tro ý nghĩa mới: xức tro không chỉ nhắc đến thân phận mỏng dòn yếu đuối của nhân loại, nhưng việc đón nhận Tin mừng sẽ làm cho con người thấy rõ hơn thân phận yếu đuối của mình, và như thế cử chỉ sám hối vừa là điều kiện đi trước vừa là kết quả theo sau của việc đón nhận Lời Chúa.
2* Các bài đọc Kinh thánh trong thánh lễ mùa Chay
Bài đọc ngày Chúa nhật: các bài đọc này xoay quanh hai bài Cựu ước và Tin mừng, còn bài thánh thư khi thì soi sáng cho bài Cựu ước, khi thì khai triển tư tưởng của bài Tin mừng. Đối với các bài Cựu ước, mỗi năm trong ba năm A, B, C đều nhắc đến các biến cố lớn trong lịch sử dân Chúa xưa để hướng đến mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô. Chẳng hạn chúng ta có các chủ đề của từng Chúa nhật như sau:
+ Giao ước – sa ngã, giao ước Nôê, dân được tuyển chọn tuyên xưng niềm tin (Chúa nhật I);
+ Abraham – ơn gọi, hiến tế Isaac, giao ước (Chúa nhật II);
+ Môsê – Nước chảy từ tảng đá, Chúa ban lề luật, Thiên Chúa mặc khải Danh của Người (Chúa nhật III).
+ Dân Chúa sống trong đất hứa – Vua Đavít, lưu đày và trở về, lễ Vượt qua trong đất hứa (Chúa nhật IV).
+ Các ngôn sứ – Ezekiel, Giêrêmia, Isaia (Chúa nhật V).
Còn đối với các bài Tin mừng, thì Chúa nhật I và II cả ba năm đều đọc như nhau trình thuật Chúa Kitô chịu cám dỗ (CN I) và biến hình (CN II) theo các Phúc âm nhất lãm. Ba Chúa nhật còn lại được gọi là các Chúa nhật “khảo hạch” dành cho dự tòng, và theo truyền thống người ta đọc ba trình thuật sau đây: mặc khải của Chúa cho người thiếu phụ Samaria (Ga 4,5-42), Chúa chữa người mù từ khi mới sinh (Ga 9,1-41) và sự phục sinh của Lazarô (Ga 11,1-45). Hiện nay, ba đoạn Tin mừng này được đọc trong ba Chúa nhật (III, IV, V) của năm A, nhưng theo luật phụng vụ vẫn có thể đọc trong năm B và C.
Các bài đọc trong tuần: Cũng theo các chủ đề chính yếu của ngày Chúa nhật, bài đọc I luôn luôn trích từ Cựu ước chứ không lấy từ các thư Tân ước, các bài Tin mừng nhắc đến tâm tình sám hối và hoán cải. Kể từ tuần IV mùa Chay, các bài Tin mừng lấy từ Phúc âm Gioan, đặc biệt vào tuần V các trình thuật xoay quanh những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái để chuẩn bị dẫn đến cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa.
3* Các lời nguyện trong thánh lễ
Các lời nguyện chia làm hai loại: Kinh Tạ ơn và các lời nguyện khác.
