2023
Ủy ban Phụng tự: Chữ đỏ cho các nghi lễ Tuần Thánh
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
ỦY BAN PHỤNG TỰ
PHỤNG VỤ TUẦN THÁNH
Theo lời nhắc nhở của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông Thư Desiderio Desiravi, Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam mong muốn trình bày một số lưu ý trích nguồn từ các Quy chế, Quy tắc và Luật chữ đỏ của Sách lễ Rôma để giúp Dân Chúa chuẩn bị tham dự các cử hành phụng vụ Tuần Thánh năm nay.
I. QUY CHẾ TỔNG QUÁT SÁCH LỄ RÔMA
Số 4. Bản tính của chức linh mục thừa tác thuộc riêng hàng Giám mục và linh mục, những người dâng hy lễ và chủ tọa cộng đoàn dân thánh với tư cách là hiện thân của Đức Kitô, được làm nổi bật trong chính hình thức của lễ nghi, vì linh mục có một vị trí và nhiệm vụ đặc biệt hơn. Những đặc điểm chính yếu của phận vụ này được công bố đồng thời cũng được giải thích rõ ràng và sâu rộng hơn trong kinh tiền tụng của Thánh lễ làm phép Dầu, ngày thứ Năm tuần Thánh, ngày kỷ niệm thiết lập chức linh mục. Lời kinh Tiền tụng đó đề cập rõ ràng đến chức năng tư tế được trao ban qua việc đặt tay, và chức năng ấy, được diễn tả với từng phận vụ riêng biệt, chính là sự tiếp nối chức năng của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế của Giao ước Mới.
Số 5. Cũng phải trân trọng và hiểu đúng ý nghĩa chức tư tế vương giả của các tín hữu, tự bản chất khác với chức linh mục thừa tác; chính nhờ thừa tác vụ của Giám mục và linh mục, hy lễ thiêng liêng của các tín hữu được liên kết với hy lễ của Chúa Kitô là Đấng Trung gian duy nhất. Thật vậy, cử hành Thánh Thể là hành vi của toàn thể Hội Thánh, trong đó mỗi người chỉ làm và làm trọn vẹn phận sự được dành riêng tùy theo chức vị của mình trong đoàn dân Thiên Chúa. Bởi thế, phải chú trọng hơn đến một số khía cạnh của việc cử hành, đã có lúc không được lưu tâm đủ trong nhiều thế kỷ qua. Vì đoàn dân này là dân Thiên Chúa, được cứu chuộc bằng giá máu Đức Kitô, được Chúa quy tụ, được Lời Chúa nuôi dưỡng, là dân được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là đoàn dân hiệp lời tạ ơn trong Chúa Kitô về mầu nhiệm cứu độ, khi dâng hy lễ của chính Người, và sau cùng, là dân liên kết với nhau trong tình hợp nhất nhờ thông hiệp với Mình và Máu Đức Kitô. Đoàn dân này, từ nguồn gốc đã là dân thánh, nhưng nhờ tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể cách ý thức, tích cực và hữu hiệu, sẽ liên lỉ tiến tới trên đường thánh thiện
THÁNH LỄ ĐỒNG TẾ
Số 199. Việc đồng tế biểu lộ cách thích đáng sự hợp nhất của chức linh mục, của hy lễ và của toàn thể Dân Chúa. Chính nghi thức buộc phải có đồng tế:
a) trong nghi lễ tấn phong Giám mục và truyền chức linh mục;
b) trong lễ chúc phong Đan viện phụ;
c) trong lễ làm phép Dầu.
Khuyên nên đồng tế trong các trường hợp sau đây, trừ khi lợi ích của tín hữu đòi hỏi cách khác:
a) Trong Thánh lễ Tiệc Ly chiều thứ Năm tuần Thánh;
b) Trong Thánh lễ của các Công đồng, các cuộc họp của các Giám mục và trong các Hội đồng;
c) Trong Thánh lễ tu viện và Thánh lễ chính tại các nhà thờ và nhà nguyện;
d) Trong Thánh lễ nhân dịp bất cứ cuộc hội họp nào của các linh mục triều hay dòng.
Tuy nhiên, mỗi linh mục vẫn được phép cử hành Thánh lễ riêng, nhưng không được trùng vào lúc trong nhà thờ hoặc nhà nguyện đó có Thánh lễ đồng tế. Riêng lễ Tiệc Ly ngày Thứ Năm tuần Thánh và lễ Canh thức Vượt Qua, thì không được phép cử hành lễ riêng.
Số 200. Các linh mục vãng lai cũng được chấp nhận vào đồng tế, miễn là biết rõ tình trạng tư cách của linh mục đó.
Số 204. Khi có lý do đặc biệt hoặc vì ý nghĩa của nghi thức hoặc vì ngày lễ, được phép cử hành Thánh lễ hay đồng tế một ngày nhiều lần trong những dịp sau đây:
a) Ngày thứ Năm Tuần Thánh, ai đã cử hành Thánh lễ hay đồng tế trong Thánh lễ làm phép dầu, cũng được cử hành Thánh lễ hay đồng tế trong Thánh lễ Tiệc Ly ban chiều
b) Ai đã cử hành Thánh lễ hoặc đồng tế trong Thánh lễ Vọng Phục sinh, cũng được cử hành Thánh lễ hay đồng tế trong Thánh lễ ngày Phục sinh;
c) Trong lễ Giáng sinh, các linh mục có thể cử hành hoặc đồng tế ba lễ, miễn là các lễ này được cử hành vào thời gian đã định;
d) Ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, miễn là các lễ cử hành vào những thời điểm khác nhau, và tuân giữ những điều quy định về ý chỉ của lễ thứ hai và thứ ba;
e) Những linh mục đã đồng tế khi họp Công nghị hoặc trong dịp kinh lý mục vụ có Giám mục hay vị đại diện của ngài, hoặc dịp các linh mục hội họp, vẫn có thể cử hành Thánh lễ lần nữa vì lợi ích của các tín hữu. Điều này cũng có giá trị đối với các cộng đoàn tu sĩ, miễn là phải tuân thủ đúng những điều phải giữ.
Số 206. Khi Thánh lễ đã bắt đầu, không ai được nhập đoàn đồng tế hoặc được nhận vào đồng tế nữa.
Số 274. Bái gối là bái đầu gối bên phải sát đất, biểu lộ sự thờ lạy, vì thế, cử chỉ này được dành để tôn kính phép Thánh Thể và Thánh giá kể từ khi nghi thức tôn thờ trọng thể trong phụng vụ ngày thứ Sáu Tuần Thánh cho đến lúc khởi đầu Canh thức Vượt Qua.
Tại Việt Nam, Hội Đồng Giám mục đã quy định thay thế bái gối bằng cúi mình.
Trong Thánh lễ, có ba lần chủ tế cúi mình hay bái gối: sau khi dâng Mình Thánh, sau khi dâng Máu Thánh và trước khi hiệp lễ.
Khi đến bàn thờ hoặc khi rời bàn thờ, nếu đi ngang nhà tạm có Mình Thánh Chúa đặt trong cung thánh, thì linh mục, phó tế và các thừa tác viên cúi mình, nhưng không cúi mình trước nhà tạm đang khi cử hành Thánh lễ.
Ngược lại, mọi người cúi mình khi đi qua trước Mình Thánh Chúa, trừ khi đang đi kiệu.
Những thừa tác viên cầm thánh giá nến cao đi rước, thì cúi đầu thay vì cúi mình.
II. QUY TẮC CHUNG VỀ NĂM PHỤNG VỤ VÀ NIÊN LỊCH
Tam nhật Vượt Qua
Số 18. Chúa Kitô đã hoàn tất trọn vẹn công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa, trong mầu nhiệm Vượt qua, khi Người chịu chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để khôi phục sự sống cho chúng ta. Tam nhật Vượt qua tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa chính là đỉnh cao của năm phụng vụ. Nếu Chúa nhật là ngày trọng nhất trong tuần, thì Phục sinh là lễ trọng nhất trong năm phụng vụ.
Số 19. Tam nhật Vượt qua tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa, bắt đầu từ chiều Thứ Năm Tuần Thánh với Thánh lễ Tiệc Ly, điểm trung tâm là đêm Canh thức Vượt qua, và kết thúc sau giờ kinh Chiều Chúa nhật Phục sinh.
Số 20. Trong ngày Thứ Sáu tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa và nếu hoàn cảnh thuận tiện, cả trong ngày Thứ Bảy thánh cho tới giờ Canh thức vượt qua, khắp nơi phải giữ chay thánh vượt qua.
Số 21. Lễ Vọng Vượt qua, trong đêm thánh Chúa sống lại, được coi là “Mẹ của các lễ Vọng”. Trong lễ này, Hội Thánh canh thức để đón chờ Chúa Kitô sống lại và cử hành mầu nhiệm phục sinh trong các bí tích. Vì thế, lễ Vọng phải được cử hành trọn vẹn trong đêm: khởi sự khi đêm tối bắt đầu và kết thúc trước rạng đông Chúa nhật.
Mùa Phục sinh
Số 22. Năm mươi ngày từ Chúa nhật Phục sinh đến Chúa nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, được cử hành trong niềm hân hoan phấn khởi, như một ngày lễ duy nhất, hay đúng hơn như một “Chúa nhật trọng đại”.
Đây là những ngày chủ yếu phải hát Alleluia.
Số 23. Sau lễ Phục sinh, các Chúa nhật mùa này đều là những Chúa nhật Phục sinh, và được gọi là Chúa nhật II, III, IV, V, VI, VII mùa Phục sinh. Thời gian năm mươi ngày thánh này kết thúc với Chúa nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Số 24. Tám ngày đầu mùa Phục sinh là tuần Bát nhật Phục sinh và được cử hành như các lễ trọng kính Chúa.
Số 25. Lễ Chúa thăng thiên cử hành ngày thứ bốn mươi sau lễ Phục sinh; nơi nào lễ này không phải lễ buộc, thì cử hành vào Chúa nhật VII mùa Phục sinh (x. số 7).
Số 26. Những ngày sau lễ Chúa thăng thiên cho đến hết ngày Thứ Bảy trước lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là những ngày chuẩn bị đón chờ Chúa Thánh Thần ngự đến.
Mùa Chay
Số 27. Mùa Chay nhằm chuẩn bị cử hành lễ Phục sinh. Phụng vụ mùa Chay giúp các dự tòng và các tín hữu cử hành mầu nhiệm Phục sinh. Các dự tòng được chuẩn bị qua những giai đoạn của việc nhập đạo; các tín hữu được chuẩn bị qua việc tưởng niệm bí tích Thánh tẩy và thực hành sám hối.
Số 28. Mùa Chay bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc ly. Không đọc Alleluia từ đầu mùa Chay cho đến lễ Vọng Phục sinh.
Số 29. Thứ Tư đầu mùa Chay là ngày khắp nơi phải giữ chay và cử hành nghi thức xức tro.
Số 30. Các Chúa nhật mùa này gọi là Chúa nhật I, II, III, IV, V mùa Chay. Chúa nhật tuần thứ sáu, bắt đầu Tuần Thánh, gọi là Chúa nhật Lễ Lá tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa.
Số 31. Tuần Thánh tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa Kitô từ lúc Người vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia.
Sáng Thứ Năm Tuần Thánh, Đức Giám mục đồng tế với linh mục đoàn, làm phép Dầu và thánh hiến Dầu Chrisma.
Tùy theo quyết định của Hội đồng Giám mục, có thể giữ thói quen phủ Thánh giá và các ảnh tượng từ Chúa nhật V mùa Chay. Thánh giá được phủ cho đến khi cử hành cuộc Thương khó của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh, các ảnh tượng khác được phủ tới lúc bắt đầu Canh thức Phục sinh.
III. LUẬT CHỮ ĐỎ VỀ CỬ HÀNH PHỤNG VỤ TUẦN THÁNH & MÙA PHỤC SINH
CHÚA NHẬT LỄ LÁ
TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA
1. Hôm nay Hội Thánh tưởng niệm việc Chúa Kitô vào thành Giêrusalem hoàn tất mầu nhiệm Vượt qua của Người. Vì thế, trong các thánh lễ, sẽ tưởng niệm việc Chúa vào thành hoặc bằng nghi thức rước kiệu hay nhập lễ trọng thể trước thánh lễ chính, hoặc nhập lễ đơn giản trong những thánh lễ khác. Có thể cử hành lại việc nhập lễ trọng thể, nhưng không được lặp lại cuộc kiệu, trước một hay hai thánh lễ thường có đông người tham dự.
Nơi nào không thể tổ chức rước kiệu hay nhập lễ trọng thể thì nên cử hành Lời Chúa về việc vào thành và cuộc Thương khó của Chúa vào chiều Thứ Bảy hay giờ nào thuận tiện hơn trong Chúa nhật.
Tưởng niệm Chúa vào thành Giêrusalem
Hình thức I: Rước lá
2. Vào giờ thuận tiện, dân chúng tụ họp tại một nhà thờ nhỏ hay một nơi thích hợp ngoài nhà thờ sẽ cử hành thánh lễ. Các tín hữu cầm lá trong tay.
3. Linh mục và phó tế, mặc lễ phục đỏ như luật quy định, có các thừa tác viên khác cùng đi đến nơi dân chúng tụ họp. Linh mục có thể mặc áo choàng, và sau khi kết thúc cuộc rước, sẽ thay áo choàng bằng áo lễ.
4. Đang khi đi rước có thể hát đối ca sau đây hoặc một ca khúc thích hợp.
