2023
Thừa tác vụ Đọc sách
Thừa tác vụ Đọc sách
Hãy so sánh trải nghiệm về ngày Chúa nhật hiện nay với cách thức đã từng diễn ra. Trước đây, linh mục đọc Kinh thánh trước bằng tiếng La tinh tại bàn thờ, đứng quay lưng về phía giáo dân, sau đó bằng tiếng địa phương [chẳng hạn tiếng Anh] tại bục giảng. Các bài đọc là những phân đoạn từ các Thánh thư và Tin mừng được sắp xếp thành một bộ sách các bài đọc Kinh thánh được lặp lại hằng năm. Vào các ngày Chúa nhật, thường có một bài giảng sau đó, nhưng hiếm có bài giảng nào liên quan nhiều đến các đoạn Kinh thánh vừa được nghe.
Sách bài đọc Thánh lễ hiện nay phải được xem như là một trong những thành tựu có hiệu quả rõ rệt nhất của Giáo hội trong nhiều thế kỷ. Nhờ đó, ngày nay, toàn thể cộng đồng Công giáo có cơ hội trải nghiệm lời Kinh thánh trong các cử hành phụng tự mang tính cộng đoàn một cách sâu rộng như chưa từng biết đến trong hàng trăm năm qua. Qua chu kỳ ba năm với các bài đọc và thánh vịnh, giờ đây chúng ta đã công bố và diễn giảng hầu hết Tân ước và những trích đoạn được lựa chọn cẩn thận từ Cựu ước, bao gồm cả những bài thi ca trong các thánh vịnh. Quy luật cầu nguyện mang tính cộng đoàn này đang hình thành nên con người chúng ta theo những cách thức mà chúng ta chỉ có thể bắt đầu nghĩ đến.
Kinh nghiệm phụng tự này đã được minh chứng rất hiệu quả khi nhiều anh chị em Kitô hữu ở Bắc Mỹ và các nơi khác trên thế giới hiện đang sử dụng một ấn bản đại kết của Sách bài đọc này (được gọi là Sách bài đọc chung) được dùng trong cử hành phụng tự vào ngày Chúa nhật. Trong số các cộng đồng này có Giáo hội Luther, Giáo hội Giám lý liên hiệp, Giáo hội Anh giáo, Giáo hội Trưởng lão và Giáo hội Hợp nhất. Thật tuyệt vời là sau nhiều thế kỷ chia rẽ, chúng ta tìm lại được sự hợp nhất nơi bàn tiệc lời Chúa với các anh em cùng đức tin này. Ngay cả cách đây một vài năm, liệu ai dám nghĩ rằng điều này có thể xảy ra? Thế nhưng, thành quả trọn vẹn của sự tiến triển nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng này vẫn còn ở phía trước chúng ta.
Sự hiện diện cách bí tích
Sức mạnh và tầm quan trọng của lời Kinh thánh trong cử hành phụng tự có thể thoáng thấy trong kinh nghiệm ban đầu của Giáo hội. Trong thời gian bị bách hại, phận vụ chuẩn bị và công bố lời Chúa trong các cử hành phụng tự được giao cho các thừa tác viên đọc sách thuộc những người lãnh đạo Giáo hội địa phương vốn là những đối tượng đặc biệt. Nhà cầm quyền bách hại nhận ra việc công bố Kinh thánh mang lại một tác động mạnh mẽ và khích lệ sự hiện diện và hành động của những người Kitô hữu trên thế giới.
Sự canh tân hiểu biết về tầm quan trọng và sức mạnh của thừa tác vụ phụng vụ này đưa đến việc phục hồi nó trong thời đại chúng ta. Thật may, thừa tác vụ được phục hồi này có mục đích mở ra kho tàng rất phong phú của các bài đọc Kinh thánh cho việc phụng tự của người Công giáo, tương trưng qua Sách bài đọc. Trải qua nhiều thế kỷ, Sách bài đọc đã trở thành một phần của Sách các lời nguyện trong Thánh lễ dành cho linh mục chủ tế (Sự phát triển này trùng hợp với việc các thừa tác viên có chức thánh dần dần đảm nhận những phận vụ khác nhau trong phụng vụ). Một lần nữa, thừa tác vụ Đọc sách có một sách phụng vụ riêng, giống như sách cho thừa tác vụ của linh mục chủ tế.
Ý nghĩa sâu sắc của thừa tác vụ Đọc sách nằm ở mối liên hệ mật thiết của nó với sự canh tân đương thời của một hiểu biết đầy đủ hơn về tính bí tích của việc phụng tự Công giáo. Tất cả chúng ta cần phải am hiểu sâu sắc hơn sự canh tân liên tục của Giáo hội về việc hiểu biết lời Chúa trong các cử hành phụng tự đó. Chẳng hạn, hãy xem xét lời khẳng định sau của Công đồng Vatican II trong Hiến chế về Mạc khải, Dei Verbum:
Giáo hội vẫn luôn tôn kính Kinh thánh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng vụ thánh, Giáo hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Kitô để trao ban cho các tín hữu (DV 21).