Kinh Tạ ơn có nội dung rất phong phú nhờ 12 lời tiền tụng khác nhau: 6 lời tiền tụng dành riêng theo từng Chúa nhật với các chủ đề như: cám dỗ, biến hình, thiếu phụ Samaria, người mù từ khi mới sinh, Lazarô sống lại và lễ Lá); 6 lời tiền tụng chung khác được dùng trong suốt mùa Chay, trong đó 2 lời tiền tụng cuối được dành cho tuần 5 và mấy ngày đầu của Tuần Thánh. Tất cả 12 lời tiền tụng này đều có nguồn gốc từ rất lâu trong truyền thống phụng vụ Rôma, chẳng hạn 4 lời tiền tụng chung được đọc trong suốt mùa Chay có từ thế kỷ V.[8]
Các lời nguyện khác cũng theo các chủ đề của từng Chúa nhật mùa Chay và được trích từ các nguồn phụng vụ cổ xưa. Chẳng hạn nhấn mạnh thân phận yếu đuối của con người và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa; ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô; niềm vui của những người được cứu độ; những đòi hỏi của Tin mừng và sự dấn thân của người tín hữu…
4* Chúa nhật lễ Lá
Trước cuộc canh tân Tuần Thánh của đức Piô XII (1955), Nghi thức làm phép và rước lá được cử hành trong nhà thờ và được đặt trong phần cử hành Lời Chúa: sau khi làm phép lá xong, chỉ mình chủ tế cùng với người giúp lễ cầm cành lá đi rước chung quanh nhà thờ, trong lúc đó, mọi người đứng đợi chủ tế rước xong rồi mới tham dự vào Thánh Thể. Tuy nhiên, cuộc canh tân Nghi thức Tuần Thánh của Đức Piô XII (1955) đã trả lại cho Nghi thức những giá trị và ý nghĩa mà Giáo hội thực hiện trong những thế kỷ đầu, đồng thời phục hồi sự tham dự tích cực của người tín hữu. Chẳng hạn mọi người được mời gọi tham dự vào nghi thức làm phép lá và đi rước. Nghi thức phải được cử hành ở một nơi thích hợp ngoài nhà thờ, từ nơi đó đoàn rước tiến về nơi cử hành thánh lễ, nghĩa là có cuộc rước lá thực sự của toàn thể dân chúng đi từ nơi này đến chỗ kia, chứ không phải cuộc rước chỉ gồm một vài người trong khi đó dân chúng đứng đợi. Nghi thức 1955 cũng lấy lại truyền thống đọc bài Tin mừng Chúa Kitô khải hoàn vào Giêrusalem để đọc trong nghi thức làm phép lá. Cuối cùng, Nghi thức Tuần Thánh hiện nay đã đón nhận Nghi thức 1955 gần như nguyên vẹn chỉ với một vài thích nghi nhỏ.
III* Một số quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay
Quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay khá chặt chẽ và được xếp thành ba loại sau đây: Chúa nhật, Tuần Thánh và ngày trong tuần.
1* Chúa nhật mùa Chay
Theo “Bảng ghi ngày phụng vụ” trong Sách lễ Rôma các Chúa nhật mùa Chay đứng hàng số 2, có bậc lễ ưu tiên trên các lễ trọng về Chúa, Đức Maria và các thánh. Vì thế khi các lễ trọng trùng vào bất cứ Chúa nhật mùa Chay nào, năm ấy phải dời lễ trọng sang ngày thứ Hai liền kế đó.[9] Ví dụ: Lễ Truyền tin (25/3) của năm 2001 trùng vào Chúa nhật IV mùa Chay năm C, thì ngày 25/3 của năm 2001 phải cử hành thánh lễ và đọc giờ kinh phụng vụ theo Chúa nhật IV mùa Chay, mọi cử hành của lễ Truyền tin phải dời sang ngày thứ Hai (26/3); cùng một trường hợp đối với lễ trọng mừng thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria 19/3/2000 trùng vào Chúa nhật II mùa Chay B.
Vì Chúa nhật mùa Chay có vị trí quan trọng theo bảng xếp hạng thứ tự các ngày phụng vụ, nên vào Chúa nhật mùa Chay, cấm không được cử hành các thánh lễ có nghi thức riêng (RM 372), ví dụ: hôn phối, thêm sức, phong chức, khấn dòng… kể cả thánh lễ an táng. Điều này cho chúng ta hiểu rằng, vào ngày Chúa nhật mùa Chay không được phép dùng bản văn phụng vụ của các thánh lễ có nghi thức riêng, nhưng khi nhu cầu đòi hỏi và cần thiết, vẫn có thể cử hành các nghi thức bí tích vào những ngày này, miễn là phải tôn trọng toàn bộ bài đọc Kinh thánh và bản văn phụng vụ của Chúa nhật mùa Chay đó. Ví dụ: Chúa nhật III mùa Chay phải cử hành an táng cho một tín hữu, người ta sẽ không được phép cử hành thánh lễ cầu hồn, nhưng phải dùng mọi bản văn của Chúa nhật 3 mùa Chay, rồi sau thánh lễ, sẽ cử hành các nghi thức tiễn biệt cho người quá cố như thường lệ.