Linh mục và tín hữu làm dấu Thánh giá Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, vị chủ sự chào chúc dân chúng như thường lệ, nói vắn tắt mời gọi tín hữu tham dự việc cử hành cách tích cực và ý thức.
8. Sau bài Tin Mừng, có thể giảng vắn tắt. Để bắt đầu cuộc rước, linh mục hoặc phó tế hoặc một thừa tác viên giáo dân có thể dùng những lời sau đây hoặc tương tự kêu mời dân chúng: Anh chị em rất thân mến, như đám đông dân chúng ngày xưa, chúng ta hãy tung hô Chúa Giêsu và tiến bước trong bình an. Hoặc: Chúng ta hãy tiến bước trong bình an. Mọi người thưa: Nhân danh Chúa Kitô. Amen.
9. Đoàn rước bắt đầu tiến về nhà thờ cử hành thánh lễ. Nếu có xông hương, người cầm bình hương có than lửa cháy đi đầu, tiếp theo là thừa tác viên giúp lễ hay một thừa tác viên khác cầm Thánh giá có trang hoàng những nhánh lá theo tập tục địa phương, đi giữa hai thừa tác viên cầm nến cháy. Theo sau là phó tế mang sách Tin Mừng, rồi linh mục cùng với các thừa tác viên, và tiếp đó là đoàn tín hữu cầm lá trong tay. Đang khi đi rước, ca đoàn và dân chúng hát những ca khúc sau đây hay những ca khúc khác để tôn vinh Chúa Kitô Vua.
11. Khi tới bàn thờ, linh mục hôn kính bàn thờ và tùy nghi xông hương, rồi về ghế. Thay áo choàng bằng áo lễ. Không cử hành nghi thức nhập lễ và kinh xin Chúa thương xót, đọc lời nguyện nhập lễ, sau đó tiếp tục thánh lễ như thường lệ.
Hình thức II: Nhập lễ trọng thể
12. Nơi nào không thể kiệu lá từ ngoài nhà thờ, thì cử hành việc Chúa vào thành ở trong nhà thờ theo hình thức nhập lễ trọng thể trước thánh lễ chính.
13. Các tín hữu tụ họp tại cửa nhà thờ hay trong nhà thờ, tay cầm lá. Linh mục, các thừa tác viên và một số giáo dân đại diện tiến tới chỗ thuận tiện trong nhà thờ, ngoài cung thánh, nơi ít ra phần đông tín hữu có thể nhìn thấy.
14. Khi linh mục tiến tới điểm đã chọn, hát đối ca Hoan hô con vua Đavid hay ca khúc thích hợp. Rồi làm phép lá và công bố Tin Mừng về việc Chúa vào thành Giêrusalem, như ghi ở trên (các số 5-7). Sau bài Tin Mừng, linh mục cùng với các thừa tác viên và số giáo dân đại diện long trọng đi qua nhà thờ tiến lên cung thánh, trong khi đó hát đối ca: Khi Chúa vào thành thánh (số 10) hay ca khúc thích hợp.
15. Khi tới bàn thờ, linh mục hôn kính bàn thờ rồi về ghế. Không đọc nghi thức đầu lễ và kinh Xin Chúa thương xót, đọc lời nguyện nhập lễ và tiếp tục thánh lễ như thường lệ.
Hình thức III: Nhập lễ đơn giản
16. Trong tất cả các thánh lễ của Chúa nhật này, nếu không cử hành việc nhập lễ trọng thể, thì tưởng niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem bằng hình thức nhập lễ đơn giản.
17. Khi linh mục tiến đến bàn thờ, hát ca nhập lễ cùng với thánh vịnh (số 18) hay một ca khúc nào khác có cùng ý nghĩa. Linh mục hôn kính bàn thờ và về ghế. Sau dấu Thánh giá, linh mục chào chúc dân chúng rồi tiếp tục thánh lễ như thường lệ.
Trong những thánh lễ không thể hát ca nhập lễ, thì ngay khi tới bàn thờ, linh mục hôn kính bàn thờ, chào chúc dân chúng, đọc ca nhập lễ và tiếp tục thánh lễ như thường lệ.
21. Khi đọc bài Thương khó, không mang đèn và hương, không chào chúc và ghi dấu Thánh giá trên sách. Phó tế, hoặc nếu không có phó tế, linh mục đọc bài Thương khó. Các thầy đọc sách cũng có thể đọc, nhưng nếu được, nên dành phần của Chúa Giêsu cho linh mục.
Trước khi hát bài Thương khó, các phó tế xin linh mục chúc lành, như trước khi đọc bài Tin Mừng. Những người khác không phải xin chúc lành.
22. Sau bài Thương khó, có thể giảng vắn tắt. Cũng có thể giữ thinh lặng ít phút. Đọc kinh Tin kính và Lời nguyện chung.
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
1. Theo truyền thống xa xưa của Hội Thánh, hôm nay không được cử hành thánh lễ khi không có giáo dân tham dự.
Lễ Dầu
2. Thông thường, sáng nay, Đức Giám mục sẽ làm phép dầu bệnh nhân, dầu dự tòng và thánh hiến dầu thánh, trong một thánh lễ riêng, theo nghi thức trình bày trong sách Nghi thức Giám mục.
3. Nếu khó quy tụ giáo sĩ và giáo dân đến với Giám mục trong ngày này, có thể cử hành lễ Dầu trước vào ngày khác, nhưng phải gần lễ Phục sinh.
4. Khi có Giám mục đồng tế với linh mục đoàn, thánh lễ này biểu hiện sự hiệp thông giữa Giám mục và các linh mục của ngài: vì thế, tất cả các linh mục phải cố gắng hết sức dể tham dự thánh lễ và hiệp lễ dưới hai hình. Để biểu thị sự hợp nhất của linh mục đoàn trong giáo phận, nên có các linh mục thuộc những miền khác nhau trong giáo phận đến đồng tế với Giám mục.
5. Theo tập tục truyền thống, làm phép dầu bệnh nhân trước khi kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể, và làm phép dầu dự tòng cũng như hiến thánh dầu thánh sau phần hiệp lễ. Tuy nhiên, vì lý do mục vụ, được phép cử hành toàn thể nghi lễ sau phần phụng vụ Lời Chúa.
15. Mỗi giáo xứ có thể nhận Dầu thánh trước Thánh lễ Tiệc ly ban chiều hoặc lúc nào khác thuận tiện.
TAM NHẬT VƯỢT QUA
1. Trong Tam Nhật Thánh, Giáo Hội long trọng cử hành những mầu nhiệm cao cả nhất của ơn cứu chuộc khi dành những cử hành đặc biệt để tưởng niệm Chúa Kitô chịu đóng đinh, được mai táng và sống lại.
Đây cũng là thời gian giữ chay thánh phục sinh: Thứ Sáu kính nhớ cuộc Thương khó của Chúa, mọi nơi đều phải giữ chay, và tùy nghi, có thể kéo dài sang Thứ Bảy Thánh, để tâm hồn được mở rộng đón nhận niềm vui ngày Chúa sống lại.
2. Để cử hành Tam Nhật Thánh cách thích đáng, cần có một số thừa tác viên giáo dân, được chỉ bảo cẩn thận để biết những việc phải làm.
Các ca khúc của dân chúng, của thừa tác viên và của linh mục chủ tế cũng giữ một vai trò đặc biệt trong những cử hành của những ngày này; quả thật khi hát, lời ca có tác dụng rất mạnh.
Vì thế, các chủ chăn không nên bỏ qua việc giải thích cho dân chúng, cách tốt nhất có thể, về ý nghĩa và diễn tiến của mỗi cử hành và chuẩn bị cho họ tham dự cách tích cực và có hiệu quả.
3. Được cử hành lễ nghi Tam Nhật Thánh trong các nhà thờ chính tòa, nhà thờ giáo xứ, và chỉ tại những nơi có thể cử hành cách xứng đáng, nghĩa là có đông người tham dự, có đủ số các thừa tác viên cũng như có khả năng hát ít là một phần các nghi lễ. Vì thế, các cộng đoàn nhỏ, các hiệp hội, những nhóm riêng biệt, nên quy tụ về những nhà thờ nêu trên để các cử hành thánh được diễn ra cách trang trọng hơn.
THỨ NĂM – lễ chiều – THÁNH LỄ TIỆC LY
1. Thánh lễ Tiệc ly phải được cử hành vào buổi chiều, vào giờ thích hợp nhất cho việc tham dự đầy đủ của toàn thể cộng đoàn địa phương, có tất cả các linh mục và thừa tác viên thi hành phận vụ.
2. Mọi linh mục đều được đồng tế, dù đã đồng tế lễ Dầu, hoặc vì lợi ích của giáo dân, phải dâng thêm một lễ khác.
3. Nơi đâu có nhu cầu mục vụ, Bản quyền địa phương có thể cho phép cử hành một lễ khác tại các nhà thờ, nhà nguyện, vào giờ ban chiều, và trong trường hợp hết sức cần thiết, cũng có thể cho cử hành vào buổi sáng, nhưng chỉ dành cho những người không sao có thể tham dự thánh lễ chiều. Tuy nhiên, cần phải tránh đừng cho phép những cử hành như thế chỉ vì lợi ích cá nhân hay cho những nhóm nhỏ riêng biệt, và cũng đừng để ảnh hưởng không tốt cho thánh lễ chiều.
4. Chỉ cho tín hữu rước Thánh Thể trong thánh lễ. Nhưng có thể mang Mình Thánh cho bệnh nhân vào bất cứ giờ nào trong ngày.
5. Bàn thờ được trang hoàng cách chừng mực hợp với tính cách của ngày hôm nay.
Nhà Tạm hoàn toàn để trống; chỉ truyền phép bánh lễ đủ cho giáo sĩ và giáo dân hiệp lễ hôm nay và ngày mai.
Khi bắt đầu xướng kinh Vinh danh, đổ chuông, rồi từ đó sẽ ngưng cho tới kinh Vinh danh giờ Canh thức phục sinh, trừ khi Giám mục giáo phận quyết định thể khác. Trong những ngày này, chỉ được sử dụng đàn hay những nhạc khí khác để đệm theo tiếng hát. Sau khi công bố Tin Mừng, linh mục giảng, quảng diễn mầu nhiệm cao cả được tưởng niệm trong thánh lễ này, nghĩa là việc thiết lập bí tích Thánh Thể và chức linh mục cũng như lệnh truyền về tình yêu thương huynh đệ.
Rửa chân
10. Giảng xong, nếu thuận tiện, nên cử hành nghi lễ rửa chân.
11. Các thừa tác viên dẫn những người được chọn trước, đến ghế đã dọn sẵn tại nơi thích hợp. Linh mục (cởi áo lễ, nếu cần), có các thừa tác viên theo giúp, đổ nước và sau đó lau chân cho từng người.
12. Trong khi rửa chân, hát một số đối ca dưới đây hay những ca khúc thích hợp.
13. Sau nghi lễ rửa chân, linh mục rửa và lau tay, mặc lại áo lễ và về ghế.
Không đọc kinh Tin kính, đọc Lời nguyện chung.
Phụng vụ Thánh Thể
14. Bắt đầu phần phụng vụ Thánh Thể, nên cho một số giáo dân lập đoàn rước dâng
lễ vật, cùng với bánh rượu có thể dâng những quà tặng cho người nghèo.
16. Kinh Tiền tụng Thánh Thể I: Hy lễ và bí tích của Chúa Kitô.
[…]
23. Trong các công thức truyền phép, các lời của Chúa phải được đọc rõ ràng, lớn tiếng.
Sau khi truyền phép, cầm bánh / rượu đã trở nên Thánh Thể Chúa, nâng lên cho cộng đoàn thấy, đặt lại trên đĩa thánh và cúi mình sâu thờ lạy.
[…]
33. Để thuận tiện, khi cho hiệp lễ, linh mục nên lấy Mình Thánh từ bàn thờ trao cho các phó tế hoặc thừa tác viên giúp lễ hoặc những thừa tác viên ngoại lệ khác để sau đó họ đưa Mình Thánh cho bệnh nhân cần rước Chúa tại nhà riêng.
35. Cho hiệp lễ xong, đặt bình đựng Mình Thánh dành cho hôm sau trên bàn thờ. Linh mục đứng tại ghế, đọc Lời nguyện hiệp lễ.
Kiệu Thánh Thể
37. Đọc Lời nguyện hiệp lễ xong, linh mục đứng trước bàn thờ bỏ hương, làm phép và quỳ xông hương Mình Thánh ba lần. Sau đó nhận khăn vai trắng, đứng lên, cầm bình đựng Mình Thánh, lấy hai đầu khăn phủ lên bình.
38. Bắt đầu kiệu Mình Thánh, có nến và hương, đi trong nhà thờ đến nơi đã dọn sẵn trong nhà thờ hay một phòng nguyện được trang hoàng thích hợp. Đi đầu là một thừa tác viên giáo dân cầm Thánh giá giữa hai người cầm nến cháy. Theo sau là những người khác cầm nến cháy. Người cầm bình có khói hương nghi ngút đi trước linh mục mang Mình Thánh. Trong khi đó, hát thánh thi Lưỡi tôi hãy ca hát (trừ hai triệt cuối) hay một ca khúc về Thánh Thể.
39. Khi đoàn kiệu tới nơi đặt Mình Thánh, linh mục, nếu cần, có phó tế phụ giúp, đặt bình đựng Mình Thánh vào trong nhà tạm, cửa để mở. Linh mục bỏ hương, quỳ xông hương Mình Thánh, trong khi đó hát Đây nhiệm tích vô cùng cao quý hoặc một bài về Mình Thánh. Sau đó, phó tế hay chính linh mục đóng cửa nhà tạm.