Nói cách khác, trong Thánh lễ có hai bàn tiệc: bàn tiệc lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai cùng làm nên một hành vi phụng tự duy nhất trước nhan Thiên Chúa. Chính từ mỗi bàn tiệc này, chúng ta được dưỡng nuôi, được lãnh nhận bánh ban sự sống. Tiềm ẩn nơi giáo huấn này là một hiểu biết về sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô mà Giáo hội tuyên xưng:
Trong khi cử hành Thánh lễ là Hy lễ làm cho Hy tế Thập giá được tiếp tục hiện diện trong Giáo hội, Chúa Kitô thực sự hiện diện trong cộng đoàn quy tụ nhân danh Người; nơi con người của thừa tác viên, trong lời của Người, và hiện diện đích thực, theo bản thể, và cách vĩnh viễn dưới hình bánh hình rượu trong bí tích Thánh Thể. (Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 7)
Phần Dẫn nhập Sách bài đọc Thánh lễ cũng nêu bật mối liên hệ mật thiết và bất khả phân giữa sự hiện diện của Chúa trong hai bàn tiệc này, tức là trong Phụng vụ lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể:
Để cử hành Hy lễ tưởng niệm Chúa với lòng sốt sắng, các tín hữu nên ý thức sâu xa về sự hiện diện duy nhất của Chúa Kitô cả trong lời Chúa, vì chính Người đang nói với chúng ta khi lời Kinh thánh được công bố trong nhà thờ, và trên hết, dưới hình bánh hình rượu trong bí tích Thánh Thể (Số 4).
Lời Chúa như là sự hiệp thông
Dưới ánh sáng này, chúng ta có thể nhận ra trong Phụng vụ lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể một điểm tương đồng giữa hai nghi thức tương ứng, Công bố lời Chúa và Hiệp lễ. Trong cả hai nghi thức phụng vụ này, chúng ta đều thể hiện lòng tôn kính đối với sự hiện diện của Chúa. Những điều này có lẽ rõ ràng hơn đối với chúng ta trong Phụng vụ Thánh Thể, qua các cử điệu cúi đầu, bái gối, quỳ gối, nâng cao bánh và rượu khi đọc lời truyền phép, đưa tay rước Mình và Máu Chúa một cách ý thức và cung kính, cũng như nhiều dấu chỉ tôn kính khác tùy theo cách lựa chọn của mỗi người.
Hãy xem xét các dấu chỉ tôn kính tương tự trong Phụng vụ lời Chúa: việc công bố long trọng mỗi bài đọc; sự cung kính và chú tâm lắng nghe các bài đọc; những câu đáp đặc biệt sau các bài đọc, nhất là câu đáp sau phần công bố Tin mừng để bày tỏ niềm tin vào sự hiện diện của Chúa; và các dấu chỉ khác liên quan đến các bài đọc Tin mừng như tư thế đứng khi nghe đọc bài Tin mừng, việc rước sách Tin mừng với nến và hương, việc thừa tác viên ghi dấu thánh giá lên sách Tin mừng, việc cộng đoàn tham dự làm dấu Thánh giá trên mình khi nghe xướng Tin mừng Chúa Giêsu Kitô…, và cuối cùng là cử chỉ hôn sách Tin mừng của thừa tác viên.
Tiếp theo, hãy xem xét diễn tiến nghi thức tương tự giữa lời Chúa và Bàn tiệc. Phụng vụ Thánh Thể đạt đến tâm điểm và cao điểm trong phần Kinh nguyện Thánh Thể, vốn là lời công bố long trọng những hành động cứu độ của Thiên Chúa. Trong lời công bố này, bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa; và trong quyền năng sự hiện diện của Chúa, cộng đoàn dâng các lời chuyển cầu cho Giáo hội, thế giới và những người đã qua đời, đồng thời cầu nguyện cho sự hợp nhất của Giáo hội. Sau lời công bố long trọng này [các lời nguyện của chủ tế sau Kinh Lạy Cha] là việc bẻ Mình Thánh và rót Máu Thánh vào những chén thánh cho cộng đoàn, và kết thúc với việc rước lễ. Khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa, chúng ta được kết hiệp nên một với Người và với anh chị em, như của ăn của uống cho một thế giới yêu mến và khao khát Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Trong Phụng vụ lời Chúa, các bài đọc đạt đến đỉnh cao khi long trọng công bố bài Tin mừng. Sau đó là bài giảng diễn giải lời vừa được công bố, để nuôi dưỡng đời sống cộng đoàn. Sự hiệp thông trong Chúa, hiện diện nơi lời Chúa, được kéo dài thêm trong một khoảng thời gian thinh lặng chung, để cộng đoàn suy niệm lời Chúa trong tâm hồn. Được củng cố nhờ sự nuôi dưỡng này, sau đó cộng đoàn dâng lên bàn thờ những lời nguyện của dân tư tế để chuyển cầu cho Giáo hội, thế giới và những người có nhu cầu đặc biệt.
Việc công bố lời Chúa
Dưới ánh sáng này, thừa tác vụ Đọc sách trong Thánh lễ rõ ràng đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ cử hành phụng tự. Kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong lời Chúa và Thánh Thể và giữa con người với nhau vẫn luôn là một thách đố.
Do đó, việc công bố hữu hiệu lời Chúa là một phần nội tại trong toàn bộ cử hành. Giao tiếp bằng lời nói trước hết là một điều thực tế trong đời sống con người, vốn đòi hỏi việc sử dụng các kỹ năng đơn giản của con người. Như Công đồng Trentô đã tuyên bố cách đây hơn 400 năm, các bí tích là dành cho con người, tức là tinh thần con người được tiền định cho sự sống phục sinh.