Cũng không được phép cử hành thánh lễ bổn mạng, tạ ơn, cầu mùa… vào các ngày Chúa nhật mùa Chay (RM 374). Ví dụ: thánh Vinh Sơn Phêriê mừng ngày 5/4, bổn mạng giáo xứ, theo luật phụng vụ được nâng lên hàng lễ trọng riêng,[10] hôm đó lại nhằm ngày Chúa nhật mùa Chay, thì năm ấy người ta không được phép dâng thánh lễ mừng bổn mạng giáo xứ đúng ngày, mà phải dời vào ngày nào đó thuận tiện trong tuần, vì theo luật, lễ trọng riêng đứng dưới bậc lễ của Chúa nhật mùa Chay nhưng trên bậc lễ của các ngày trong tuần.
2* Ngày trong tuần thuộc mùa Chay
Các ngày thường trong tuần thuộc mùa Chay có vị trí ưu tiên trên các lễ nhớ buộc,[11] vì thế khi các lễ nhớ buộc trùng vào những ngày thường trong mùa Chay, thì các lễ này trở thành các lễ nhớ tự do, người ta sẽ dùng bản văn phụng vụ của ngày trong tuần mùa Chay, mặc dù linh mục vẫn được phép đọc lời nguyện nhập lễ của vị thánh được nhớ (RM 355). Cũng vậy, trong những ngày này không được phép cử hành thánh lễ ngoại lịch hay nhu cầu do lòng sùng kính riêng (RM 375), ví dụ: thứ Tư đầu tháng kính thánh Giuse, thứ Sáu đầu thánh kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thứ Bảy đầu tháng kính Đức Maria…
Tuy nhiên được phép cử hành các thánh lễ sau đây vào những ngày thường của mùa Chay: các lễ trọng chung và riêng, lễ an táng, lễ bổn mạng giáo xứ hay dòng tu, lễ có nghi thức riêng, lễ kính, lễ tuỳ nhu cầu theo lệnh của bản quyền địa phương, lễ cầu hồn khi vừa được tin một người qua đời (còn gọi là lễ phát tang).
3* Những ngày đầu tuần thánh
Cuộc Thương khó và Phục sinh của Đức Kitô cùng với những biến cố liên quan đến sự kiện đó hợp thành một thời điểm cao trọng nhất trong năm phụng vụ gọi là Tuần Thánh. Vì thế, “Hội thánh Mẹ chúng ta, tưởng niệm Chúa đã phục sinh mỗi tuần vào ngày Chúa nhật, và còn lại họp mừng Chúa đã chịu khổ nạn và đã phục sinh mỗi năm một lần vào kỳ đại lễ Phục sinh”.[12]
Cao điểm của Tuần Thánh chính là Tam Nhật Vượt qua, cũng gọi là Tam Nhật Thánh hoặc Tam Nhật Phục sinh. Đó là trung tâm điểm của đức tin Kitô giáo nói về cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Tam Nhật Vượt qua – gồm thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy Tuần Thánh, và lễ Phục sinh. Đêm Vọng Phục sinh được xem là đỉnh cao của Tam Nhật Thánh, kỷ niệm biến cố Phục sinh của Đức Kitô. Mặc dù năm phụng vụ khởi đầu vào mùa Vọng nhưng vẫn đạt tới đỉnh cao trong Tam Nhật Thánh, đặc biệt vào lễ Phục sinh, lễ trọng của các lễ trọng. Giáo lý Công giáo mô tả tầm quan trọng của Tam Nhật Thánh như sau:
Bắt đầu bằng Tam Nhật Thánh như nguồn ánh sáng, thời đại mới của sự phục sinh đổ đầy cả năm phụng vụ bằng sự rực rỡ của ánh sáng. Dần dần, về phương diện khác của nguồn gốc này, năm được tôn lên bằng phụng vụ. Đây thực sự là “năm của ân sủng Thiên Chúa”. Sự cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng vì sự viên mãn trong cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu và sự tràn đầy Thánh Thần, đỉnh cao của lịch sử được tiên báo là “sự nếm trước” và Vương quốc của Thiên Chúa đến trong thời đại của chúng ta.[13]
Các Kitô hữu tưởng niệm cuộc Thương khó và sự Phục sinh của Chúa Giêsu từ thời các Tông đồ, vì sự chết và sự sống lại của Người là trung tâm ơn cứu độ Kitô giáo. Ít là vào thế kỷ II, các Kitô hữu đã cử hành Đêm Vọng Phục sinh, bắt đầu đêm thứ Bảy, tiếp tục đến sáng lễ Phục sinh. Trong Đêm Vọng Phục sinh, các Kitô hữu tưởng niệm lịch sử ơn cứu độ, chờ đợi sự trở lại của Chúa Giêsu, và cử hành sự phục sinh của Chúa Giêsu vào sáng sớm Chúa nhật Phục sinh. Trong Đêm Vọng Phục sinh, các tân tòng lãnh nhận bí tích Thánh tẩy và bí tích Thánh Thể lần đầu tiên.