40. Sau ít phút thinh lặng cầu nguyện, linh mục và các thừa tác viên, cúi mình bái Mình Thánh rồi đi về phòng thánh.
41. Lột khăn bàn thờ vào lúc thuận tiện, và nếu có thể, nên đưa các Thánh giá ra khỏi nhà thờ. Nếu còn Thánh giá trong nhà thờ, nên phủ khăn.
42. Những ai tham dự lễ chiều, không phải đọc kinh Chiều.
43. Theo tập tục và hoàn cảnh địa phương, nên kêu mời các tín hữu, trong thời gian thuận tiện ban đêm, đến chầu Mình Thánh tại nơi được lưu giữ, tuy nhiên, sau nửa đêm, không nên chầu trọng thể.
44. Nếu không cử hành cuộc Thương khó của Chúa ngày Thứ Sáu Thánh trong nhà thờ này, thì kết thúc thánh lễ như thường lệ và đặt Mình Thánh ngay trong nhà tạm.
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
1. Theo truyền thống rất cổ xưa, hôm nay và ngày mai, Hội Thánh không cử hành các bí tích nào khác ngoài bí tích Sám hối và Xức dầu bệnh nhân.
2. Hôm nay chỉ cho tín hữu rước Thánh Thể trong chính lúc cử hành cuộc Thương khó của Chúa; tuy nhiên, với những bệnh nhân không thể tham dự cuộc cử hành này, thì có thể đưa Mình Thánh cho họ bất cứ giờ nào.
3. Bàn thờ hoàn toàn để trống: không Thánh giá, không đèn nến, không phủ khăn.
Cử hành cuộc Thương khó của Chúa
4. Vào sau trưa hôm nay, khoảng ba giờ chiều, trừ khi, vì lý do mục vụ, khuyên nên cử hành muộn hơn, sẽ cử hành cuộc Thương khó của Chúa, gồm ba phần: phụng vụ Lời Chúa, tôn thờ Thánh giá và rước Thánh Thể.
5. Linh mục và phó tế, mặc phẩm phục đỏ như khi cử hành thánh lễ, thinh lặng tiến ra bàn thờ và chào kính bàn thờ rồi phủ phục hay quỳ gối và cúi mình cầu nguyện giây lát. Mọi người khác quỳ gối cúi mình.
6. Sau đó linh mục và các thừa tác viên về ghế. Linh mục đứng hướng về dân chúng, dang tay, đọc một trong những lời nguyện trong sách lễ, không đọc Chúng ta dâng lời cầu nguyện.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
7. Cộng đoàn ngồi. Đọc bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia (52, 13 – 53, 12) cùng với thánh vịnh đi kèm.
8. Tiếp theo là bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái (4, 14-16; 5, 7-9) và câu xướng trước Tin Mừng.
9. Sau đó là bài Thương khó theo thánh Gioan (18, 1 – 19, 42) theo cùng một thể thức như trong Lễ Lá.
10. Sau bài Thương khó, linh mục giảng vắn tắt. Cuối bài giảng có thể kêu mời tín hữu cầu nguyện ít phút.
Lời nguyện chung
11. Kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa bằng lời nguyện chung, theo cách sau đây: Phó tế, hoặc một thừa tác viên giáo dân, đứng tại giảng đài, đọc lời kêu mời, nêu lên ý cầu nguyện. Sau khi Cộng đoàn thinh lặng cầu nguyện giây lát, linh mục đứng tại ghế, hoặc tùy nghi, tại bàn thờ, dang tay đọc lời nguyện.
Trong suốt thời gian cầu nguyện, tín hữu có thể đứng hay quỳ.
12. Trước mỗi lời nguyện, phó tế có thể kêu mời Xin quỳ xuống – Cộng đoàn quỳ thinh lặng cầu nguyện giây lát – Xin đứng lên.
Hội đồng Giám mục có thể dự trù một lời kêu mời khác.
Khi có nhu cầu quan trọng của cộng đoàn, Giám mục giáo phận có thể cho phép hay quyết định đọc thêm một ý nguyện đặc biệt.
KÍNH THỜ THÁNH GIÁ
14. Sau lời nguyện chung, sẽ cử hành nghi thức long trọng kính thờ Thánh giá. Tùy theo nhu cầu mục vụ, chọn một trong hai hình thức suy tôn Thánh giá sau đây.
Suy tôn Thánh giá
Cách thứ nhất
15. Phó tế và các thừa tác viên, hay một thừa tác viên thích hợp, đi vào phòng áo, sau đó cùng với hai thừa tác viên cầm nến cháy, kiệu Thánh giá có phủ khăn tím tiến vào giữa cung thánh.
Linh mục đứng trước bàn thờ, quay về phía dân chúng, nhận Thánh giá, mở khăn phủ phần đầu Thánh giá, đưa Thánh giá lên cao, xướng Đây là cây Thánh giá.
Phó tế hoặc nếu cần, ca đoàn cùng hát với linh mục. Cộng đoàn thưa: Chúng ta hãy đến thờ lạy. Hát xong, Cộng đoàn quỳ gối thinh lặng thờ lạy giây lát, linh mục vẫn đứng nâng cao Thánh giá, đọc hoặc hát: Đây là cây Thánh giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian. Cộng đoàn đáp. Chúng ta hãy đến thờ lạy.
Sau đó linh mục mở khăn phủ cánh phải Thánh giá, nâng Thánh giá lên cao và xướng: Đây là cây Thánh Giá… như lần trước.
Cuối cùng mở toàn bộ khăn phủ Thánh giá và nâng Thánh giá lên cao, xướng lần thứ ba Đây là cây Thánh giá….
Cách thứ hai
16. Linh mục, hoặc phó tế, cùng với các thừa tác viên, hoặc một thừa tác viên thích hợp, đi đến cửa nhà thờ, từ đó, nhận Thánh giá không phủ khăn, cùng với các thừa tác viên khác cầm nến cháy, làm thành đoàn rước đi qua giữa nhà thờ tiến lên cung thánh. Tại ba địa điểm: gần cửa, giữa nhà thờ, và trước cung thánh, người cầm Thánh giá, nâng Thánh giá lên cao, xướng: Đây là cây Thánh giá…. Cộng đoàn đáp: Chúng ta hãy đến thờ lạy. Sau mỗi câu thưa là một lần quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát.
Kính thờ Thánh giá
17. Linh mục hoặc phó tế, cùng với các thừa tác viên cầm nến cháy, mang Thánh giá lên cung thánh, đặt giữa cung thánh hay một nơi khác thích hợp, hoặc trao cho các thừa tác viên đỡ Thánh giá, có nến cháy đặt hai bên.
18. Linh mục chủ sự, có thể cởi áo lễ và giầy, tôn thờ Thánh giá trước tiên, sau đó các giáo sĩ, thừa tác viên giáo dân và các tín hữu, tiến lên như đoàn rước, mọi người bày tỏ lòng tôn kính Thánh giá bằng cách bái gối hoặc một dấu chỉ khác theo tập tục địa phương, chẳng hạn hôn Thánh giá.
19. Chỉ trưng bày một Thánh giá duy nhất để kính thờ. Nếu dân chúng quá đông, thì sau khi một số giáo sĩ và tín hữu đã lên kính thờ, linh mục cầm Thánh giá, đứng trước bàn thờ, nói ít lời kêu mời Cộng đoàn, rồi nâng cao Thánh giá một lúc để các tín hữu thinh lặng thờ lạy.
20. Trong khi kính thờ Thánh giá, hát Đối ca: Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh giá Chúa, các câu than vãn, thánh thi Ôi Thánh giá tín trung hoặc những ca khúc thích hợp khác. Mọi người trở về chỗ ngồi sau khi kính thờ Thánh giá.
Theo hoàn cảnh địa phương hoặc truyền thống dân tộc và thích ứng mục vụ, có thể hát kinh Mẹ đứng đó hay một ca khúc thích hợp để kính nhớ Đức Mẹ Sầu bi.
21. Tôn thờ Thánh giá xong, phó tế hoặc thừa tác viên đặt Thánh giá bên cạnh bàn thờ. Đặt nến cháy chung quanh, trên bàn thờ hoặc gần Thánh giá.
HIỆP LỄ
22. Trải khăn bàn thờ, đặt khăn thánh và Sách Lễ. Trong khi đó, phó tế, hoặc chính linh mục, choàng khăn vai, kiệu Mình Thánh từ nơi lưu giữ, đem lên bàn thờ bằng lối ngắn nhất, trong khi Cộng đoàn đứng thinh lặng. Hai thừa tác viên mang nến cháy đi theo hầu Mình Thánh sau đó đặt trên hay cạnh bàn thờ.
Khi đã đặt bình đựng Mình Thánh trên bàn thờ và mở khăn che, linh mục cúi mình trước Mình Thánh.
23. Linh mục chắp tay đọc rõ tiếng:
Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo thể thức Người dạy
chúng ta dám nguyện rằng:
Linh mục dang tay đọc tiếp cùng với cộng đoàn:
Lạy Cha chúng con ở trên trời,
chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
Nước Cha trị đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày,
và tha nợ chúng con,
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con,
xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
24. Linh mục dang tay đọc một mình:
Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ,
xin đoái thương
cho những ngày chúng con đang sống được bình an,
nhờ Chúa rộng lòng thương cứu giúp,
chúng con sẽ luôn thoát khỏi tội lỗi
và được an toàn trước mọi biến loạn,
đang khi chúng con sống trong niềm hy vọng hồng phúc,
và mong đợi ngày Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Cứu Độ chúng con ngự đến.
Cộng đoàn tung hô kết thúc lời nguyện:
Vì vương quyền, uy lực và vinh quang là của Chúa đến muôn đời.
25. Linh mục chắp tay, đọc thầm:
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
con sắp rước Mình và Máu Thánh Chúa,
xin đừng để con vì thế mà bị xét xử và luận phạt,
nhưng nhờ lòng Chúa nhân từ,
xin che chở và cứu chữa hồn xác con.
26. Linh mục cúi mình, cầm Bánh thánh nâng lên trên bình thánh, quay về phía cộng đoàn đọc rõ tiếng:
Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.
Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.
Linh mục đọc chung với cộng đoàn:
Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con,
nhưng xin Chúa phán một lời,
thì linh hồn con sẽ lành mạnh.
27. Linh mục cung kính rước Mình Thánh, miệng đọc thầm: Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời.
28. Trong khi các tín hữu rước Mình Thánh, có thể hát thánh vịnh 21 hay một ca khúc thích hợp.
29. Cho rước Mình Thánh xong, phó tế hoặc một thừa tác viên thích hợp đưa bình đựng Mình Thánh vào chỗ dọn sẵn ngoài nhà thờ, hoặc tùy hoàn cảnh, đưa đặt vào Nhà Tạm.
30. Sau đó linh mục đọc: Chúng ta dâng lời cầu nguyện, và tùy nghi giữ thinh lặng giây lát trước khi đọc Lời nguyện hiệp lễ.
31. Để giải tán cộng đoàn, phó tế, hoặc nếu không có phó tế, chính linh mục mời gọi Cộng đoàn: Xin anh chị em cúi mình nhận phúc lành của Chúa.
Lạy Chúa,
xin ban phúc lành cho đoàn dân
đang tưởng niệm Con Chúa chịu chết
và tin tưởng mong đợi Người sống lại,
xin Chúa tha thứ và ban niềm an ủi,
cho chúng con ngày càng thêm vững tin
và nhận được ơn cứu độ muôn đời.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Đ. Amen.
32. Mọi người cúi mình chào kính Thánh giá rồi thinh lặng ra về.
33. Sau cử hành, lột khăn bàn thờ, đặt Thánh giá trên bàn thờ cùng với 2 hay 4 cây nến.
34. Những ai đã tham dự cử hành phụng vụ long trọng chiều nay không phải đọc kinh Chiều.
THỨ BẢY TUẦN THÁNH
1. Thứ Bảy Thánh, Hội Thánh ở lại bên mồ Chúa, cầu nguyện và giữ chay để suy niệm về cuộc thương khó, sự chết, việc Chúa xuống ngục tổ tông, đồng thời mong đợi Người sống lại.
2. Bàn thờ để trống, Hội Thánh không cử hành thánh lễ cho tới Đêm Vọng trọng thể mừng Chúa sống lại, lúc niềm vui phục sinh trào dâng và sẽ kéo dài suốt 50 ngày.
3. Hôm nay chỉ trao Thánh Thể như của ăn đàng.
ĐÊM VỌNG PHỤC SINH
1. Theo truyền thống rất xa xưa, đêm nay là đêm dành cho Chúa (Xh 12, 42), trong giờ canh thức, dựa vào lời khuyên của Tin Mừng (Lc 12, 35-37), các tín hữu cầm đèn cháy sáng trong tay như những người đang chờ đợi Chúa trở lại, để khi Người đến và thấy tỉnh thức, sẽ được nhận vào đồng bàn với Người.
2. Đêm Vọng này là đỉnh cao, vượt trên mọi đại lễ, vì thế chỉ được cử hành một lần trong mỗi nhà thờ theo trình tự: sau nghi thức thắp nến và công bố Tin Mừng phục sinh (phần thứ nhất của Đêm Vọng), Hội Thánh, với trọn niềm tin tưởng vào Lời Chúa và điều Người hứa, suy niệm về những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho dân Người thuở ban đầu (phần thứ hai hay phụng vụ Lời Chúa), đến lúc sắp bước sang ngày mới, khi các thành viên mới đã được tái sinh trong giếng rửa tội (phần thứ ba), Hội Thánh được mời đến bàn tiệc Chúa đã dọn sẵn cho Dân Người, cử hành lễ tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa cho tới khi Người đến (phần thứ tư).