Trong các cử hành phụng tự, việc công bố lời Kinh thánh mà có rất ít hay không có hoặc quá nhiều nhấn mạnh cách diễn tả đều sai lầm. Năm ngoái, vào Chúa nhật III mùa Vọng, tôi nghe một người đọc bài thánh thư tuyệt vời của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philipphê mà không có chút biểu cảm gì. Tôi thật sự ngỡ ngàng khi nghe đọc: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4,4), với một cung giọng quá buồn tẻ. Sự diễn đạt không phải là một điều tùy chọn, nhưng không thể không có, và phải bắt đầu ngay khi người đọc sách tiến đến giảng đài. Thách đố được đặt ra là người đọc bài thánh thư cần biết kết hợp giữa việc chuẩn bị trình bày khéo léo, có tâm tình cầu nguyện, với tính cách và kỹ năng đặc thù nơi mỗi thừa tác viên đọc sách.
Trên hết, người đọc sách cần hiểu và tin rằng họ đang thi hành một thừa tác vụ hiện diện và hiệp thông đích thực. Họ phải tin nhận rằng Chúa đang hành động và hiện diện trong cộng đoàn qua việc họ công bố lời Chúa, rằng Chúa ước mong nói và được lắng nghe qua lời Kinh thánh mà họ công bố. Đó là lời Chúa đang nói với cộng đoàn này, ở đây và lúc này, và mỗi thành viên trong cộng đoàn được mời gọi lắng nghe và đáp lại lời Chúa trong hôm nay, tuần này, và những tuần tới.
Bằng những lời kết thúc bài đọc: “Đó là lời Chúa”, người đọc sách mời gọi cộng đoàn tin nhận sự hiện diện của Chúa, tương tự như khi thừa tác viên Thánh Thể nói: “Mình Thánh Chúa Kitô”. Tôi nhớ lại lần đầu tiên khi tôi chứng kiến một người đọc sách thật sự dừng lại ở cuối bài đọc, rồi sau đó, ngước nhìn toàn thể cộng đoàn, công bố lời Chúa với một sự chú tâm thật tinh tế, làm cho cộng đoàn cảm thấy như được mời gọi đáp lại lời Chúa với một sự hân hoan: “Tạ ơn Chúa!”
Hơn nữa, từ xưa, Giáo hội đã dạy rằng, khi hiệp lễ, chúng ta trở thành điều mà chúng ta nhận lãnh. Khi đón nhận và cử hành lời Chúa đang sống động ở giữa con người, chúng ta trở thành sự hiện diện của chính Chúa và sự khao khát của Người về một thế giới tốt đẹp hơn thế giới mà chúng ta đã cộng tác xây dựng. Trong Đức Kitô, chúng ta trở thành lời làm thay đổi thế giới, qua đó, thế giới được biến đổi thành những gì mà Thiên Chúa đã dự định từ ngàn đời.
Thừa tác viên đọc sách cần am hiểu tất cả những điều này và nhiều điều khác nữa. Khi tôi phụ trách việc huấn luyện những thừa tác viên đọc sách, tôi không bắt đầu bằng những bài học về kỹ năng nói trước công chúng. Phát triển kỹ năng là bước cuối cùng. Thay vào đó, trước hết tôi mời họ suy tư một cách sâu sắc và chân thật về hành trình của chính họ trong Đức Kitô và với Đức Kitô. Theo Kinh thánh, Đức Kitô đã trở thành hiện thân của sự tội để cứu chuộc chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa trong Đức Kitô đã đi vào chính sự đổ vỡ của thảm kịch đã bắt đầu nơi vườn địa đàng năm xưa, và sự đổ vỡ này vẫn còn tiếp tục xảy ra trong mỗi người chúng ta theo một cách thế đặc thù. Chúng ta cần mang tất cả những gì chúng ta có vào trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó là toàn bộ kinh nghiệm con người của chúng ta mà Thiên Chúa đã nói đến trong Kinh thánh. Không có gì phải bị loại bỏ. Và tất cả phải được biến đổi.
Vì vậy, tôi cố gắng giúp những thừa tác viên lời Chúa học cách để cho lời Chúa trước tiên tác động đến họ như thế nào. Nhưng trước khi chuyển sang việc tập luyện các kỹ năng nói trước công chúng, cần phải trải qua một bước đào tạo quan trọng khác. Tôi mời họ tưởng tượng ra những câu chuyện cá nhân của những người nghe họ công bố lời hằng sống này. Họ chỉ cần nhớ lại cuộc hành trình của chính những người này trong Đức Kitô: những thăng trầm, đau khổ, thất bại và những khao khát khôn tả, hầu có thể truyền thông đoạn Lời Chúa này cho những người đang đợi nghe công bố: Bài trích sách…
Có hàng trăm câu chuyện tương tự trong trái tim và tâm trí của những người đang nỗ lực lắng nghe tiếng Chúa qua đoạn lời Chúa này: trẻ em, cha mẹ, người độc thân, người dị tính, người đồng tính, người đạo gốc, người tân tòng đến tham dự Thánh lễ với một sự vui tươi, hào hứng, những người đã mất người thân yêu, những người làm tổn thương những người yêu thương họ. Đối với mỗi người và mọi người, giờ đây, Thiên Chúa đang nói một lời duy nhất, và người đọc sách là công cụ được Chúa chọn trong chính khoảnh khắc người ấy công bố: “Đó là lời Chúa”.