Từ việc cải cách phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Đêm Vọng Phục sinh và Tam Nhật Thánh lại đạt được vị thế ưu tiên trong lịch Phụng vụ Công giáo Tây phương. Luật năm Phụng vụ và lịch Phụng vụ đã đặt Tam Nhật Thánh đi liền với mùa sau mùa Chay trong Giáo hội Công giáo.
3.1* CHÚA NHẬT LỄ LÁ
a* Nguồn gốc
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattatia, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattatia tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattatia bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng, đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời ngôn sứ Dacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời ngôn sứ Dacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Trước lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem. Trên đường đi, dân chúng đã lũ lượt đón Người. Họ bẻ cành cây rải lên khắp đường cho Người đi qua, nhiều người mang theo những cành thiên tuế. Có người còn trải áo choàng lên đường cho Người đi. Dân chúng cùng nhau reo hò như trong một hợp xướng: “Vạn tuế Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Vạn tuế khắp cả trời cao” (Mt 21,9). Những tiếng hoan hô Đức Giêsu bộc lộ một niềm hy vọng vào Đấng Thiên Sai. Họ cũng không quên rằng Đấng sẽ tái lập ngôi báu Đavít, cũng là Đấng thực hiện công trình và kế hoạch Thiên Chúa.
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu công khai tỏ ra mình là Vua, là Đấng Thiên Sai. Người muốn làm trọn lời ngôn sứ Dacaria từng loan báo ngày Đức Vua ngự vào Giêrusalem một cách uy nghiêm nhưng khiêm tốn: “Người cỡi trên lưng lừa con… Đó là vị vua mang hòa bình đến cho mọi dân nước, sẽ thống trị đất biển sông núi cho đến tận cùng trái đất” (Dc 9,9-10).
b* Ý nghĩa của thánh lễ
Trước tiên, Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Đã có lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẩn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: “Hoan hô chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”. Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, Latinh và Hy Lạp, “Giêsu Nadarét Vua dân Do Thái”. Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên Thập Giá, nhưng các sách Phúc âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng Tôi”. Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng. Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại. Hôm nay trong cái nghịch lý của lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta.
c* Ý nghĩa của nghi thức kiệu lá
Nghi lễ này không phải chỉ là nghi thức tưởng niệm, nhưng còn là để cử hành một mầu nhiệm, một hành động thánh của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo. Nghi thức rước là này là một sự tuyên xưng Đức Kitô, nhưng đồng thời cũng là để chúng ta tuyên xưng đức tin của chúng ta đối vào Chúa chúng ta. Những tiếng hoan hô nói lên tâm tình hiện tại của các Kitô hữu đó là lòng hoan hỉ và biết ơn sâu xa đối với tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Ngoài ra, nghi lễ này cũng còn mang một ý nghĩa khác, đó là hướng chúng ta về vinh quang của ngày chung thẩm. Đoàn rước tượng trưng cho cho bước đầu tiên của Giáo hội hành hương về Giêrusalem Thiên Quốc. Ý nghĩa đó còn rõ rệt hơn khi đoàn người từ từ tiến vào thánh đường, đi đầu là thánh giá. Với hình ảnh này, Giáo hội không những nhắc lại kỷ niệm Đức Giêsu vào Thành thánh Giêrusalem, mà còn gợi cho chúng ta về hình ảnh một bữa tiệc Thánh Thể trong đó mọi người cùng chia sẻ một tấm bánh sự sống đời đời, và thập giá Đức Kitô sẽ mở đường vào Giêrusalem Thiên Quốc cho đoàn người vô số đã được thánh Gioan miêu tả trong sách Khải Huyền (Kh 7,9-10).
d* Cử hành
Nghi thức đầu thánh lễ là kiệu lá. Mọi người cầm lá trong tay và tập họp tại một nơi thích hợp để làm phép lá. Linh mục và những người giúp lễ mặc phẩm phục đỏ tiến vào nơi giáo dân tụ họp để làm phép lá. Nghi thức làm phép lá kết thúc, đoàn rước tiến vào nhà thờ để cử hành thánh lễ như những thánh lễ Chúa nhật khác.