3. Toàn thể Đêm Vọng phải được cử hành vào ban đêm, nghĩa là phải được khởi sự khi trời đã tối và kết thúc trước hừng đông ngày Chúa nhật.
4. Thánh lễ Vọng, cho dù được cử hành trước nửa đêm, vẫn là lễ Chúa nhật Phục sinh.
5. Ai tham dự lễ đêm, có thể được rước Thánh Thể lần nữa trong lễ chính ngày. Ai cử hành hay đồng tế lễ đêm, có thể được cử hành hay đồng tế lần nữa vào lễ chính ngày.
Đêm Vọng phục sinh thay thế cho giờ kinh sách lễ Phục sinh.
6. Thông thường có phó tế phụ giúp linh mục. Nếu không có phó tế, linh mục chủ tế hoặc linh mục đồng tế sẽ đảm nhiệm những phận vụ của phó tế, trừ những gì sẽ quy định sau.
Linh mục và phó tế mặc phẩm phục trắng như khi dâng lễ.
7. Phải chuẩn bị nến cho những người tham dự Đêm Vọng. Tắt các đèn trong nhà thờ.
NGHI THỨC KHAI MẠC TRỌNG THỂ ĐÊM VỌNG PHỤC SINH
Phần I
NGHI THỨC THẮP SÁNG
Làm phép Lửa và chuẩn bị Nến Phục sinh
8. Chuẩn bị một lò than cháy tại nơi thuận tiện ngoài nhà thờ. Sau khi dân chúng tụ họp, linh mục cùng với các thừa tác viên tiến ra, một thừa tác viên cầm Nến Phục sinh. Không mang Thánh giá đèn hầu.
Nơi nào không tiện đốt lửa ngoài nhà thờ, có thể cử hành nghi thức trong nhà thờ.
9. Cộng đoàn làm dấu Thánh giá Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, linh mục chào cộng đoàn như thường lệ, vắn tắt nói lên ý nghĩa Đêm Vọng.
11. Sau lời nguyện làm phép lửa mới, thừa tác viên mang Nến Phục sinh đến, linh mục lấy bút nhọn vẽ hình Thánh giá lên thân Nến, ghi chữ Hy Lạp “Alpha” phía trên hình Thánh giá, chữ “Ômêga” phía dưới, ghi bốn số của năm vào giữa các cánh Thánh giá , trong khi đọc:
1- Chúa Kitô hôm qua và hôm nay (vẽ nét dọc)
2- Nguyên thủy và cùng tận (vẽ nét ngang)
3- Alpha (Vẽ chữ Alpha trên đầu Thánh giá)
4- và Ômêga (Vẽ chữ Ômêga dưới chân Thánh giá)
5- Thời gian là của Chúa (Vẽ số đầu của năm trên cánh trái Thánh giá)
6- Mọi thế hệ là của Chúa ( Vẽ số thứ hai trên cánh phải Thánh giá)
7- Vinh quang và vương quyền là của Chúa (Vẽ chữ số thứ ba dưới cánh trái Thánh giá)
8- Qua mọi thế hệ cho đến muôn đời. Amen (Vẽ chữ số thứ tư dưới cánh phải Thánh giá)
12. Vẽ hình Thánh giá và các con số xong, linh mục có thể cắm vào cây nến năm hạt hương theo hình Thánh giá, theo thứ tự:
1. Nhờ các dấu thánh
2. vinh hiển của Chúa Kitô,
3. xin Người
4. gìn giữ
5. và bảo toàn chúng ta. Amen.
13. Nếu không thể đốt lò than lửa, nên thích ứng nghi thức làm phép lửa theo hoàn cảnh. Dân chúng có thể quy tụ trong nhà thờ và khi linh mục cùng các thừa tác viên mang Nến Phục sinh tiến về phía cửa nhà thờ, dân chúng quay xuống hướng về phía linh mục.
Linh mục chào và nhắc bảo dân chúng rồi làm phép lửa và chuẩn bị Nến Phục sinh.
Linh mục lấy lửa mới thắp sáng cây Nến Phục sinh và đọc:
Xin ánh sáng Chúa Kitô phục sinh vinh hiển
xua tan bóng tối nơi tâm trí chúng con.
Hội đồng Giám mục có thể quy định cách khác về những yếu tố trên đây cho thích hợp hơn với tinh thần dân chúng địa phương.
Rước Nến Phục sinh
15. Sau khi thắp sáng Nến Phục sinh, một thừa tác viên gắp than cháy từ lò lửa bỏ vào bình hương và linh mục bỏ hương như thường lệ. Phó tế, hay nếu không có phó tế, một thừa tác viên cầm Nến Phục sinh và bắt đầu cuộc rước. Thừa tác viên cầm bình hương với khói hương nghi ngút đi trước phó tế hay thừa tác viên cầm Nến Phục sinh. Theo sau là linh mục cùng với các thừa tác viên và dân chúng, mọi người cầm nến chưa đốt trong tay.
Tới cửa nhà thờ, phó tế đứng lại, đưa cao Nến Phục sinh và hát: Ánh sáng Chúa Kitô. Cộng đoàn: Tạ ơn Chúa.
Linh mục thắp sáng nến của mình từ lửa Nến Phục sinh.
16. Phó tế đến giữa nhà thờ, đứng lại, đưa cao Nến Phục sinh, hát lần thứ hai: Ánh sáng Chúa Kitô. Cộng đoàn: Tạ ơn Chúa.
Mọi người thắp sáng nến của mình từ lửa Nến Phục sinh và tiếp tục đi rước.
17. Khi đến trước bàn thờ, phó tế đứng quay lại phía dân chúng, giơ cao Nến Phục sinh, hát lần thứ ba: Ánh sáng Chúa Kitô. Cộng đoàn: Tạ ơn Chúa.
Phó tế cắm Nến Phục sinh vào chân đèn dọn sẵn cạnh giảng đài hay giữa cung thánh. Thắp sáng các đèn trong nhà thờ, trừ các nến trên bàn thờ.
Công bố Tin Mừng Phục sinh
18. Khi đến bàn thờ, chủ tế về ghế, trao nến cho thừa tác viên, bỏ hương và chúc lành cho hương như trước khi đọc Tin Mừng trong thánh lễ. Phó tế đến trước chủ tế xin phép lành: Xin cha chúc lành cho con. Chủ tế đọc nhỏ tiếng: Xin Chúa ngự nơi tâm hồn và môi miệng thầy, để thầy xứng đáng và đủ tư cách công bố Tin Mừng Phục sinh của Chúa, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Phó tế thưa: Amen.
Nếu người công bố Tin Mừng Phục sinh không phải là phó tế thì không xin chúc lành.
19. Phó tế xông hương sách và Nến Phục sinh trước khi công bố Tin Mừng Phục sinh tại giảng đài hay giá sách, mọi người đứng cầm nến sáng trong tay.
Nếu không có phó tế, chính linh mục chủ tế hay một vị đồng tế công bố Tin Mừng Phục sinh. Nếu người hát là giáo dân, không hát câu: Vậy giờ đây… cho đến hết lời kêu mời. Cũng không hát lời chào: Chúa ở cùng anh chị em.
Có thể công bố Tin Mừng Phục sinh theo bản ngắn.
Phần II
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
20. Trong đêm Vọng này là mẹ của mọi đêm Vọng, Hội Thánh đề nghị đọc chín bài đọc: bảy bài trích từ Cựu Ước và hai bài từ Tân Ước (Thánh thư và Tin Mừng). Khi có thể, phải đọc đủ chín bài để bảo toàn đặc tính của việc canh thức, thường đòi hỏi phải kéo dài.
21. Dù vậy, khi có lý do mục vụ quan trọng, cần phải rút ngắn, có thể bớt một số bài đọc Cựu Ước. Tuy nhiên luôn phải coi việc đọc Lời Chúa là yếu tố chính của đêm Canh thức phục sinh. Phải đọc ít là ba bài Cựu Ước và hát những thánh vịnh tương ứng. Không bao giờ được bỏ qua bài đọc chương 14 của sách Xuất hành, cùng với thánh thi đi kèm.
22. Mọi người cất nến và ngồi xuống. Trước khi bắt đầu các bài đọc, linh mục kêu gọi dân chúng lắng nghe Lời Chúa
23. Tiếp theo là các bài đọc. Người đọc sách công bố các bài đọc tại giảng đài. Sau đó, ca viên hát thánh vịnh, dân chúng thưa lại bằng câu đáp. Rồi Cộng đoàn đứng lên, linh mục đọc: Chúng ta dâng lời cầu nguyện, và sau khi cộng đoàn thinh lặng cầu nguyện giây lát, linh mục đọc lời nguyện tương ứng của bài đọc. Có thể thay thế thánh vịnh đáp ca bằng cầu nguyện thinh lặng. Trong trường hợp này, không phải giữ thinh lặng sau câu: Chúng ta dâng lời cầu nguyện.
[…]
31. Sau bài đọc Cựu Ước cuối cùng với thánh vịnh đáp ca và lời nguyện đi kèm, đốt nến bàn thờ và linh mục xướng thánh thi Vinh danh. Đổ chuông theo thói quen địa phương và cộng đoàn tiếp tục hát thánh thi Vinh danh.
32. Sau thánh thi Vinh danh, linh mục đọc lời nguyện nhập lễ như thường lệ
33. Sau đó đọc bài Thánh thư.
34. Sau bài Thánh thư, cộng đoàn đứng, linh mục long trọng xướng ba lần Alleluia, mỗi lần lên cung cao hơn, và dân chúng lặp lại. Nếu cần, người hát thánh vịnh sẽ xướng Alleluia. Sau đó người hát thánh vịnh, hay ca viên, hát thánh vịnh 117 và dân chúng đáp Alleluia.
(Tiếp tục đứng sau khi hát long trọng ba lần Alleluia)
35. Linh mục bỏ hương và chúc lành cho phó tế như thường lệ. Khi đọc Tin Mừng, không mang đèn, chỉ xông hương.
36. Sau Tin Mừng phải có bài giảng, ít là vắn tắt.
PHẦN III
PHỤNG VỤ THÁNH TẨY
____________________________
Nếu có ban bí tích Thánh tẩy
37. Sau bài giảng sẽ cử hành phụng vụ rửa tội. Linh mục cùng với các thừa tác viên đi đến giếng rửa tội, nếu giếng được đặt nơi các tín hữu có thể nhìn thấy, nếu không, sẽ đặt một bình nước trong cung thánh.
38. Mời các dự tòng tiến lên cùng với những người đỡ đầu, hoặc mời cha mẹ và những người đỡ đầu bế các trẻ nhỏ lên trước cộng đoàn.
39. Tiến hành cuộc rước đến giếng rửa tội, nếu có. Đi đầu là thừa tác viên cầm Nến Phục sinh, tiếp theo là những người sắp được rửa tội cùng đi với những người đỡ đầu, các thừa tác viên, phó tế và linh mục. Đang khi đi rước hát kinh cầu .
40. Nếu cử hành phụng vụ rửa tội tại cung thánh, linh mục đọc lời mời gọi mọi người sốt sắng cầu nguyện.
41. Kinh cầu do hai ca viên hát, mọi người đứng thưa câu đáp (vì là mùa Phục sinh). Nếu quãng đường đi rước đến giếng rửa tội dài, sẽ hát kinh cầu đang khi đi rước; trong trường hợp này, sau lời mời những người sắp được rửa tội tiến lên, sẽ tiến hành cuộc rước với Nến Phục sinh đi đầu, tiếp đến là các dự tòng và những người đỡ đầu, các thừa tác viên, phó tế và linh mục.
46. Linh mục dang tay đọc lời nguyện làm phép nước
Tùy nghi nhúng Nến Phục sinh một hay ba lần vào nước
Linh mục cử hành Bí tích Thánh tẩy theo quy định của Nghi thức Bí tích
____________________________
Nếu không ban bí tích Thánh tẩy
42. Nếu không có người rửa tội, cũng không làm phép giếng, thì bỏ kinh cầu và tiến hành làm phép nước ngay
55. Sau lời nguyện làm phép nước, mọi người đứng và cầm nến cháy trong tay, lặp lại lời hứa từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin
Sau đó, linh mục rảy nước thánh trên dân chúng, mọi người đứng hát: Tôi đã thấy nước . . .
58. Linh mục trở về ghế, không đọc kinh Tin kính
70. Đốt Nến Phục sinh trong các cử hành long trọng trong mùa này.
LỄ CHÚA LÊN TRỜI
Nơi nào lễ trọng Chúa thăng thiên không phải là lễ buộc, thì mừng vào Chúa nhật VII mùa Phục sinh, như ngày lễ riêng được chỉ định.
Lễ Vọng
Cử hành lễ này vào chiều áp lễ Chúa thăng thiên, trước hoặc sau kinh Chiều I.
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Cử hành lễ Vọng vào chiều Thứ Bảy, trước hoặc sau kinh Chiều I.
Kết thúc mùa Phục sinh, tắt Nến Phục sinh, đặt vào nơi xứng đáng gần giếng rửa tội, để khi cử hành bí tích Thánh tẩy, sẽ thắp lên và châm nến cho các thụ nhân.
Tại những nơi các tín hữu buộc hoặc có thói quen dâng lễ vào Thứ Hai và Thứ Ba sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có thể lấy bản văn lễ Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống hoặc lễ về Chúa Thánh Thần.