Tác giả: James M. Schellman; Chuyển ngữ: Giuse Phạm Thanh Tú
2023
Một chút suy tư về vấn đề hát cộng đồng
Một chút suy tư về vấn đề hát cộng đồng
Hát cộng đồng là thực hành đúng đắn, phù hợp với những đòi hỏi của Giáo hội. Tuy nhiên khi quá đề cao việc hát cộng đồng sẽ có hai mặt tích cực và tiêu cực. Tích cực, vì tất cả mọi người khi tham gia phụng vụ đều có thể góp phần mình vào việc giúp người khác cầu nguyện, ca ngợi và thờ phượng Chúa. Tuy nhiên, nếu chỉ đề cao việc hát cộng đồng mà loại trừ ca đoàn hoặc ít nhiều lên án họ quá tham lam hoặc nói rằng họ dành hết phần của cộng đoàn thì cũng nên xét lại.
Chúng ta thường đồng hóa việc hát cộng đồng và bài hát cộng đồng thành một, nên nhiều cha sở cứ bắt phải hát chừng đó bài mà không bao giờ có thêm một bài mới nào khác hoặc nếu có thì cũng rất hạn chế. Tại một giáo xứ nọ trong giáo phận, lễ sáng Chúa nhật, bài ca nhập lễ duy nhất là bài Hát Lên Bài Ca của cha Kim Long. Điều này xảy ra rất thường xuyên. Sở dĩ như vậy là vì cha sở muốn cho cả cộng đoàn giáo xứ của ngài, từ lớn đến nhỏ có thể cùng hát rập ràng, mạnh mẽ và hơn nữa đó là bài hát cộng đồng.
Thực ra, không có tiêu chuẩn nào quyết định cho một bài hát trở thành bài hát cộng đồng ngoài tiêu chuẩn nó được nhiều người biết đến và hát lên trong buổi cử hành phụng vụ hoặc cầu nguyện. Thế nhưng người ta thường quên rằng, để được như vậy nó cần phải được hát lên, không chỉ một lần mà nhiều lần. Nhưng ai sẽ làm việc này nếu không phải là ca đoàn, thường là điểm xuất phát làm cho bài ca trở nên phổ quát.
Một giáo sư của nhạc viện Rôma, chuyên về các văn kiện của Giáo hội liên quan đến thánh nhạc nói rằng: người ta hiểu sai về việc hát cộng đồng được đề cập trong Hiến chế Phụng vụ của Công đồng Vatican II. Thật vậy, khi quá đề cao việc hát cộng đồng có thể làm cho thánh ca phụng vụ trở nên nghèo nàn, làm lu mờ vai trò của ca đoàn[1], lấy đi cảm hứng sáng tác của các nhạc sĩ, vẻ đẹp, nghệ thuật và sự tiến bộ của âm nhạc từ đó cũng tuột dần.
Trong khi đó một số văn kiện của Giáo hội “kêu gọi các nhạc sĩ sáng tác đưa ra những tác phẩm mới để làm phong phú kho tàng Thánh nhạc”. Và “Hội Thánh vui mừng thúc giục các nhà sáng tác và các nhà soạn lời sử dụng tài năng đặc biệt của mình hầu Hội Thánh có thể tiếp tục làm tăng thêm kho tàng nghệ thuật Thánh Nhạc” (x.HDMV 76-77).
Về mặt lịch sử, không kể thời gian trước đó, nhưng trong khoảng thời gian giữa những năm 1600 và 1800, thánh nhạc bị ô nhiễm bởi phong cách của nhạc thính phòng và sau là opera. Trong thời kỳ này người tín hữu đến nhà thờ để “xem lễ”, “nghe nhạc” hơn là “tham dự” thánh lễ như ngôn ngữ chúng ta nói ngày nay. Với Tự sắc TRA LE SOLLECITUDINI của Đức Giáo hoàng Piô X, ngày 22 tháng 11 năm 1903, đã lên án việc lạm dụng trầm trọng, xem phụng vụ là thứ yếu và chỉ chú trọng đến âm nhạc, trong khi âm nhạc chỉ là nữ tỳ khiêm tốn của phụng vụ (x. số 23). Với tự sắc này bước đầu đã vạch ra những quy định rõ ràng và dứt khoát cho việc sử dụng âm nhạc trong phụng vụ, đồng thời định hình lại ca đoàn – Scholae Cantorum.
Tiếp bước Công đồng Vatican II, Huấn thị Musicam Sacram đưa ra những nguyên tắc rõ ràng hơn cho các lễ nghi phụng vụ khi được “cử hành kèm theo ca hát […] và khi có dân chúng tham dự (x. số 5). Đặc biệt trong số 16, huấn thị nói:
“Thật không có gì tưng bừng và vui vẻ hơn trong một buổi cử hành phụng vụ mà toàn thể cộng đoàn biểu lộ đức tin và lòng đạo đức của mình ra bằng lời ca tiếng hát. Bởi vậy, sự tham gia linh động của toàn thể giáo dân bằng lời ca tiếng hát phải được triển khai kỹ lưỡng theo thứ tự sau đây:
a/ Việc tham gia này trước hết gồm có những lời tung hô, những câu đáp lại lời chào của linh mục hay thừa tác viên hoặc đáp lại lời kinh dưới hình thức đối đáp, ngoài ra lại có những câu đối ca và những thánh vịnh cũng như những câu xướng xen kẽ, hoặc những điệp ca, những thánh thi và thánh ca.
b/ Nhờ một nền huấn giáo thích hợp và những buổi thực tập dần dần sẽ đưa giáo dân tới chỗ hát những bài dành cho họ, cho đến khi họ tham dự hoàn toàn.
c/ Tuy nhiên, nếu giáo dân chưa được tập luyện đủ, và nếu dùng những bài hát nhiều bè, thì có thể giao một số bài hát của cộng đoàn cho nguyên ca đoàn thôi, miễn là không loại họ ra, không cho hát những phần dành cho họ. Nhưng không được chấp nhận thói quen giao hết cho một mình ca đoàn hát Phần Riêng và Phần Thường lễ, mà loại hẳn không cho cộng đoàn hát”.