Cử hành thánh lễ: Điều khác trong thánh lễ hôm nay có đọc bài Thương Khó kể về những cực hình mà Đức Giêsu đã phải chịu trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Người nơi trần gian này. Trên bàn thờ, các bình bông được thay bằng những bình lá.
3.2* BA NGÀY ĐẦU CỦA TUẦN THÁNH
a* Thứ Hai
Ca nhập lễ và Thánh thư của ngày hôm nay lấy lại lời ngôn sứ Isaia và các thánh vịnh 34, 142 nói lên tiếng thở than của người công chính trong khi bị bắt mà không tìm cách chống lại kẻ bắt bớ mình nhưng biết chạy đến kêu cầu cùng Thiên Chúa. Tiếng thở than đau thương đó là tiếng kêu thương của người bị bỏ rơi. Đây là hình ảnh của Đức Kitô, Chúa chúng ta. Người đã chịu bắt bớ và chết trên thập giá vì loài người chúng ta. Người vẫn còn hấp hối trong Giáo hội cho đến ngày sau hết. Bao lâu Giáo hội còn tội lỗi, bấy lâu còn phải chiến đấu không ngừng (xc. Ep 6,12). Những kẻ thù đó đang len lỏi trong mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng được nhờ vào giá máu của Đức Kitô. Điều cần thiết là chúng ta phải biết sống cuộc khổ nạn của Người bằng những hy sinh và từ bỏ những gì ngăn cản chúng ta đến với Người.
b* Thứ Ba
Hôm nay Giáo hội hướng tất cả ý chí, tình yêu và lòng biết ơn của Giáo hội vào thánh giá của Đức Kitô với niềm hy vọng lớn lao nhất là mong được cứu thoát khỏi tội lỗi và được sự sống bất diệt với Người. Ca nhập lễ hôm nay nói lên vinh dự và giá trị cứu độ của thập giá Đức Kitô. Nếu nhận thức được thế nào là cuộc sống với Đức Kitô và cho Đức Kitô, chúng ta sẽ không tìm được một vinh dự nào trong nhân loại ngoài thập giá của Người (Gl 6,14). Vì thế, trong lời nguyện thánh lễ, Giáo hội muốn chúng ta dứt khoát với dĩ vãng tội lỗi để mặc lấy con người mới nhờ vào giá trị thập giá của Đức Kitô. Muốn vậy, chúng ta nhất quyết đi vào con đường của Thầy Chí Thánh để cùng chết với tội lỗi.
c* Thứ Tư
Theo tập truyền của Giáo hội, ngày hôm nay là ngày khởi đầu cuộc thương khó của Đức Kitô. Vì thế, ngay từ thời các tông đồ, hôm nay là một ngày chay tịnh khắc khổ và ngày chuẩn bị gần nhất cho cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Phụng vụ ngày hôm nay mang một màu sắc trọng thể hơn những ngày trước và tất cả các kinh lễ đều nhắc tới những đau khổ của Người, báo trước ơn cứu chuộc nhờ vào cái chết của Người (xc. Is 53).[14]
Nhờ sự vâng lời tuyệt đối, Đức Kitô đã được tuyên phong là Chúa Tể, một danh hiệu tượng trưng cho uy quyền của Thiên Chúa mà chỉ dành riêng cho một mình Đức Chúa trong thời Cựu ước. Đặc quyền này được diễn tả trong bài đọc Thánh Thi của Isaia mô tả Đức Chúa báo thù những địch thù của Người qua hình ảnh người thợ ép nho từ guồng máy trở về, áo đẫm máu. Trong bài đọc này chúng ta thấy lý do áo Người bị hoen đỏ vì không có ai giúp đỡ mà chỉ một mình Người phải đẩy một khối nho khổng lồ vào guồng máy với tất cả sức lực của mình. Đây chính là hình ảnh vị Thẩm Phán tối cao đến xét xử trần gian và địch thủ của Người bị tiêu diệt. Nhưng trước khi xét xử, Người phải chiến đấu thực sự với sa tan, với tội lỗi của loài người, với những hèn nhát, lãnh đạm và khước từ của chúng ta.[15]
Lớp Thần IV, Học viện Đa Minh,
Nguồn: Trang tin www.catechesis.net
[1] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Tổng quát (Tp. HCM: Đại Chủng Viện thánh Giuse, 2001), tr. 92.