2023
Thấy mình trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu
a) Suy niệm sâu sắc về “Bảy Lời Cuối Cùng của Chúa Giêsu từ Thập Giá.”
b) Trình bày cách mô tả “Các Nhân Vật Trong Cuộc Khổ Nạn.” Ngài mô tả các thái độ, nhân đức hoặc tính xấu khác nhau của nhiều người tham gia vào Cuộc Khổ Nạn – đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
“Các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô” chắc chắn có thể dùng như một tấm gương để xét mình nghiêm túc đối với mỗi người trong chúng ta. Chúng ta có thể khám phá và xác định mình với nhiều đặc điểm của các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa – một số tích cực và đáng khen, một số tiêu cực và đáng trách.
Vì vậy, chúng ta hãy can đảm bước vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu bằng cách vừa suy gẫm vừa suy nghĩ về những nhân vật hoặc những người liên quan Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa chúng ta. Hy vọng chúng ta sẽ được coi là những người trung thành của Chúa Giêsu, những người mang lại niềm an ủi sâu sắc cho Trái Tim bị thương và chảy máu của Ngài.
Chúng ta sẽ xem xét một số nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Bài viết ngắn này không đầy đủ, nhưng nó sẽ cho chúng ta nếm trải ít nhất một hương vị trong nhiều tính cách của những người có mặt trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, cách phác họa các động độ khác nhau sẽ tác động đến chúng ta theo nhiều cách và có thể thúc đẩy chúng ta hoán cải.
1. ÁC VƯƠNG HÊRÔĐÊ
Chúa Giêsu bị chất vấn trước mặt vua Hêrôđê và triều đình, nhưng Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi nào. Ông vua độc ác này đại diện cho những người theo chủ nghĩa nhục dục, chủ nghĩa khoái lạc, phó mặc cho những ham muốn xác thịt. Chúa Giêsu không mở miệng bởi vì Ngài sẽ chỉ bị chế giễu, mỉa mai và nhạo báng. Với những loại người này, Chúa Giêsu xác định: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.” (Mt 7:6)
Ngày nay, nhiều người theo chủ nghĩa khoái lạc, hướng về nhục dục, hoàn toàn phó mặc cho những ham muốn xác thịt. Chúa Giêsu xác định với ông Nicôđêmô: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:5-6)
2. TỔNG TRẤN PHILATÔ
Người biện lý La Mã này đại diện cho nhiều người ngày nay. Về cơ bản, Philatô đại diện cho kẻ hèn nhát điển hình. Vợ ông là Claudia đã mơ về sự vô tội của Chúa Giêsu, nhưng ông ta đã bỏ qua yếu tố chân lý này. Ông ta muốn làm hài lòng đám đông, ông ta là “người làm vui lòng dân hơn là làm vui lòng Chúa!”
Chúng ta thường hành động và phản ứng như thế nào để làm vui lòng mọi người, để được mọi người vui thích và tán thưởng, để làm tổn hại chúng ta vì đã từ chối ý muốn của Thiên Chúa và làm mất lòng Chúa? Sự tôn trọng dành cho con người lại thường vượt xa sự tôn trọng dành cho Thiên Chúa!
3. PHARISÊU, KINH SƯ VÀ SAĐỐC
Nhiều người từ chối Chúa Giêsu và kêu gào kết án Ngài, điều đó thể hiện sự kiêu ngạo về trí tuệ. Đây là giới trí thức – nhóm có học thức và uyên bác về Kinh Thánh. Họ là những người biết nhiều về tâm linh. Người ta cảm thấy quá sức tưởng tượng khi đối diện với một người thợ mộc khiêm tốn, ít học, đến từ Nadarét, giống như một thỏi nam châm, thu hút vô số người bởi những lời nói và việc làm của Ngài.
Quả thật, chính sự kiêu ngạo và đố kỵ về trí tuệ của họ đã làm cho họ mù quáng, không thể nhận ra mà chấp nhận Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của họ. Ngày nay có biết bao người vẫn mù quáng, không nhận biết và không chấp nhận sự thật do sự kiêu ngạo về trí tuệ!
4. VÔ SỐ NGƯỜI THEO DÕI CHÚA GIÊSU
Nhiều người trong nhóm này là biểu tượng của những người tò mò. Nhiều người tìm kiếm sự mới lạ, sự đổi mới, mốt mới và kiểu lạ để khơi gợi sự tò mò bệnh hoạn của họ. Thật nguy hiểm biết bao khi họ chỉ sống vì sự phấn khích mau qua. Người ta có câu: “Sự tò mò giết chết con mèo!”
5. TIẾNG HÔ “ĐÓNG ĐINH!”
Có những người trên thế giới thực sự có lòng căm thù đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Giêsu, và tất cả những gì liên quan Thiên Chúa. Nhóm Sađốc, các thượng tế đứng dưới thập giá và đám đông trước mặt Philatô kêu to: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Ngày nay, càng ngày càng có nhiều người nuôi dưỡng lòng căm thù quỷ quyệt đối với Chúa Giêsu và tất cả những gì liên quan Thiên Chúa. Số người này trong thế giới hiện đại vẫn tiếp tục gia tăng!
6. ÔNG SIMÔN KYRÊNÊ
Sau khi làm việc và trở về từ cánh đồng, ông Simôn thành Kyrênê bị bắt buộc phải giúp Chúa Giêsu vác thập giá. Lúc đầu, Simôn chống cự và tìm cách thoái thác, nhưng khi đã chấp nhận vác thập giá, ông ấy không chỉ thấy hoàn toàn phù hợp với công việc này, mà còn thích giúp Chúa Giêsu vác thập giá.
Có thể đó là bạn và tôi: ngay từ đầu chúng ta chạy muốn trốn khỏi thập giá, nhưng khi đã chấp nhận, chúng ta thấy “ách êm ái và gánh nhẹ nhàng.” (Mt 11:30)
7. BÀ VÊRÔNICA
Bà Vêrônica là một phụ nữ dũng cảm. Bà đã chen qua đám đông và lau mặt Chúa Giêsu bằng khăn trùm của mình. Chúa Giêsu đã đền đáp cho bà bằng cách để Thánh Nhan Ngài in vào tấm khăn đó. Còn chúng ta, liệu chúng ta có can đảm ra đi để giúp đỡ những người đang đau khổ và hoạn nạn hay không?
8. NHỮNG NGƯỜI ĐÓNG ĐINH CHÚA
Mặc dù điều này có thể khó chấp nhận, nhưng mỗi khi chúng ta đồng ý phạm một tội trọng, thì theo nghĩa thực tế, chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc đóng đinh Chúa Giêsu, về những chiếc đinh đâm vào chân tay Ngài. Tuy nhiên, bằng cách xưng tội nên, chúng ta nhổ đinh và để cho Chúa Giêsu Phục Sinh bước đi!
9. NHỮNG NGƯỜI LÍNH RÚT THĂM CHIA CHÁC
Có những người lính bên dưới khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá và đau đớn tột cùng. Họ rút thăm xem ai được nhận y phục của Chúa Giêsu. Những người này, cùng với nhiều người trong đám đông đang nhìn xem, thể hiện thái độ dửng dưng và lãnh đạm.
Ngày nay có quá nhiều người bày tỏ thái độ dửng dưng, lãnh đạm, thờ ơ, xa cách đối với Chúa Giêsu. Sách Khải Huyền lên án mạnh mẽ thái độ này bằng những lời lẽ làm rung chuyển trái đất này: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3:15-16)
Đáng buồn là có một số đông những người được gọi là Kitô hữu Công giáo thể hiện thái độ dửng dưng và lãnh đạm với Chúa, với các Bí Tích và với Giáo Hội. Có lẽ chúng ta thuộc nhóm này. Nếu vậy, đã đến lúc chúng ta phải thay đổi!
10. KẺ TRỘM DỮ
Bất chấp gương tốt của Chúa Giêsu và tấm gương cao quý nhất về lòng nhân từ và thương xót của Ngài: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc. 23: 24) Tên tử tội xấu đã tự kết liễu đời mình bằng cách nguyền rủa và thách thức Chúa Giêsu. Thậm chí hắn còn muốn biến đổi tử tội cùng bị đóng đinh với mình, nhưng hắn vẫn chết với trái tim lạnh lùng, nhẫn tâm và độc ác! Có những người, mặc dù được Thiên Chúa ban cho nhiều ân sủng, nhưng họ lại trở nên chai cứng và nhẫn tâm hơn. Xin Chúa giải cứu chúng ta!
11. NGƯỜI TRỘM LÀNH
Ở mặt khác của đồng tiền, bên cạnh Chúa Giêsu trên Thập Giá, chúng ta gặp người trộm lành. Anh ta kết thúc đời mình bằng cách ăn năn và cầu xin Chúa Giêsu thương xót. Chúa Giêsu luôn sẵn sàng tha thứ, tỏ lòng thương xót, và mở Thiên Đàng cho tử tội sám hối này, với những lời an ủi nhất: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc. 23:43) TGM Sheen nhắc nhở chúng ta: “Anh ta chết mà vẫn ăn trộm vì anh ta đã lấy trộm Thiên Đàng.” Sự cứu rỗi có thể xảy ra ngay giây phút cuối cùng đối với những người thật lòng ăn năn!
12. VIÊN ĐỘI TRƯỞNG ĐÂM CHÚA
Sau khi đâm Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, viên đại đội trưởng này đã tin! Ông công nhận: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!” (Mc 15:39) Máu và nước tuôn ra từ Trái Tim Chúa Giêsu là nguồn ơn hoán cải và ơn cứu độ vô tận!
13. MARIA MAĐALÊNA
Sau khi được trừ bảy quỷ, bà Mađalêna đã biến đổi nhờ tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đứng dưới chân Thập Giá, ôm lấy Thập Giá với mái tóc rối bù, bà Mađalêna thể hiện tình yêu chân thành và lòng sùng kính dành cho Chúa Giêsu. Bà Mađalêna đại diện cho những người thực sự canh tân cuộc sống. Tất cả đều được mời gọi ăn năn và tín thác. Có lẽ vẫn còn điều gì đó giống bà Mađalêna trong chúng ta, đó là cần đổi mới chăng?
14. MÔN ĐỆ GIOAN
Môn đệ Gioan đứng dưới Thập Giá đại diện cho giới tư tế. Linh mục có thể được định nghĩa là nạn nhân, là vật hy sinh, là người dâng những lời cầu nguyện và hy sinh để đền tội cho mình và cho các tội nhân. Chúa Giêsu là lễ vật không tì vết, và bị treo trên Thập Giá. Môn đệ Gioan đứng bên Mẹ Maria, dưới chân Thập Giá, dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha Hằng Hữu để xin ơn cứu độ tội nhân và nhân loại. Xin cho các giáo sĩ biết noi gương Thánh Gioan!
15. ĐỨC MẸ
Có rất nhiều danh hiệu dành cho Đức Mẹ. Tuy nhiên, TGM Sheen tôn vinh Đức Mẹ là Đấng Vô Tội – Innocence, vì Đức Mẹ đã đứng bên Thập Giá suốt ba giờ. Tất cả chúng ta đều đóng đinh Chúa Giêsu vào Thập Giá do tội lỗi của mình. Đức Maria không hề phạm tội, nhưng đã dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha để cứu rỗi toàn thể nhân loại.
16. CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH
Khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, chúng ta có cách mô tả rõ ràng nhất về Tình Yêu Nhập Thể. Thánh Inhaxiô nói rằng Chúa Giêsu chết trên Thập Giá vì hai lý do:
a) Cho chúng ta thấy sự xấu xa của tội lỗi.
b) Đặc biệt cho chúng ta thấy sự vĩ đại của tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Nếu bạn là người duy nhất trên thế giới, Chúa Giêsu vẫn chịu khổ nạn và chịu chết vì yêu thương bạn và cứu rỗi linh hồn bất tử của bạn.
17. CHÚA CHA VĨNH HẰNG
Trong bộ phim The Passion of the Christ (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của Mel Gibson, cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá kết thúc bằng một giọt nước khổng lồ từ trên trời rơi xuống. Cách hiểu thế nào? Đó là Giọt Nước Mắt của Chúa Cha từ trời cao. Chúa Cha khóc trước cái chết của Con Ngài và khóc vì tội lỗi của nhân loại. Nhưng Chúa Cha cho phép Con Ngài chết vì yêu thương chúng ta và sự cứu rỗi đời đời của chúng ta.
KẾT LUẬN
Hãy dành nhiều thời gian để suy ngẫm về các nhân vật trong Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Bạn có thể xác định điều gì trong số những điều này với cuộc sống của chính mình? Cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí bạn để biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát bạn.