Trở lại với các bài thánh ca. Bài Ca Nhập lễ, Ca Tiến lễ và Ca Hiệp lễ (đừng nhầm lẫn với bài ca sau hiệp lễ x. SLRM số 88) là những bài ca mà từ ban đầu được hát bởi ca đoàn (chẳng hạn như Ca Tiến cấp (Graduale) mà bây giờ là Thánh vịnh đáp ca, Tratto, Ca Tiếp liên và Allêluia).
Qui chế Tổng quát sách lễ Rôma hiện nay, trong khi tiếp tục công nhận đầy đủ tính hợp lý đối với thực hành dành riêng cho ca đoàn, cũng quy định rằng các bài thánh ca trong cuộc rước có thể “được hát luân phiên giữa ca đoàn và cộng đoàn, hoặc giữa một ca viên và cộng đoàn, hoặc tất cả do cộng đoàn hay ca đoàn hát[2]”. Sự cởi mở này liên quan đến các bài hát vừa kể trên, là kết quả của việc áp dụng ý muốn của các nghị phụ công đồng trong Hiến Chế Phụng Vụ, số 121, được diễn tả bằng những từ sau:
“Các nhạc sĩ […] hãy soạn tác những bản có cung điệu thánh nhạc thực sự, để không những các ca đoàn lớn có thể hát được mà còn hợp với cả ca đoàn nhỏ và giúp cho toàn thể cộng đoàn tín hữu có thể tham dự một cánh linh động”[3].
Khi nói rằng cần khích lệ sự tham gia tích cực của toàn thể cộng đoàn và nói rằng các tín hữu luôn phải hát tất cả những gì được tiên liệu để hát, cả hai hoàn toàn khác nhau, mệnh đề thứ hai không có trong Hiến chế Phụng vụ thánh. Ngay cả trong huấn thị Musicam Sacram, với ý muốn áp dụng Hiến chế Công đồng, đào sâu chủ đề về việc tham dự của cộng đoàn đối với bài ca phụng vụ, đòi hỏi “việc tham dự tích cực của giáo dân, được thể hiện qua việc ca hát, cần được khích lệ”, đồng thời “không chấp nhận thói quen ủy thác toàn bộ cho một mình ca đoàn hát phần Riêng lễ và phần Thường lễ, mà loại hẳn cộng đoàn khỏi việc ca hát”[4]. Tuy nhiên, liên quan đến những bài hát phần Riêng lễ[5], huấn thị nói rằng “Thật tuyệt vời khi cộng đoàn tham gia, càng nhiều càng tốt, vào các bài hát Riêng; cách đặc biệt với những điệp khúc dễ hát hay những hình thức âm nhạc thích hợp”[6]. Mục đích của huấn thị Musicam Sacram là khuyến khích việc tham gia của cộng đoàn vào các bài thánh ca có cuộc rước, nhưng không bắt buộc phải làm như vậy bằng cách đưa ra nguyên tắc cho rằng tất cả các bài hát nhất thiết phải được hát bởi cộng đoàn[7].
Tóm lại, một mặt các văn kiện đề cao tầm quan trọng của sự hiện diện và vai trò không thể thiếu của ca đoàn trong các buổi cử hành phụng vụ; mặt khác lại hạn chế việc ủy thác toàn bộ cho ca đoàn hát trong thánh lễ để tránh lạm dụng, biến giáo dân thành những thính giả bất đắc dĩ.
Vậy làm sao có thể tạo ra sự cân bằng để mọi người có thể tham dự “tích cực, trọn vẹn và có ý thức”? Sự tham gia tích cực và trọn vẹn có nghĩa là các thành viên đều tham gia vào cùng một hành vi thờ phượng, bằng cử chỉ, lời nói, ca hát và phục vụ. Tuy nhiên sự tham gia tích cực không loại trừ sự im lặng, tĩnh lặng và lắng nghe. Chẳng hạn khi nghe những bài đọc, bài giảng, hiệp với lời nguyện của chủ tế. Vì lý do này, trong Phần Riêng lễ, cụ thể những bài hát thuộc về cuộc rước (Bài Ca Nhập lễ, Ca Tiến lễ và Ca Hiệp lễ) cộng đoàn được mời gọi tham gia càng nhiều càng tốt, nhưng cộng đoàn cũng được mời gọi dành những giây phút tĩnh lặng để lắng nghe, để suy nguyện khi ca đoàn hát một mình mà không cần phải ca thán hoặc lên án họ.
Dù sao nữa, khi thi hành đúng phận vụ của mình, ca đoàn cũng phải ý thức vai trò được Giáo hội trao phó là nâng đỡ cộng đoàn, giúp họ nâng tâm hồn lên tới vẻ đẹp siêu phàm của Thiên Chúa, thúc đẩy các hành động ca ngợi, chúc lành, tôn vinh và tạ ơn.
- Võ Tá Hoàng
2023
Giáo hội Công giáo dạy gì về an tử?