[2] Michel Coirault, Pour connaitre les fêtes juives, chrétiennes et musulmanes, Cerf, 1991, tr. 12-13.
[3] Sách lễ Rôma, ‘Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch’, Rôma 1975, số 28.
[4] Văn kiện vừa dẫn, số 22.
[5] Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, Từ điển văn hoá thế giới, Mục từ “Tro”, bản dịch Việt ngữ do nhà xuất bản Đà Nẵng, trường viết văn Nguyễn Du thực hiện, 1997, tr. 948.
[6] P. Jounel, Le cycle pascal, trong A.G. Martimort, l’Eglise en prière, tome IV “La liturgie et le temps”, Desclée, 1983, tr. 82.
[7] Sách lễ Rôma, việt ngữ 1992, tr. 186.
[8] A.G. Martimort, quyển IV “La liturgie et le temps” trong “L’Église en prière”, Deselée, 1983, tr. 87.
[9] Sách lễ Rôma, ‘Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch’, Rôma 1975, số 5.
[10] Bảng ghi ngày phụng vụ, số 4.
[11]Ibid., từ số 2 đến số 9.
[12]SC, số 102.
[13] GLCG, số 1168.
[14]Xc. The Liturgy and Time, trang 37.
[15]Xc. Sđd, trang 38-39.
2023
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM
1- Gian khổ, con đường làm chứng cho Chúa Ki-tô tử nạn
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng ai bước theo Người cách đích thật chắc chắn sẽ phải chịu bách hại: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,30). Chúa còn cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Với thói quen trình bày sự thật một cách thẳng thừng và toàn vẹn, Chúa đã chuẩn bị cho môn đệ mình đón nhận điều tồi tệ nhất: “Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mt 10,21-22).
Đó là vì các môn đệ sẽ phải làm chứng về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, Đấng luôn đòi hỏi nhân loại nên thánh thiện như Người, nghĩa là yêu thương đến tột độ; và làm chứng về Đức Kitô chịu đóng đinh, “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Nghĩa là công bố cho mọi người tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, thể hiện qua việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập giá Đức Ki-tô, một mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.
Để làm được điều ấy, một điều hầu như luôn luôn kéo theo sự bắt bớ, Ki-tô hữu cần có sự khôn ngoan và sức mạnh từ trời cao. Đó là Chúa Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Điều đó đã xảy ra thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau, trong các cuộc bắt bớ khốc liệt, đặc biệt suốt ba thế kỷ đầu của Giáo hội bên Tây phương.
2- Các Thánh Tử đạo tại VN, những tay gieo của Thiên Chúa
Giáo Hội Việt Nam suốt ba thế kỷ đầu của mình cũng đã chịu nhiều cuộc bách hại liên tiếp như thế, với một vài lúc ngưng nghỉ, kể từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á. Đã có hàng trăm ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến, nơi những thôn làng Công giáo bị quan quân bủa vây, nơi những ngôi nhà thờ bị Văn Thân lùa tín hữu vào đó rồi phóng hỏa, dù được tuyên xưng là thánh chỉ vỏn vẹn 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục và 59 giáo dân vào ngày 19-06-1988
Việc sống đạo và chết vì đạo của các đấng đã xảy ra trong những tình thế rất phức tạp.
- Trước tín ngưỡng nhân gian và tam giáo Đông Phương (Khổng, Phật, Lão) thần thánh hóa đủ thứ, từ con người đến động vật và ngay cả núi sông cây cỏ, các vị tử đạo đã rao giảng một Thiên Chúa sáng tạo vạn vật, chủ tể muôn loài, và chẳng có thần linh tối cao nào ngoài Người cả.