2023
Phụng vụ Mùa Chay và đầu Tuần Thánh
Trong năm Phụng vụ, các mùa Phụng vụ có những tầm quan trọng khác nhau. Tam Nhật Vượt qua luôn là trung tâm điểm với cao điểm là lễ Phục sinh. Các mùa khác có những ý nghĩa cũng như tầm quan trọng nhất định, trong đó mùa Chay giữ một ý nghĩa đặc biệt. Mùa Chay kéo dài từ thứ tư lễ Tro và kết thúc trước thánh lễ chiều Tiệc Ly ngày thứ Năm Tuần Thánh. Mùa Chay là thời gian chuẩn bị mừng đại lễ Vượt qua, với lời kêu gọi các tín hữu hãy từ bỏ tội lỗi, hãy hoán cải, cầu nguyện, chay tịnh và thi hành bác ái.[1]
Do đó, mùa Chay là thời gian rất ý nghĩa đối với mỗi tín hữu khi tham dự vào các nghi thức Phụng vụ. Với tâm tình hoán cải của một người con tội lỗi, mùa Chay mời gọi mỗi người hãy hòa giải với Thiên Chúa qua việc từ bỏ đời sống tội lỗi của mình. Nhờ đó mỗi người cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho mình. Với thời gian chuẩn bị trong mùa Chay, các tín hữu hân hoan bước vào việc cử hành mầu nhiệm cao đẹp nhất, mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
I* Nguồn gốc của mùa Chay
1* Nguồn gốc và ý nghĩa mùa Chay
Chúng ta không biết một cách chắc chắn rằng mùa Chay do ai thiết lập và đã xuất hiện ở đâu trước tiên, nhưng chỉ biết vào khoảng cuối thế kỷ III đầu thế kỷ IV tại Ai Cập mùa Chay đã hình thành một cách rõ nét, còn tại Rôma vào cuối thế kỷ 4 đã có các quy định chặt chẽ về mùa Chay. Một trong những đặc tính nổi bật của mùa Chay là việc giữ chay tịnh. Khác với chay tịnh mừng lễ Phục sinh thường đi liền trước buổi cử hành Đêm vọng Phục sinh và là thành phần chính yếu của cử hành này, còn chay tịnh của mùa Chay lúc ban đầu vừa nhằm chuẩn bị xa cho Đại lễ Phục sinh, vừa theo gương Đức Giêsu giữ chay tịnh trong hoang địa 40 ngày trước khi bước vào cuộc đời công khai (Mt 4,1-11; Mc 1,12-13; Lc 4,1-13).
Ngoài chay tịnh, còn có cầu nguyện và thực hành bác ái là những đặc tính nổi bật của mùa Chay. Giáo hội luôn liên kết ba hành động này trong đời sống của dân Chúa, bởi vì đây chính là giáo huấn của Chúa Kitô (Mt 6,1-18). Tại Rôma vào cuối thế kỷ IV, các dự tòng chuẩn bị lãnh các bí tích khai tâm vào đêm vọng Phục sinh được mời gọi sống ba đặc tính mùa Chay này, họ phải tập luyện từ bỏ con người cũ, sống đời bác ái và chuyên chăm cầu nguyện. Cũng trong thời gian này các Kitô hữu cũng được mời gọi hoán cải và sám hối để chuẩn bị mừng lễ Phục sinh, cách riêng những người phạm tội nặng và công khai như bỏ đạo, giết người, ngoại tình… họ phải thật lòng sám hối và làm việc đền tội trong suốt mùa Chay, để cuối cùng được ơn tha thứ cũng như hoà giải với Thiên Chúa và Giáo hội trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, trước lễ Phục sinh.
Như vậy mùa Chay mang ý nghĩa cho mọi người:
Đối với toàn thể dân Kitô giáo đây là thời gian mọi người chuyên chăm cầu nguyện, giữ chay tịnh và thực hành bác ái.
Đối với các dự tòng đó là thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho họ lãnh các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh.
Đối với các hối nhân đây là thời kỳ đền tội và sám hối để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ và hoà giải.
2* Cấu trúc mùa Chay
Khi nói đến mùa Chay người ta thường nghĩ đến 40 ngày chay tịnh; thực ra cách tính 40 ngày chỉ có vào khoảng giữa thế kỷ IV (từ năm 354 đến 384), vào thời đó mùa Chay bắt đầu từ Chúa nhật thứ nhất mùa Chay và kết thúc trước Tam Nhật Vượt qua và kéo dài đúng 40 ngày. Nhưng vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII, thần học về ngày Chúa nhật phát triển, người ta không tính ngày Chúa nhật trong số 40 ngày chay tịnh nữa, và để bù vào những ngày Chúa nhật bị mất, người ta kéo dài mùa Chay thêm một số ngày trước Chúa nhật I mùa Chay để giữ ý nghĩa biểu tượng của con số 40. Cuối cùng ngày thứ Tư trước Chúa nhật I mùa Chay được chọn làm ngày khởi đầu mùa Chay. Nhưng dầu sao cách chọn ngày thứ Tư vẫn không đủ 40 ngày của mùa Chay, bởi vì mùa Chay có 6 Chúa nhật (5 Chúa nhật và Chúa nhật lễ Lá), và nếu muốn tính đủ 40 ngày thì phải chọn ngày thứ Hai chứ không phải thứ Tư. Thế nhưng Giáo hội lại chọn ngày thứ Tư vì hai lý do sau đây:
Truyền thống từ rất lâu trong Giáo hội vẫn coi ngày thứ Tư và thứ Sáu trong tuần là những ngày sám hối, vì vậy khi chọn thứ Tư điều đó sẽ phù hợp với ý nghĩa sám hối và hoán cải của mùa Chay.
Giáo hội kế thừa truyền thống Do Thái về biến cố xuất hành ra khỏi Ai Cập, mà theo truyền thống này Chúa đã giải thoát dân và giao ước với họ vào ngày thứ Tư trong tuần. Ngày thứ Tư được coi là mốc điểm của biến cố cứu độ, đó cũng chính là ý nghĩa của mùa Chay khi Giáo hội chuẩn bị mừng biến cố Vượt qua của Chúa Kitô.[2]
Vì những lý do này mà ngày nay chúng ta nên hiểu 40 ngày chay tịnh của mùa Chay chỉ mang nghĩa biểu tượng chứ không theo cách tính toán chính xác. Vì thế “Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch” đã không xác định mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày mà chỉ nói cách chung: “Bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro và kết thúc ngay trước thánh lễ Tiệc Ly”;[3] trong khi đó lại minh nhiên xác định mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày.[4]
a* Thứ Tư lễ Tro – khởi đầu mùa Chay
Ban đầu ngày thứ Tư khởi đầu mùa Chay không có cử hành nào đặc biệt, nhưng vào thế kỷ X tại vùng Rhénan (Đức), người ta thấy việc xức tro được cử hành rộng rãi vào ngày thứ Tư. Quả thực, cử chỉ xức tro có trong văn hoá của nhân loại từ lâu nhưng mang nhiều ý nghĩa khác nhau: Người Yogi và người Sadđou bên Ấn Độ lấy tro xoa mình để biểu thị việc chối bỏ mọi vinh hoa trần thế; còn truyền thống Trung Hoa lại phân biệt tro khô với tro ẩm, theo Lieu-Tseu (Liệt Tử) thì tro ẩm là điềm báo tử.[5] Còn trong truyền thống Kinh thánh, tro là biểu tượng của sự mau qua, của tính bấp bênh đời người. Cuộc sống con người chỉ là tạm bợ, dù con người có là gì đi nữa thì không ai thoát cái chết, chính cái chết sẽ biến đổi tất cả ra tro bụi. Abraham trong cuộc mặc cả với Chúa về việc tiêu hủy thành Sodoma và Gomora (St 18,16-33) đã tự nhận mình chỉ là tro bụi (St 18,27). Trước mặt Chúa con người yếu đuối mỏng dòn, họ chỉ là tội nhân cần được thanh luyện. Lửa thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ thiêu đốt tội lỗi và tính kiêu căng con người thành tro bụi (Ed 28,18). Vì thế, Tro còn là dấu chỉ của tâm tình sám hối và hoán cải (Gs 7,6; 2 Sm 13,19; Ed 27,30; G 2,12; 42,6 ), người rắc tro lên đầu hoặc ngồi trên tro biểu lộ sự buồn phiền, đau khổ và ăn năn.
Giáo hội ban đầu cũng duy trì ý nghĩa xức tro theo truyền thống Cựu ước. Các tín hữu thuở ban đầu thường xức tro để tỏ lòng sám hối; đặc biệt là đối với người có tội công khai thì cử chỉ này là cách biểu hiện bề ngoài của thái độ sám hối nội tâm. Vào thời đầu của Giáo hội, xức tro diễn tả hai ý nghĩa cơ bản sau:
Con người chỉ là thụ tạo, thân phận mau qua. Trước mặt Thiên Chúa con người không là gì để tự mãn, mỏng dòn và mau thay đổi.
Xức tro nhắc đến thái độ nội tâm của con người: vì là thụ tạo, mau qua, con người phải biết khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Loại bỏ tính tự mãn là cách thức tẩy trừ tội lỗi để đưa con người sống ân tình với Thiên Chúa, Đấng không thay đổi và bảo đảm sự hiện hữu của con người.
Cho đến năm 1091 (thế kỷ XI), Công đồng miền Bénévent (Ý) mới chỉ thị: “Ngày thứ Tư lễ Tro, tất cả mọi người, giáo sĩ và giáo dân, đàn ông và phụ nữ, đều phải nhận tro”. Và chỉ từ thế kỷ XIII, việc xức tro mới thực sự được cử hành trong phụng vụ của toàn Giáo hội.[6]
b* Các Chúa nhật dành cho dự tòng
Trong những thế kỷ đầu Giáo hội chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho các dự tòng trước khi cử hành thánh tẩy cho họ. Có ba giai đoạn trong tiến trình gia nhập Kitô giáo:
Giai đoạn khởi giảng Tin mừng là thời gian đầu tiên các dự tòng có thiện cảm và bước đầu tìm hiểu Kitô giáo.
Giai đoạn học đạo kéo dài nhiều năm, và thời gian cuối của giai đoàn này thường trùng vào mùa Chay.
Giai đoạn nhiệm huấn kéo dài trong suốt tuần Bát nhật Phục sinh sau khi đã chịu thánh tẩy.
Vì giai đoạn cuối để gia nhập đạo trùng vào mùa Chay nên Giáo hội cử hành một số nghi thức đặc biệt dành cho các dự tòng: Chúa nhật I mùa Chay cử hành nghi thức tuyển chọn, còn gọi là nghi thức ghi danh, qua nghi thức này, người dự tòng chính thức là ứng viên đón nhận các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh. Sau đó vào Chúa nhật, thứ III, IV và V họ sẽ tham dự các nghi thức “khảo hạch”, tức giám mục sẽ giảng dạy và hỏi các dự tòng tổng quát về giáo lý Kitô giáo, kế đó ngài sẽ cử hành nghi thức trao kinh cho họ, nghĩa là trao cho họ hai kinh Tin Kính và Lạy Cha, họ sẽ học hai kinh này và đọc lại cho giám mục nghe mỗi khi ngài giảng dạy vào những Chúa nhật kế tiếp của mùa Chay trong thời gian học đạo.
II* Cử hành phụng vụ trong mùa Chay
1* Cử hành thứ Tư lễ Tro
Trước Công đồng Vaticanô II, vào ngày thứ Tư lễ Tro, nghi thức làm phép và xức tro được cử hành ngay đầu thánh lễ, còn trong Nghi thức hiện nay, việc xức tro được đặt trong phần Phụng vụ Lời Chúa sau bài Tin mừng, và người ta không nhất thiết phải cử hành Thánh Thể sau khi xức tro, bởi vì Nghi thức xức tro có thể cử hành trong thánh lễ hay ngoài thánh lễ.[7] Khi cử hành ngoài thánh lễ, sau phần xức tro cộng đoàn sẽ đọc lời nguyện chung để kết thúc buổi cử hành phụng vụ. Sách lễ Rôma hiện nay đặt nghi thức xức tro vào loại cử hành sám hối (celébration pénitentielle).
Trước đây, khi xức tro, chỉ có một công thức duy nhất: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Công thức này được trích từ Cựu ước, nhắc đến giá trị truyền thống của cử chỉ xức tro và ý nghĩa đích thực mỏng manh của đời người. Nhưng trong Nghi thức hiện nay, công thức này lại được bổ túc bằng công thức thứ hai trích từ Tân ước, lời của Đức Kitô: “Hãy sám hối và đón nhận Tin mừng” (Mc 1,15). Chính lời Đức Kitô soi sáng và mang cho cử chỉ xức tro ý nghĩa mới: xức tro không chỉ nhắc đến thân phận mỏng dòn yếu đuối của nhân loại, nhưng việc đón nhận Tin mừng sẽ làm cho con người thấy rõ hơn thân phận yếu đuối của mình, và như thế cử chỉ sám hối vừa là điều kiện đi trước vừa là kết quả theo sau của việc đón nhận Lời Chúa.
2* Các bài đọc Kinh thánh trong thánh lễ mùa Chay
Bài đọc ngày Chúa nhật: các bài đọc này xoay quanh hai bài Cựu ước và Tin mừng, còn bài thánh thư khi thì soi sáng cho bài Cựu ước, khi thì khai triển tư tưởng của bài Tin mừng. Đối với các bài Cựu ước, mỗi năm trong ba năm A, B, C đều nhắc đến các biến cố lớn trong lịch sử dân Chúa xưa để hướng đến mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô. Chẳng hạn chúng ta có các chủ đề của từng Chúa nhật như sau:
+ Giao ước – sa ngã, giao ước Nôê, dân được tuyển chọn tuyên xưng niềm tin (Chúa nhật I);
+ Abraham – ơn gọi, hiến tế Isaac, giao ước (Chúa nhật II);
+ Môsê – Nước chảy từ tảng đá, Chúa ban lề luật, Thiên Chúa mặc khải Danh của Người (Chúa nhật III).
+ Dân Chúa sống trong đất hứa – Vua Đavít, lưu đày và trở về, lễ Vượt qua trong đất hứa (Chúa nhật IV).
+ Các ngôn sứ – Ezekiel, Giêrêmia, Isaia (Chúa nhật V).
Còn đối với các bài Tin mừng, thì Chúa nhật I và II cả ba năm đều đọc như nhau trình thuật Chúa Kitô chịu cám dỗ (CN I) và biến hình (CN II) theo các Phúc âm nhất lãm. Ba Chúa nhật còn lại được gọi là các Chúa nhật “khảo hạch” dành cho dự tòng, và theo truyền thống người ta đọc ba trình thuật sau đây: mặc khải của Chúa cho người thiếu phụ Samaria (Ga 4,5-42), Chúa chữa người mù từ khi mới sinh (Ga 9,1-41) và sự phục sinh của Lazarô (Ga 11,1-45). Hiện nay, ba đoạn Tin mừng này được đọc trong ba Chúa nhật (III, IV, V) của năm A, nhưng theo luật phụng vụ vẫn có thể đọc trong năm B và C.
Các bài đọc trong tuần: Cũng theo các chủ đề chính yếu của ngày Chúa nhật, bài đọc I luôn luôn trích từ Cựu ước chứ không lấy từ các thư Tân ước, các bài Tin mừng nhắc đến tâm tình sám hối và hoán cải. Kể từ tuần IV mùa Chay, các bài Tin mừng lấy từ Phúc âm Gioan, đặc biệt vào tuần V các trình thuật xoay quanh những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái để chuẩn bị dẫn đến cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa.
3* Các lời nguyện trong thánh lễ
Các lời nguyện chia làm hai loại: Kinh Tạ ơn và các lời nguyện khác.
Kinh Tạ ơn có nội dung rất phong phú nhờ 12 lời tiền tụng khác nhau: 6 lời tiền tụng dành riêng theo từng Chúa nhật với các chủ đề như: cám dỗ, biến hình, thiếu phụ Samaria, người mù từ khi mới sinh, Lazarô sống lại và lễ Lá); 6 lời tiền tụng chung khác được dùng trong suốt mùa Chay, trong đó 2 lời tiền tụng cuối được dành cho tuần 5 và mấy ngày đầu của Tuần Thánh. Tất cả 12 lời tiền tụng này đều có nguồn gốc từ rất lâu trong truyền thống phụng vụ Rôma, chẳng hạn 4 lời tiền tụng chung được đọc trong suốt mùa Chay có từ thế kỷ V.[8]
Các lời nguyện khác cũng theo các chủ đề của từng Chúa nhật mùa Chay và được trích từ các nguồn phụng vụ cổ xưa. Chẳng hạn nhấn mạnh thân phận yếu đuối của con người và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa; ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô; niềm vui của những người được cứu độ; những đòi hỏi của Tin mừng và sự dấn thân của người tín hữu…
4* Chúa nhật lễ Lá
Trước cuộc canh tân Tuần Thánh của đức Piô XII (1955), Nghi thức làm phép và rước lá được cử hành trong nhà thờ và được đặt trong phần cử hành Lời Chúa: sau khi làm phép lá xong, chỉ mình chủ tế cùng với người giúp lễ cầm cành lá đi rước chung quanh nhà thờ, trong lúc đó, mọi người đứng đợi chủ tế rước xong rồi mới tham dự vào Thánh Thể. Tuy nhiên, cuộc canh tân Nghi thức Tuần Thánh của Đức Piô XII (1955) đã trả lại cho Nghi thức những giá trị và ý nghĩa mà Giáo hội thực hiện trong những thế kỷ đầu, đồng thời phục hồi sự tham dự tích cực của người tín hữu. Chẳng hạn mọi người được mời gọi tham dự vào nghi thức làm phép lá và đi rước. Nghi thức phải được cử hành ở một nơi thích hợp ngoài nhà thờ, từ nơi đó đoàn rước tiến về nơi cử hành thánh lễ, nghĩa là có cuộc rước lá thực sự của toàn thể dân chúng đi từ nơi này đến chỗ kia, chứ không phải cuộc rước chỉ gồm một vài người trong khi đó dân chúng đứng đợi. Nghi thức 1955 cũng lấy lại truyền thống đọc bài Tin mừng Chúa Kitô khải hoàn vào Giêrusalem để đọc trong nghi thức làm phép lá. Cuối cùng, Nghi thức Tuần Thánh hiện nay đã đón nhận Nghi thức 1955 gần như nguyên vẹn chỉ với một vài thích nghi nhỏ.
III* Một số quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay
Quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay khá chặt chẽ và được xếp thành ba loại sau đây: Chúa nhật, Tuần Thánh và ngày trong tuần.
1* Chúa nhật mùa Chay
Theo “Bảng ghi ngày phụng vụ” trong Sách lễ Rôma các Chúa nhật mùa Chay đứng hàng số 2, có bậc lễ ưu tiên trên các lễ trọng về Chúa, Đức Maria và các thánh. Vì thế khi các lễ trọng trùng vào bất cứ Chúa nhật mùa Chay nào, năm ấy phải dời lễ trọng sang ngày thứ Hai liền kế đó.[9] Ví dụ: Lễ Truyền tin (25/3) của năm 2001 trùng vào Chúa nhật IV mùa Chay năm C, thì ngày 25/3 của năm 2001 phải cử hành thánh lễ và đọc giờ kinh phụng vụ theo Chúa nhật IV mùa Chay, mọi cử hành của lễ Truyền tin phải dời sang ngày thứ Hai (26/3); cùng một trường hợp đối với lễ trọng mừng thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria 19/3/2000 trùng vào Chúa nhật II mùa Chay B.
Vì Chúa nhật mùa Chay có vị trí quan trọng theo bảng xếp hạng thứ tự các ngày phụng vụ, nên vào Chúa nhật mùa Chay, cấm không được cử hành các thánh lễ có nghi thức riêng (RM 372), ví dụ: hôn phối, thêm sức, phong chức, khấn dòng… kể cả thánh lễ an táng. Điều này cho chúng ta hiểu rằng, vào ngày Chúa nhật mùa Chay không được phép dùng bản văn phụng vụ của các thánh lễ có nghi thức riêng, nhưng khi nhu cầu đòi hỏi và cần thiết, vẫn có thể cử hành các nghi thức bí tích vào những ngày này, miễn là phải tôn trọng toàn bộ bài đọc Kinh thánh và bản văn phụng vụ của Chúa nhật mùa Chay đó. Ví dụ: Chúa nhật III mùa Chay phải cử hành an táng cho một tín hữu, người ta sẽ không được phép cử hành thánh lễ cầu hồn, nhưng phải dùng mọi bản văn của Chúa nhật 3 mùa Chay, rồi sau thánh lễ, sẽ cử hành các nghi thức tiễn biệt cho người quá cố như thường lệ.
Cũng không được phép cử hành thánh lễ bổn mạng, tạ ơn, cầu mùa… vào các ngày Chúa nhật mùa Chay (RM 374). Ví dụ: thánh Vinh Sơn Phêriê mừng ngày 5/4, bổn mạng giáo xứ, theo luật phụng vụ được nâng lên hàng lễ trọng riêng,[10] hôm đó lại nhằm ngày Chúa nhật mùa Chay, thì năm ấy người ta không được phép dâng thánh lễ mừng bổn mạng giáo xứ đúng ngày, mà phải dời vào ngày nào đó thuận tiện trong tuần, vì theo luật, lễ trọng riêng đứng dưới bậc lễ của Chúa nhật mùa Chay nhưng trên bậc lễ của các ngày trong tuần.
2* Ngày trong tuần thuộc mùa Chay
Các ngày thường trong tuần thuộc mùa Chay có vị trí ưu tiên trên các lễ nhớ buộc,[11] vì thế khi các lễ nhớ buộc trùng vào những ngày thường trong mùa Chay, thì các lễ này trở thành các lễ nhớ tự do, người ta sẽ dùng bản văn phụng vụ của ngày trong tuần mùa Chay, mặc dù linh mục vẫn được phép đọc lời nguyện nhập lễ của vị thánh được nhớ (RM 355). Cũng vậy, trong những ngày này không được phép cử hành thánh lễ ngoại lịch hay nhu cầu do lòng sùng kính riêng (RM 375), ví dụ: thứ Tư đầu tháng kính thánh Giuse, thứ Sáu đầu thánh kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thứ Bảy đầu tháng kính Đức Maria…
Tuy nhiên được phép cử hành các thánh lễ sau đây vào những ngày thường của mùa Chay: các lễ trọng chung và riêng, lễ an táng, lễ bổn mạng giáo xứ hay dòng tu, lễ có nghi thức riêng, lễ kính, lễ tuỳ nhu cầu theo lệnh của bản quyền địa phương, lễ cầu hồn khi vừa được tin một người qua đời (còn gọi là lễ phát tang).
3* Những ngày đầu tuần thánh
Cuộc Thương khó và Phục sinh của Đức Kitô cùng với những biến cố liên quan đến sự kiện đó hợp thành một thời điểm cao trọng nhất trong năm phụng vụ gọi là Tuần Thánh. Vì thế, “Hội thánh Mẹ chúng ta, tưởng niệm Chúa đã phục sinh mỗi tuần vào ngày Chúa nhật, và còn lại họp mừng Chúa đã chịu khổ nạn và đã phục sinh mỗi năm một lần vào kỳ đại lễ Phục sinh”.[12]
Cao điểm của Tuần Thánh chính là Tam Nhật Vượt qua, cũng gọi là Tam Nhật Thánh hoặc Tam Nhật Phục sinh. Đó là trung tâm điểm của đức tin Kitô giáo nói về cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Tam Nhật Vượt qua – gồm thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy Tuần Thánh, và lễ Phục sinh. Đêm Vọng Phục sinh được xem là đỉnh cao của Tam Nhật Thánh, kỷ niệm biến cố Phục sinh của Đức Kitô. Mặc dù năm phụng vụ khởi đầu vào mùa Vọng nhưng vẫn đạt tới đỉnh cao trong Tam Nhật Thánh, đặc biệt vào lễ Phục sinh, lễ trọng của các lễ trọng. Giáo lý Công giáo mô tả tầm quan trọng của Tam Nhật Thánh như sau:
Bắt đầu bằng Tam Nhật Thánh như nguồn ánh sáng, thời đại mới của sự phục sinh đổ đầy cả năm phụng vụ bằng sự rực rỡ của ánh sáng. Dần dần, về phương diện khác của nguồn gốc này, năm được tôn lên bằng phụng vụ. Đây thực sự là “năm của ân sủng Thiên Chúa”. Sự cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng vì sự viên mãn trong cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu và sự tràn đầy Thánh Thần, đỉnh cao của lịch sử được tiên báo là “sự nếm trước” và Vương quốc của Thiên Chúa đến trong thời đại của chúng ta.[13]
Các Kitô hữu tưởng niệm cuộc Thương khó và sự Phục sinh của Chúa Giêsu từ thời các Tông đồ, vì sự chết và sự sống lại của Người là trung tâm ơn cứu độ Kitô giáo. Ít là vào thế kỷ II, các Kitô hữu đã cử hành Đêm Vọng Phục sinh, bắt đầu đêm thứ Bảy, tiếp tục đến sáng lễ Phục sinh. Trong Đêm Vọng Phục sinh, các Kitô hữu tưởng niệm lịch sử ơn cứu độ, chờ đợi sự trở lại của Chúa Giêsu, và cử hành sự phục sinh của Chúa Giêsu vào sáng sớm Chúa nhật Phục sinh. Trong Đêm Vọng Phục sinh, các tân tòng lãnh nhận bí tích Thánh tẩy và bí tích Thánh Thể lần đầu tiên.
Từ việc cải cách phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Đêm Vọng Phục sinh và Tam Nhật Thánh lại đạt được vị thế ưu tiên trong lịch Phụng vụ Công giáo Tây phương. Luật năm Phụng vụ và lịch Phụng vụ đã đặt Tam Nhật Thánh đi liền với mùa sau mùa Chay trong Giáo hội Công giáo.
3.1* CHÚA NHẬT LỄ LÁ
a* Nguồn gốc
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattatia, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattatia tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattatia bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng, đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời ngôn sứ Dacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời ngôn sứ Dacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Trước lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem. Trên đường đi, dân chúng đã lũ lượt đón Người. Họ bẻ cành cây rải lên khắp đường cho Người đi qua, nhiều người mang theo những cành thiên tuế. Có người còn trải áo choàng lên đường cho Người đi. Dân chúng cùng nhau reo hò như trong một hợp xướng: “Vạn tuế Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Vạn tuế khắp cả trời cao” (Mt 21,9). Những tiếng hoan hô Đức Giêsu bộc lộ một niềm hy vọng vào Đấng Thiên Sai. Họ cũng không quên rằng Đấng sẽ tái lập ngôi báu Đavít, cũng là Đấng thực hiện công trình và kế hoạch Thiên Chúa.