2023
Đức Bênêđictô XVI: Những nguyên tắc căn bản của phụng vụ
Đức Bênêđictô XVI: Những nguyên tắc căn bản của phụng vụ
ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI:
NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA PHỤNG VỤ
Lm. Edward McNamara, LC[1]
Trong suốt hành trình dài của cuộc đời, Đức Bênêđictô XVI rất quan tâm đến Phụng vụ của Giáo hội. Thật vậy, tập sách được chuyển ngữ đầu tiên trong số các tác phẩm được sưu tập của ngài là tập XI, bao gồm những suy tư của ngài về chủ đề này. Phụng vụ là một trong những đề tài chính trong các bài viết và suy tư thần học và là một trong những trụ cột trong tư tưởng của Đức Bênêđictô.
Trong cuốn tự thuật, Joseph Ratzinger diễn tả món quà tặng là cuốn sách lễ Schott đã giúp ngài khám phá ra Phụng vụ như một hồng ân ra sao. Ngài cho biết mối quan tâm của mình đối với các chủ đề Phụng vụ khởi đi từ việc ngài đọc tác phẩm Tinh thần Phụng vụ của Romano Guardini. Đối với ngài, tác phẩm tinh túy này: “Là sự khám phá về một thế giới mới, về Phụng vụ đích thực… về Phụng vụ như một thế giới biểu tượng chứa đầy thực tại, đầy ý nghĩa”. Tuổi trẻ của ngài trùng hợp với những đóng góp quan trọng của phong trào Phụng vụ Đức mà đỉnh cao là những cải cách của Công đồng Vatican II mà ngài hầu hết tán thành và chấp nhận.
Trong tư tưởng của Đức Bênêđictô, Phụng vụ không phải là một chủ đề bên lề, nhưng khái niệm của một người về Giáo hội và về mối tương quan của nhân loại với Thiên Chúa phần lớn phụ thuộc vào khái niệm căn bản về Phụng vụ. Trong phần dẫn nhập của tập XI, Đức Bênêđictô khẳng định rằng ngài quan tâm đến Thần học cơ bản hoặc câu hỏi “Tại sao chúng ta tin?” một cách tự nhiên dẫn đến câu hỏi về sự đáp trả đúng đắn đối với Thiên Chúa. Nền tảng cơ bản này của Phụng vụ là điểm cốt lõi đối với tư tưởng và là nền tảng cho những kết luận thực tiễn của ngài. Đức Bênêđictô đã phát triển thần học của mình theo cách độc đáo với sự kết hợp giữa nền tảng thần học Kinh thánh vững chắc và sự cởi mở đối với sự phát triển hữu cơ thực sự kết hợp với tình yêu truyền thống, và điều mà chúng ta có thể gọi là thực tại thần nghiệm về sự hiện hữu của Kitô giáo.
Với lối nhìn này, chúng ta có thể khám phá những nguyên tắc căn bản trong Thần học Phụng vụ của Đức Bênêđictô.
- “Sự ban tặng” của Phụng vụ
Khía cạnh đầu tiên mà chúng ta có thể thấy là Đức Bênêđictô nhấn mạnh đến sự thật đó là, Phụng vụ, về bản chất, là một điều gì đó được ban tặng chứ không phải do con người tạo ra mặc dù sự đóng góp của con người là cần thiết.
Trước hết, Phụng vụ là kết quả của sáng kiến thần linh. Khi nghiên cứu bản văn Xh 7, 16 “Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta trong sa mạc” Ratzinger chỉ ra ba kết quả:
– Dân chúng không chỉ nhận được Hướng dẫn về sự thờ phượng mà còn nhận được quy tắc của cuộc sống.
– Chính qua quy tắc này, một dân tộc được hình thành với tư cách là một dân tộc nhận được mảnh đất nội tâm của mình.
– Ba khía cạnh: thờ phượng, luật pháp và luân lý đạo đức được đan xen trong Giao ước và nguyên tắc này vẫn luôn có giá trị mặc dù có một số khác biệt trong Kitô giáo.
Ngài lưu ý rằng bất cứ khi nào dân Israel thất bại trong sự thờ phượng đích thật, thì họ sẽ mất tự do về tinh thần cũng như thể chất. Vì thế, ngài có thể nói rằng: “Sự thờ phượng chính yếu bao hàm trật tự của toàn bộ cuộc sống con người theo nghĩa của Irenaeus. Có thể nói, con người trở nên vinh quang của Thiên Chúa là đặt Thiên Chúa vào trong ánh sáng (và đó là ý nghĩa của sự thờ phượng), khi con người sống hướng về Thiên Chúa. Mặt khác, đúng thực là luật pháp và đạo đức không gắn kết với nhau khi chúng không được gắn chặt vào trung tâm Phụng vụ và không được truyền cảm hứng từ Phụng vụ”.
Do đó, câu trả lời đầu tiên cho thực tại được tìm thấy trong Phụng vụ là chỉ khi mối tương quan của con người với Thiên Chúa đúng đắn thì các mối tương quan khác của con người mới có trật tự tốt đẹp. Điều này cũng có nghĩa là Phụng vụ không thể là một sáng tạo đơn thuần của con người, một việc làm tùy ý: “Chính chúng tôi cũng không biết phải dâng gì cho Ðức Chúa, bao lâu chưa đến đó” (Xh 10, 26).
Điều này cũng có nghĩa là cộng đoàn Kitô hữu không tự tạo ra mình nhưng đón nhận sự hiện hữu của mình như một quà tặng của Thiên Chúa và dâng trao lại quà tặng này cho nguồn cội của mình. Vì Phụng vụ được trao ban, Đức Bênêđictô đã khám phá câu hỏi là dâng lên cái gì, hay đúng hơn là dâng lên cho ai trong Phụng vụ. Câu trả lời của ngài là sự thờ phượng Kitô giáo xuất hiện nhờ Đức Kitô.