- Trước “đạo ông bà” thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc như thần thánh, các vị tử đạo vẫn cổ vũ lòng tôn kính tiên tổ và tiền nhân đúng đạo hiếu dân Việt, nhưng lòng tôn kính này phải đặt sau việc tôn thờ bái lạy Thiên Chúa.
- Trước quan niệm bình dân cho rằng tôn giáo nào cũng dạy ăn ngay ở lành và Công giáo là đạo của phương Tây, các vị Tử đạo cho thấy Công giáo là đạo dành cho hết mọi người và có tính cách siêu việt, mạc khải những điều cao cả từ nơi Thiên Chúa.
- Trước đầu óc phong kiến, coi nhà vua như Thiên tử (con Trời) và hết thảy con dân trong nước đều là thần dân (tôi tớ), các vị tử đạo rao giảng giáo lý: tất cả ai nấy đều là con Trời, và vì vậy đều có phẩm giá như nhau.
- Trước thói tục đa thê hoành hành trong mọi tầng lớp xã hội, từ vua quan đến thứ dân, các vị tử đạo rao giảng nền luân lý đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn (sống với nhau cho đến chết). Một nền luân lý cao đẹp, có sức nâng cao nhân phẩm và biến đổi xã hội mãnh liệt.
- Trước hoàn cảnh chính trị đất nước phức tạp (các triều đại tranh quyền với nhau, Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước, giặc giã nổi lên nhiều chỗ…), các vị tử đạo nhiều lần bị nghi ngờ theo Tây, theo giặc, nhưng các đấng đã luôn chứng tỏ lòng trung thành với đất nước và trung thực với chính quyền. Ngay các vị thừa sai tử đạo cũng đã không bao giờ phục vụ cho quyền lợi của đất nước họ.
Chính đó là những thách thức đối với vua chúa lẫn xã hội đương thời, và trở nên lý do khiến các đấng bị bách hại.
Các thánh Tử Đạo tại Việt Nam như thế là những người gieo của Thiên Chúa mà Thánh vịnh đã 126 [125] đã ám chỉ: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo” (c. 5). Nước mắt và máu của các đấng đã tưới vào hạt giống Tin Mừng, hạt giống ân sủng, để ơn huệ Đức tin có thể trổ sinh dồi dào: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
3- Các Thánh Tử đạo tại VN, những thợ gặt của Nước Trời
Và từ những đau khổ lẫn tuẫn giáo của các đấng, “mùa gặt của Chúa” đã tới. Thánh vịnh trên tiếp đến gọi các vị Tử đạo là những thợ gặt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126[125], 5-6).
Mùa gặt đó, lúa vàng đó, hoa trái đó chính là sinh lực của Giáo hội VN, là khả năng và lòng kiên nhẫn của Giáo Hội VN để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Tin Mừng suốt bao thế kỷ qua.
Máu các thánh Tử đạo đã là nguồn ân sủng để Ki-tô hữu đất Việt tiến lên trong Đức tin của tiền nhân. Đức tin ấy đã là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt, trung thành với nước Việt, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu kính sợ Thiên Chúa, yêu thương mọi người, tuân phục chính quyền và các định chế của xã hội trong những gì chính đáng vì lòng mến Chúa.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu làm điều thiện, ứng xử như những con người tự do (x. 1Pr 2,13-17), tìm kiếm thiện ích chung của quê hương như một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các đồng đạo, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.
Và đó là điều mà chúng ta đã thấy từ thời các chứng nhân Tử đạo cho đến hôm nay trên đất Việt, qua vô vàn chứng nhân Ki-tô hữu Việt Nam khác nữa.
Kết
Các Thánh Tử đạo đã trở nên những của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập giá của Đức Kitô khổ nạn. Các đấng đã là chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần, cho ơn gọi của con người là được bất tử! Nhờ thế các đấng đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện, và nay đang được hạnh phúc muôn đời. Đúng như sách Khôn ngoan 3,5-9 đã nói về họ.
Là con cháu, là hoa trái của các đấng, chúng ta cũng được hứa hẹn những điều như thế nếu chúng ta tham gia vào thống khổ và thập giá của Đức Ki-tô, để thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện. Và như vậy, mùa gặt của các Thánh Tử đạo Việt Nam sẽ kéo dài mãi trong hân hoan qua tất cả chúng ta!
2023
Tại sao chúng ta phải mặc y phục màu tím trong mùa chay?