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu công khai tỏ ra mình là Vua, là Đấng Thiên Sai. Người muốn làm trọn lời ngôn sứ Dacaria từng loan báo ngày Đức Vua ngự vào Giêrusalem một cách uy nghiêm nhưng khiêm tốn: “Người cỡi trên lưng lừa con… Đó là vị vua mang hòa bình đến cho mọi dân nước, sẽ thống trị đất biển sông núi cho đến tận cùng trái đất” (Dc 9,9-10).
b* Ý nghĩa của thánh lễ
Trước tiên, Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Đã có lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẩn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: “Hoan hô chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”. Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, Latinh và Hy Lạp, “Giêsu Nadarét Vua dân Do Thái”. Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên Thập Giá, nhưng các sách Phúc âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng Tôi”. Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng. Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại. Hôm nay trong cái nghịch lý của lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta.
c* Ý nghĩa của nghi thức kiệu lá
Nghi lễ này không phải chỉ là nghi thức tưởng niệm, nhưng còn là để cử hành một mầu nhiệm, một hành động thánh của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo. Nghi thức rước là này là một sự tuyên xưng Đức Kitô, nhưng đồng thời cũng là để chúng ta tuyên xưng đức tin của chúng ta đối vào Chúa chúng ta. Những tiếng hoan hô nói lên tâm tình hiện tại của các Kitô hữu đó là lòng hoan hỉ và biết ơn sâu xa đối với tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Ngoài ra, nghi lễ này cũng còn mang một ý nghĩa khác, đó là hướng chúng ta về vinh quang của ngày chung thẩm. Đoàn rước tượng trưng cho cho bước đầu tiên của Giáo hội hành hương về Giêrusalem Thiên Quốc. Ý nghĩa đó còn rõ rệt hơn khi đoàn người từ từ tiến vào thánh đường, đi đầu là thánh giá. Với hình ảnh này, Giáo hội không những nhắc lại kỷ niệm Đức Giêsu vào Thành thánh Giêrusalem, mà còn gợi cho chúng ta về hình ảnh một bữa tiệc Thánh Thể trong đó mọi người cùng chia sẻ một tấm bánh sự sống đời đời, và thập giá Đức Kitô sẽ mở đường vào Giêrusalem Thiên Quốc cho đoàn người vô số đã được thánh Gioan miêu tả trong sách Khải Huyền (Kh 7,9-10).
d* Cử hành
Nghi thức đầu thánh lễ là kiệu lá. Mọi người cầm lá trong tay và tập họp tại một nơi thích hợp để làm phép lá. Linh mục và những người giúp lễ mặc phẩm phục đỏ tiến vào nơi giáo dân tụ họp để làm phép lá. Nghi thức làm phép lá kết thúc, đoàn rước tiến vào nhà thờ để cử hành thánh lễ như những thánh lễ Chúa nhật khác.
Cử hành thánh lễ: Điều khác trong thánh lễ hôm nay có đọc bài Thương Khó kể về những cực hình mà Đức Giêsu đã phải chịu trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Người nơi trần gian này. Trên bàn thờ, các bình bông được thay bằng những bình lá.
3.2* BA NGÀY ĐẦU CỦA TUẦN THÁNH
a* Thứ Hai
Ca nhập lễ và Thánh thư của ngày hôm nay lấy lại lời ngôn sứ Isaia và các thánh vịnh 34, 142 nói lên tiếng thở than của người công chính trong khi bị bắt mà không tìm cách chống lại kẻ bắt bớ mình nhưng biết chạy đến kêu cầu cùng Thiên Chúa. Tiếng thở than đau thương đó là tiếng kêu thương của người bị bỏ rơi. Đây là hình ảnh của Đức Kitô, Chúa chúng ta. Người đã chịu bắt bớ và chết trên thập giá vì loài người chúng ta. Người vẫn còn hấp hối trong Giáo hội cho đến ngày sau hết. Bao lâu Giáo hội còn tội lỗi, bấy lâu còn phải chiến đấu không ngừng (xc. Ep 6,12). Những kẻ thù đó đang len lỏi trong mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng được nhờ vào giá máu của Đức Kitô. Điều cần thiết là chúng ta phải biết sống cuộc khổ nạn của Người bằng những hy sinh và từ bỏ những gì ngăn cản chúng ta đến với Người.
b* Thứ Ba
Hôm nay Giáo hội hướng tất cả ý chí, tình yêu và lòng biết ơn của Giáo hội vào thánh giá của Đức Kitô với niềm hy vọng lớn lao nhất là mong được cứu thoát khỏi tội lỗi và được sự sống bất diệt với Người. Ca nhập lễ hôm nay nói lên vinh dự và giá trị cứu độ của thập giá Đức Kitô. Nếu nhận thức được thế nào là cuộc sống với Đức Kitô và cho Đức Kitô, chúng ta sẽ không tìm được một vinh dự nào trong nhân loại ngoài thập giá của Người (Gl 6,14). Vì thế, trong lời nguyện thánh lễ, Giáo hội muốn chúng ta dứt khoát với dĩ vãng tội lỗi để mặc lấy con người mới nhờ vào giá trị thập giá của Đức Kitô. Muốn vậy, chúng ta nhất quyết đi vào con đường của Thầy Chí Thánh để cùng chết với tội lỗi.
c* Thứ Tư
Theo tập truyền của Giáo hội, ngày hôm nay là ngày khởi đầu cuộc thương khó của Đức Kitô. Vì thế, ngay từ thời các tông đồ, hôm nay là một ngày chay tịnh khắc khổ và ngày chuẩn bị gần nhất cho cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Phụng vụ ngày hôm nay mang một màu sắc trọng thể hơn những ngày trước và tất cả các kinh lễ đều nhắc tới những đau khổ của Người, báo trước ơn cứu chuộc nhờ vào cái chết của Người (xc. Is 53).[14]
Nhờ sự vâng lời tuyệt đối, Đức Kitô đã được tuyên phong là Chúa Tể, một danh hiệu tượng trưng cho uy quyền của Thiên Chúa mà chỉ dành riêng cho một mình Đức Chúa trong thời Cựu ước. Đặc quyền này được diễn tả trong bài đọc Thánh Thi của Isaia mô tả Đức Chúa báo thù những địch thù của Người qua hình ảnh người thợ ép nho từ guồng máy trở về, áo đẫm máu. Trong bài đọc này chúng ta thấy lý do áo Người bị hoen đỏ vì không có ai giúp đỡ mà chỉ một mình Người phải đẩy một khối nho khổng lồ vào guồng máy với tất cả sức lực của mình. Đây chính là hình ảnh vị Thẩm Phán tối cao đến xét xử trần gian và địch thủ của Người bị tiêu diệt. Nhưng trước khi xét xử, Người phải chiến đấu thực sự với sa tan, với tội lỗi của loài người, với những hèn nhát, lãnh đạm và khước từ của chúng ta.[15]
Lớp Thần IV, Học viện Đa Minh,
Nguồn: Trang tin www.catechesis.net
[1] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Tổng quát (Tp. HCM: Đại Chủng Viện thánh Giuse, 2001), tr. 92.
[2] Michel Coirault, Pour connaitre les fêtes juives, chrétiennes et musulmanes, Cerf, 1991, tr. 12-13.
[3] Sách lễ Rôma, ‘Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch’, Rôma 1975, số 28.
[4] Văn kiện vừa dẫn, số 22.
[5] Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, Từ điển văn hoá thế giới, Mục từ “Tro”, bản dịch Việt ngữ do nhà xuất bản Đà Nẵng, trường viết văn Nguyễn Du thực hiện, 1997, tr. 948.
[6] P. Jounel, Le cycle pascal, trong A.G. Martimort, l’Eglise en prière, tome IV “La liturgie et le temps”, Desclée, 1983, tr. 82.
[7] Sách lễ Rôma, việt ngữ 1992, tr. 186.
[8] A.G. Martimort, quyển IV “La liturgie et le temps” trong “L’Église en prière”, Deselée, 1983, tr. 87.
[9] Sách lễ Rôma, ‘Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch’, Rôma 1975, số 5.
[10] Bảng ghi ngày phụng vụ, số 4.
[11]Ibid., từ số 2 đến số 9.
[12]SC, số 102.
[13] GLCG, số 1168.
[14]Xc. The Liturgy and Time, trang 37.
[15]Xc. Sđd, trang 38-39.
2023
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM
1- Gian khổ, con đường làm chứng cho Chúa Ki-tô tử nạn
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng ai bước theo Người cách đích thật chắc chắn sẽ phải chịu bách hại: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,30). Chúa còn cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Với thói quen trình bày sự thật một cách thẳng thừng và toàn vẹn, Chúa đã chuẩn bị cho môn đệ mình đón nhận điều tồi tệ nhất: “Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mt 10,21-22).
Đó là vì các môn đệ sẽ phải làm chứng về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, Đấng luôn đòi hỏi nhân loại nên thánh thiện như Người, nghĩa là yêu thương đến tột độ; và làm chứng về Đức Kitô chịu đóng đinh, “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Nghĩa là công bố cho mọi người tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, thể hiện qua việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập giá Đức Ki-tô, một mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.
Để làm được điều ấy, một điều hầu như luôn luôn kéo theo sự bắt bớ, Ki-tô hữu cần có sự khôn ngoan và sức mạnh từ trời cao. Đó là Chúa Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Điều đó đã xảy ra thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau, trong các cuộc bắt bớ khốc liệt, đặc biệt suốt ba thế kỷ đầu của Giáo hội bên Tây phương.
2- Các Thánh Tử đạo tại VN, những tay gieo của Thiên Chúa
Giáo Hội Việt Nam suốt ba thế kỷ đầu của mình cũng đã chịu nhiều cuộc bách hại liên tiếp như thế, với một vài lúc ngưng nghỉ, kể từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á. Đã có hàng trăm ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến, nơi những thôn làng Công giáo bị quan quân bủa vây, nơi những ngôi nhà thờ bị Văn Thân lùa tín hữu vào đó rồi phóng hỏa, dù được tuyên xưng là thánh chỉ vỏn vẹn 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục và 59 giáo dân vào ngày 19-06-1988
Việc sống đạo và chết vì đạo của các đấng đã xảy ra trong những tình thế rất phức tạp.
- Trước tín ngưỡng nhân gian và tam giáo Đông Phương (Khổng, Phật, Lão) thần thánh hóa đủ thứ, từ con người đến động vật và ngay cả núi sông cây cỏ, các vị tử đạo đã rao giảng một Thiên Chúa sáng tạo vạn vật, chủ tể muôn loài, và chẳng có thần linh tối cao nào ngoài Người cả.
- Trước “đạo ông bà” thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc như thần thánh, các vị tử đạo vẫn cổ vũ lòng tôn kính tiên tổ và tiền nhân đúng đạo hiếu dân Việt, nhưng lòng tôn kính này phải đặt sau việc tôn thờ bái lạy Thiên Chúa.
- Trước quan niệm bình dân cho rằng tôn giáo nào cũng dạy ăn ngay ở lành và Công giáo là đạo của phương Tây, các vị Tử đạo cho thấy Công giáo là đạo dành cho hết mọi người và có tính cách siêu việt, mạc khải những điều cao cả từ nơi Thiên Chúa.
- Trước đầu óc phong kiến, coi nhà vua như Thiên tử (con Trời) và hết thảy con dân trong nước đều là thần dân (tôi tớ), các vị tử đạo rao giảng giáo lý: tất cả ai nấy đều là con Trời, và vì vậy đều có phẩm giá như nhau.
- Trước thói tục đa thê hoành hành trong mọi tầng lớp xã hội, từ vua quan đến thứ dân, các vị tử đạo rao giảng nền luân lý đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn (sống với nhau cho đến chết). Một nền luân lý cao đẹp, có sức nâng cao nhân phẩm và biến đổi xã hội mãnh liệt.
- Trước hoàn cảnh chính trị đất nước phức tạp (các triều đại tranh quyền với nhau, Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước, giặc giã nổi lên nhiều chỗ…), các vị tử đạo nhiều lần bị nghi ngờ theo Tây, theo giặc, nhưng các đấng đã luôn chứng tỏ lòng trung thành với đất nước và trung thực với chính quyền. Ngay các vị thừa sai tử đạo cũng đã không bao giờ phục vụ cho quyền lợi của đất nước họ.
Chính đó là những thách thức đối với vua chúa lẫn xã hội đương thời, và trở nên lý do khiến các đấng bị bách hại.
Các thánh Tử Đạo tại Việt Nam như thế là những người gieo của Thiên Chúa mà Thánh vịnh đã 126 [125] đã ám chỉ: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo” (c. 5). Nước mắt và máu của các đấng đã tưới vào hạt giống Tin Mừng, hạt giống ân sủng, để ơn huệ Đức tin có thể trổ sinh dồi dào: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
3- Các Thánh Tử đạo tại VN, những thợ gặt của Nước Trời
Và từ những đau khổ lẫn tuẫn giáo của các đấng, “mùa gặt của Chúa” đã tới. Thánh vịnh trên tiếp đến gọi các vị Tử đạo là những thợ gặt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126[125], 5-6).
Mùa gặt đó, lúa vàng đó, hoa trái đó chính là sinh lực của Giáo hội VN, là khả năng và lòng kiên nhẫn của Giáo Hội VN để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Tin Mừng suốt bao thế kỷ qua.
Máu các thánh Tử đạo đã là nguồn ân sủng để Ki-tô hữu đất Việt tiến lên trong Đức tin của tiền nhân. Đức tin ấy đã là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt, trung thành với nước Việt, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu kính sợ Thiên Chúa, yêu thương mọi người, tuân phục chính quyền và các định chế của xã hội trong những gì chính đáng vì lòng mến Chúa.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu làm điều thiện, ứng xử như những con người tự do (x. 1Pr 2,13-17), tìm kiếm thiện ích chung của quê hương như một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các đồng đạo, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.
Và đó là điều mà chúng ta đã thấy từ thời các chứng nhân Tử đạo cho đến hôm nay trên đất Việt, qua vô vàn chứng nhân Ki-tô hữu Việt Nam khác nữa.
Kết
Các Thánh Tử đạo đã trở nên những của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập giá của Đức Kitô khổ nạn. Các đấng đã là chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần, cho ơn gọi của con người là được bất tử! Nhờ thế các đấng đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện, và nay đang được hạnh phúc muôn đời. Đúng như sách Khôn ngoan 3,5-9 đã nói về họ.
Là con cháu, là hoa trái của các đấng, chúng ta cũng được hứa hẹn những điều như thế nếu chúng ta tham gia vào thống khổ và thập giá của Đức Ki-tô, để thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện. Và như vậy, mùa gặt của các Thánh Tử đạo Việt Nam sẽ kéo dài mãi trong hân hoan qua tất cả chúng ta!