- Phụng vụ như là hiện thân của mầu nhiệm Đức Kitô
Vai trò trung tâm của Đức Kitô là điều thiết yếu để hiểu Thần học Phụng vụ của Đức Bênêđictô. Điều này dựa trên hai điểm chính là Mầu Nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Vượt Qua.
Đức Bênêđictô chú giải về Ga 1, 14: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” và kết luận rằng: “Ngôi Lời mà sự thờ phượng của Kitô giáo nói đến trước hết không phải là một bản văn, mà là một thực tại sống động: một Thiên Chúa, Đấng tự truyền đạt ý nghĩa, và Đấng truyền đạt chính mình bằng cách trở thành một con người. Sự nhập thể này là lều thánh, tâm điểm của mọi sự thờ phượng, vốn nhìn vào vinh quang của Thiên Chúa và tôn vinh Ngài”.
Tuy nhiên, Nhập thể chỉ là chuyển động đầu tiên và chỉ có thể được hiểu trong ánh sáng của Thập giá và Phục sinh. Đây là dòng chuyển động sắp đặt Phụng vụ. Trong khái niệm về hy tế của Kitô giáo, một khái niệm đã chiếm lĩnh suy tư của ngài trong hơn 50 năm, Ratzinger tập hợp nhiều suy tư về Bữa Tiệc Ly khi nói rằng, vào thời điểm trung tâm của lịch sử: “Giao ước mới cũng được hoàn thành và kết thúc bằng một hy tế mới đích thực: hiển nhiên là Chúa Giêsu, Đấng đã hiến dâng mạng sống mình, là sự thờ phượng đích thực và sự tôn vinh đích thực đối với Thiên Chúa”. Do đó, ngài khẳng định rằng trong Bữa Tiệc Ly và trên Thập giá, Đức Kitô là Chiên Vượt qua và là Ađam mới, Đấng đi vào bóng tối của giấc ngủ của sự chết, và do đó, bắt đầu một nhân loại mới. Chính Đức Kitô truyền rằng hy tế này phải được lặp lại để tưởng nhớ đến Người, do đó, làm cho hy tế của Người hiện diện xuyên suốt lịch sử.
Cùng với thần học về Hy tế, Đức Bênêđictô luôn phát triển tầm quan trọng trung tâm của sự Phục sinh đối với nền tảng và nhận thức về các Bí tích và đời sống Phụng vụ. Như ngài đã viết: Sự tự hiến của Đức Kitô sẽ trở nên vô nghĩa nếu cái chết là tiếng nói cuối cùng. Vì thế, chỉ qua sự Phục sinh, giao ước mới được hiện hữu một cách trọn vẹn. Giờ đây, con người được kết hiệp vĩnh viễn với Thiên Chúa. Giờ đây, cả hai thực sự gắn bó với nhau không thể tách rời. Như vậy, ngày Phục sinh là ngày Sabbat mới. Đó là ngày mà Chúa đến giữa dân của Người và mời họ tham gia vào “Phụng vụ”, vào việc tôn vinh Thiên Chúa, và vào việc Người thông ban chính mình cho họ.
Từ hai chủ đề trung tâm, Đức Bênêđictô rút ra những khái niệm then chốt khác mà chúng ta có thể phác thảo một cách ngắn gọn.
- Chiều kích vũ trụ và thời gian
Thực tại đầu tiên là vũ trụ và thời gian mà trong đó diễn ra Phụng vụ. Đối với Đức Bênêđictô, Phụng vụ Kitô giáo là một Phụng vụ vũ trụ bao trùm toàn thể tạo vật.
Nguyên lý mang tính vũ trụ này biểu lộ trực giác rằng Con người hiện hữu vì Thiên Chúa. Trình thuật sáng tạo trong sách Sáng thế chương 1 mạc khải rằng sự sáng tạo xuất hiện để thiết lập giao ước và do đó hướng tới ngày Sabát, vốn là dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Sau đó, điều này chắc chắn dẫn đến sự thờ phượng, mà một cách cơ bản: “Hệ tại… sự kết hợp của con người và tạo vật với Thiên Chúa. Thuộc về Thiên Chúa không liên quan gì đến sự hủy diệt hoặc không hiện hữu, đúng hơn nó là một cách thức hiện diện”. Thuộc về Thiên Chúa có nghĩa là thoát ra khỏi trạng thái của sự tách biệt, của sự tự quản hiển nhiên, của sự hiện hữu cho chính mình và trong chính mình. Thuộc về Thiên Chúa có nghĩa là từ bỏ mình như là cách thế duy nhất để tìm lại chính mình (x. Mc 8, 35; Mt 10, 39). Đó là lý do tại sao Thánh Augustinô nói rằng “hy tế” đích thực là civitas Dei, nghĩa là nhân loại được tình yêu biến đổi, sự thần hóa của thụ tạo, và sự quy phục của muôn loài đối với Thiên Chúa: Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài (x. 1Cr 15, 28). Đó chính là mục đích của thế giới. Đó là cốt lõi của sự thờ phượng.
- Chiều kích Giáo hội học
Ratzinger là người đi tiên phong trong lĩnh vực Giáo hội học, đặc biệt là trong việc đưa ra khái niệm về sự Hiệp thông. Tuy nhiên, quan niệm về Giáo hội của ngài cũng liên quan mật thiết đến Phụng vụ và không thể tách rời khỏi Phụng vụ. Chẳng hạn, ngài nhấn mạnh đến mối dây được thiết lập bởi Bí tích Thánh Thể, mối dây quy tụ chúng ta thành một gia đình qua việc thông phần Mình và Máu Đức Kitô. Ngài khẳng định rằng: “tất cả các cộng đoàn cử hành Thánh Thể cùng nhau vẫn chỉ là một cộng đoàn, bởi vì thân thể của Đức Kitô chỉ là một, và do đó Dân Chúa chỉ có thể là một”.
Trong một diễn từ sau đó, Hồng y Ratzinger đã khai triển về khái niệm và ý nghĩa của sự Hiệp thông đối với đức ái và việc xây dựng tình liên đới dưới ánh sáng của thư 1Cr 10 và 1Ga 3-7. Giáo hội không phải là một thực tại thông qua chính quyền trung ương, mà đúng hơn: “Một trung tâm chung cho tất cả mọi người là khả thi vì Giáo hội luôn bắt nguồn từ một Chúa duy nhất, Đấng mà trong một tấm bánh duy nhất làm cho Giáo hội trở thành một thân thể. Đó là lý do tại sao sự hiệp nhất của Giáo hội sâu sắc hơn bất kỳ sự kết hợp nào của con người. Chính khi Thánh Thể được hiểu trong sự mật thiết trọn vẹn của sự kết hợp giữa mỗi cá nhân với Chúa, thì nó cũng tự động trở thành một bí tích mang tính xã hội ở mức cao nhất”.
- Chiều kích cánh chung
Đức Hồng y Ratzinger coi phụng vụ Kitô giáo về cơ bản là Phụng vụ của một lời hứa được hoàn thành nhưng cũng là Phụng vụ của niềm hy vọng trong đó Đền thờ mới vẫn đang được xây dựng. Phụng vụ lữ hành sẽ chỉ được hoàn thành vào ngày tận thế. Bản văn sau đây minh họa rất rõ quan điểm của ngài về điều này: “Cuối cùng, yếu tính của Phụng vụ được tóm tắt trong lời nguyện cảm thán mà Thánh Phaolô (1Cr 16, 22) và Didache (10, 6) đã truyền lại cho chúng ta Maranatha – Chúa của chúng ta ở đây – Lạy Chúa, xin ngự đến! Ngay cả giờ đây, sự Quang lâm (Parousia) được hoàn thành trong Thánh Thể, nhưng theo cách này, Thánh Thể làm cho chúng ta hướng tới Chúa là Đấng sẽ đến; vì thế, Thánh Thể dạy chúng ta kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”. Và Thánh Thể cho phép chúng ta nghe đi nghe lại câu trả lời và trải nghiệm điều này như là sự thật: “chẳng bao lâu nữa ta sẽ đến” (Kh 22, 17. 20).
- Phụng vụ như là sự thờ phượng xứng hợp(Logiké latreia, Rm 12:1)
Nguyên tắc cuối cùng dẫn chúng ta đến câu trả lời cho câu hỏi người ta hy vọng đạt được điều gì qua sự thờ phượng. Đức Bênêđictô đã phát triển khái niệm quan trọng về Phụng vụ Kitô giáo như là sự thờ phượng đích thực, cũng như là sự thờ phượng xứng hợp (logiké latreia, rationabile obsequium).
Việc thờ phượng của Kitô giáo phải xứng hợp với Logos (Lời) và từ đó rút ra một số hệ quả: “Mối tương quan với một văn bản, tính hợp lý, tính dễ hiểu và sự đúng mực của Phụng vụ Kitô giáo”.
Phụng vụ có đặc tính của “từ ngữ”. Điều này không có nghĩa là Phụng vụ giảm thiểu thành từ ngữ đơn thuần như một biểu hiện của lý trí: “Hy tế là “lời”, lời cầu nguyện, đi từ con người lên đến Thiên Chúa, thể hiện toàn bộ sự tồn tại của con người và giúp con người trở thành lời (logos) trong mình. Chính con người, tuân theo logos và trở thành logos nhờ đức tin, mới là hy lễ đích thực, vinh quang đích thực của Thiên Chúa.” Theo cách này, triết học Hy Lạp về từ ngữ được đưa vào khái niệm và nâng nó lên thành một sự kết hợp thần bí với Logos.
Khái niệm về sự thờ phượng xứng hợp cũng được coi như là một hy tế trong đó từ ngữ không phải là một diễn ngôn đơn thuần mà là sự biến đổi bản thể của chúng ta thành logos “Do đó, Kinh nguyện Thánh Thể, “hy tế đích thực” là từ ngữ của Lời; trong đó nói lên Đấng, Lời, là sự sống”. Kinh nguyện Thánh Thể cũng là hy tế đích thực chứ không phải là sự trình bày về những ân ban.
Có nhiều kết luận thực tế và chữ đỏ bắt nguồn từ những nguyên tắc này, nhưng Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI thường than thở rằng những nhận xét về Thần học Phụng vụ của ngài thường bị mất hút vào những chi tiết vụn vặt của những quan tâm mang tính thực hành về chữ đỏ. Chúng ta hy vọng rằng việc nhắc lại đôi chút những nguyên tắc cơ bản trong di sản thần học sâu sắc của Đức Bênêđictô sẽ là một sự tri ân nhỏ đối với vị giáo hoàng vĩ đại, người đã để lại dấu ấn vững bền trong lịch sử của Thần học và của Giáo hội.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm