2023
Sự khác biệt giữa tội trọng và tội nhẹ?
Tội trọng và tội nhẹ là những kiểu phân loại khác nhau về những hành vi phạm tội chống lại Thiên Chúa và tha nhân.
Tội lỗi không phải là điều mà chúng ta thích nhấn mạnh vì chúng nhắc chúng ta nhớ về những lỗi lầm và thiếu sót của mình.
Tuy nhiên, Giáo hội thúc giục chúng ta biết nhận ra mức độ nghiêm trọng của tội lỗi và trở về với Chúa Cha bằng cách xưng tội. Khi làm như vậy, chúng ta được hợp nhất với Thiên Chúa và mối tương quan giữa chúng ta với Chúa được phục hồi.
Khi nói về tội lỗi, Giáo hội Công giáo ghi nhận sự khác biệt giữa tội trọng và tội nhẹ.
Tội trọng
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo định nghĩa, tội trọng là “phá hủy đức mến trong lòng con người do vi phạm nghiêm trọng luật Thiên Chúa. Khi phạm tội, con người quay lưng với Thiên Chúa là cùng đích và chân phúc của mình, bằng cách yêu chuộng một thụ tạo thấp kém hơn” (GLCG 1855).
Để được gọi là tội trọng, vốn cắt đứt mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, nó phải đáp ứng ba tiêu chuẩn cụ thể như Sách Giáo Lý đã nêu.
“Tội trọng đòi phải có nhận thức đầy đủ và hoàn toàn ưng thuận. Điều này giả thiết người phạm tội phải biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa. Tội trọng bao hàm một sự ưng thuận có suy nghĩ cặn kẽ để trở thành một lựa chọn cá nhân. Việc thiếu hiểu biết do lỗi mình và lòng chai đá không làm giảm bớt, mà còn gia tăng tính cách cố tình của tội lỗi” (GLCG 1859).
Tóm tắt ba phẩm chất của tội trọng: một tội là trọng phải liên quan đến vấn đề nghiêm trọng, vi phạm với sự hiểu biết đầy đủ và có sự đồng ý hoàn toàn của người đó.
Tội nhẹ
Tội nhẹ là xúc phạm đến đức ái, tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta và tình yêu của chúng ta đối với người lân cận. Mặc dù chúng không cắt đứt mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa hoặc với đời sống ân sủng, nhưng tội nhẹ có thể gây ra những hậu quả sâu rộng. Thông thường khi phạm tội nhẹ nhiều lần, làm suy yếu quyết tâm của chúng ta và khiến chúng ta dễ phạm tội trọng hơn.
Giáo hội mời gọi chúng ta thú nhận những “tội nhẹ” này, vì chúng làm tổn hại mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với người khác. Hơn nữa, “việc năng xưng các tội nhẹ giúp chúng ta rèn luyện lương tâm, giúp ta chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu, sẵn sàng để Đức Kitô chữa lành và tiến tới trong đời sống theo Thánh Thần” (GLCG 1458).
Sự khác biệt cơ bản giữa tội trọng và tội nhẹ là khi đi xưng tội chúng ta buộc phải xưng tất cả các tội trọng, và tuy không bắt buộc nhưng chúng ta được khuyến khích xưng tất cả tội nhẹ.
Tội nhẹ thường là những yếu đuối hàng ngày của chúng ta, trong khi tội trọng là những điều chia cắt chúng ta với Thiên Chúa và Giáo hội.
2023
Mười cách mừng kính tháng năm của Đức Mẹ
Mười cách mừng kính tháng năm của Đức Mẹ
Tháng 10 là tháng Rất Thánh Mân Côi; Tháng 11, tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời; Tháng Sáu chúng ta dìm mình trong đại dương thương xót của Thánh Tâm Chúa Giêsu; Tháng Bảy chúng ta ngợi khen và tôn thờ Máu Châu Báu Chúa Giêsu, giá cứu chuộc chúng ta. Tháng Năm là tháng của Mẹ Maria.
Mẹ Maria là Nữ Tử của Chúa Cha, Mẹ của Chúa Con và là Hiền Thê mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, Nữ Vương các thiên thần, các thánh, trời đất. Và Thánh Louis de Montfort tôn vinh Mẹ là Nữ Vương của mọi tâm hồn và là kiệt tác tạo dựng của Thiên Chúa.
Các thánh tung hô vinh quang của Đức Trinh Nữ Maria bằng những lời lẽ mạnh mẽ, đầy cảm hứng và thơ mộng.
Chúng ta có thể bày tỏ tình yêu và lòng sùng kính của mình đối với Đức Trinh Nữ Maria trong tháng của Mẹ như thế nào? Có mười cách.
- Tận hiến.
Cử chỉ đầu tiên chúng ta nên làm mỗi sáng là cầu nguyện – lời cầu nguyện tận hiến cho Chúa Giêsu qua Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Bắt đầu ngày mới nhờ Mẹ Maria!
Thánh Têrêsa Calcutta cảm động trước tình yêu lớn lao dành cho Mẹ Maria đã nói:
“Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con trái tim của Mẹ: thật đẹp, thật tinh tuyền, vô nhiễm; Trái tim của Mẹ tràn đầy tình yêu và sự khiêm nhường để con có thể tiếp nhận Chúa Giêsu trong Bánh sự sống và yêu mến Người như Mẹ yêu mến Người và phục vụ Người trong hình dáng đau khổ của người nghèo.”
- Kinh Truyền tin / Kinh Nữ Vương Thiên đàng
Theo truyền thống, lời kinh này được đọc vào buổi trưa, nhưng kinh đó cũng được đọc bất cứ lúc nào. Tại sao không cầu nguyện ba lần một ngày – lúc 9 giờ sáng, 12 giờ trưa và 6 giờ chiều. Bằng cách này, chúng ta sẽ thánh hóa những giờ buổi sáng, những giờ buổi chiều và những giờ buổi tối nhờ sự hiện diện thánh thiện và ngọt ngào của Mẹ Maria.
Những lời kinh kính Đức Mẹ này gợi nhớ đến sự hiện diện quan trọng của Mẹ Maria trong các Mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta – Sự Nhập thể, Cuộc khổ nạn, cái chết và Sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và là Đấng Cứu độ! Cha xứ Ars, Thánh Gioan Vianney, nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện và hành động thường xuyên của Mẹ Maria trong cuộc đời chúng ta:
“Chỉ sau Ngày phán xét cuối cùng, Mẹ Maria mới được nghỉ ngơi; từ giờ đến lúc đó, Mẹ quá bận rộn với con cái. Để phục vụ nên Nữ Vương Thiên đàng ngự trị ở địa vị đó, và sống dưới sự chỉ huy của Mẹ thì còn tốt hơn cả cai trị.”
- Dâng Hiến Ngôi Nhà và Gia Đình cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria
Chuẩn bị cho lễ thánh hiến bằng một tuần chín ngày lần hạt Mân Côi và những lời cầu nguyện và kết thúc bằng việc xin linh mục ban phép lành cho bức ảnh cũng như ngôi nhà và các thành viên trong gia đình. Từ phép lành và sự thánh hiến này, Thiên Chúa Cha sẽ tuôn đổ muôn vàn ơn lành xuống trên bạn và mọi thành viên trong gia đình bạn.
- Dâng Mình.
Chính thức dâng hiến toàn bộ con người bạn cho Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria. Bạn có thể chọn nhiều hình thức khác nhau. Việc dâng mình này có thể thay đổi đáng kể cả cuộc đời bạn.
Nếu bạn đã làm việc đó rồi thì bạn có thể làm mới lại việc tận hiến hàng năm và tiến sâu hơn vào kho chứa vô tận của tình yêu Thiên Chúa đã mang đến cho chúng ta qua sự chuyển cầu của Mẹ Maria! Mẹ Maria có quyền lực đối với chúng ta bằng những cách thế vượt xa trí tưởng tượng mãnh liệt nhất của chúng ta. Thánh Louis de Montfort nhắc nhở chúng ta:
“Vì Thiên Chúa, khi đã ban quyền năng trên Người Con duy nhất của Ngài, thì cũng ban quyền năng trên các nghĩa tử của Ngài – không chỉ những gì liên quan đến thể xác, vốn không đáng kể – mà còn cả những gì liên quan đến linh hồn nữa”.
- Noi gương Mẹ Maria
Nếu chúng ta thực sự yêu ai đó, thì chúng ta muốn hiểu họ hơn, theo sát họ hơn và cuối cùng là bắt chước những phẩm chất tốt đẹp của họ mà chúng ta gọi là đức tính tốt. Thánh Louis de Montfort trong tác phẩm kinh điển Lòng sùng kính đích thực dành cho Mẹ Maria cho chúng ta một danh sách mười nhân đức chính của Mẹ Maria. Hãy noi theo các nhân đức ấy và bạn sẽ đi trên con đường thánh thiện.
– Đức khiêm tốn sâu xa của Mẹ,
– Đức tin sống động,
– Lòng vâng phục trọn vẹn,
– Cầu nguyện không ngừng,
– Liên tục từ bỏ chính mình,
– Sự tinh khiết vượt trội,
– Tình yêu mãnh liệt,
– Nhẫn nại anh hùng,
– Ân cần như thiên thần,
– và Đức khôn ngoan của trời cao!
Thánh Louis dạy chúng ta:
“Các vị thánh vĩ đại nhất, những người giàu ân sủng và nhân đức nhất sẽ là những người siêng năng nhất trong việc cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Rất Thánh, nhìn lên Mẹ như một mẫu gương hoàn hảo để bắt chước và như một trợ thủ đắc lực để trợ giúp các ngài.”
- Những cám dỗ ư? Hãy kêu cầu Mẹ Maria.
Cuộc sống của chúng ta là một vùng chiến trận liên tục, cho đến khi chết! Chúng ta không nên chiến đấu một mình chống lại ma quỷ, xác thịt và thế gian. Thay vào đó, trong cơn cám dỗ như lửa đốt, khi tất cả dường như bị mất hết, hãy kêu cầu Thánh Danh Đức Maria; hãy đọc Kinh Kính Mừng! Làm được như thế, tất cả quyền lực của địa ngục sẽ bị đánh bại.
Mẹ Maria là “Tướng Lĩnh Đạo Binh”. Theo mệnh lệnh của Mẹ, kẻ thù – những thần dữ xấu xa – bỏ chạy, biến mất và bị đánh bại! Khi thánh Phanxicô Salê bị cám dỗ tuyệt vọng nhưng nhờ lời kinh dâng lên Mẹ Maria, “Memorare – Xin hãy nhớ” – được cho là của Thánh Bênađô – sự cám dỗ đã bị khuất phục.
Thánh Antôn Maria Claret đã bị cám dỗ dữ dội đầu hàng trước sự cám dỗ lỗi phạm đức trong sạch. Chính nhờ những lời cầu nguyện tha thiết của ngài với Mẹ Maria mà ma quỷ ô uế đã bị trục xuất và người thanh niên Antôn đã được ban cho những ân sủng đặc biệt để sống khiết tịnh, thành lập một Dòng tu, rao giảng liên tục và viết nhiều cuốn sách làm nhiều điều tốt đẹp. Như Thánh Bonaventura khẳng định:
“Người ta sợ một đội quân thù địch hùng mạnh không bằng quyền lực hỏa ngục sợ danh thánh và sự che chở của Mẹ Maria.”
- Đức Maria và Năm Phụng Vụ
Hãy nhận biết sự hiện diện mạnh mẽ của Mẹ Maria trong Nhiệm Thể Chúa Kitô là Giáo Hội. Đặc biệt là nhận biết sự hiện diện của Mẹ Maria trong Năm Phụng Vụ – các Thánh Lễ. Mục đích cuối cùng của Thánh lễ là ca tụng và tôn thờ Thiên Chúa Cha, nhờ việc dâng Chúa Con làm của lễ và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, Mẹ Maria có một vị trí đặc biệt trong Năm Phụng Vụ.
Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và là Mẹ chúng ta xét theo hệ trật ân sủng! Hãy đọc và suy niệm một cách chăm chú Tông Thư của Đức Thánh Cha Phaolô VI Marialis Cultus, giải thích rõ ràng về sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch Phụng Vụ. Đây là một kiệt tác tâm linh. Bạn phải đọc Tông thư này!
- Đọc sách viết về Mẹ Maria
Để có một nền Thánh Mẫu học được hình thành tốt đẹp và toàn diện, chúng ta nên trau dồi cả giáo lý và lòng sùng kính. Giáo lý không có lòng sùng kính có thể trở nên khô khan và cằn cỗi. Trong khi đó, lòng sùng kính mà không có giáo lý có thể dễ dàng biến thành chủ nghĩa đa cảm!
Tại sao không đọc Tông Thư của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Rosarium Virginis Mariae – Đức Trinh Nữ Maria Đầy Ơn Phúc và Kinh Mân Côi. Viên ngọc thiêng liêng này kết hợp cả giáo lý Công giáo vững chắc (Mariology – Thánh Mẫu học) với tình yêu dịu dàng và lòng sùng kính đối với Mẹ Maria. Vị thánh giáo hoàng khuyên toàn thế giới hãy chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Giêsu qua đôi mắt và trái tim của Mẹ Maria. Mẹ Maria là con đường nhanh nhất, ngắn nhất, dễ dàng nhất và hiệu quả nhất để đến với Chúa Giêsu.
- Tông đồ cho Mẹ Maria
Hãy trở thành một Tông đồ nồng nhiệt và nhiệt thành của Mẹ Maria. Một trong những vị thánh hiện đại nổi tiếng nhất của Mẹ Maria là thánh Maximilian Kolbe. Tình yêu của ngài dành cho Mẹ Maria không thể giữ lại được. Một trong những phương pháp tông đồ mà thánh Kolbe đã sử dụng là truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội bằng Ảnh đeo Phép lạ (Miraculous Medal) hay còn gọi là Ảnh đeo có hình Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội (Medal of the Immaculate Conception).
Bất cứ khi nào có cơ hội, thánh Maximilian sẽ trao ảnh đeo miễn phí cho người đó. Ngài gọi đó là những “viên đạn tinh thần”. Sau đó, ngài sẽ giải thích về Đức Mẹ, về ý nghĩa giáo lý của ảnh đeo có tính bùng nổ này. Ảnh đeo được gọi là “làm Phép lạ” vì lý do đơn giản là nhiều phép lạ đã được quy cho những người sử dụng ảnh đeo đó với đức tin, tình yêu lớn lao và tin tưởng vào sự chuyển cầu của Mẹ Maria.
Tại sao không trở thành một tông đồ hiện đại của Đức Mẹ ngày nay, theo bước chân của thánh Kolbe? Vị thánh vĩ đại này của Mẹ Maria đã khẳng định với niềm xác tín:
“Chỉ có Đấng Vô Nhiễm mới có được từ Thiên Chúa lời hứa chiến thắng Satan. Mẹ tìm kiếm những linh hồn sẽ dâng mình hoàn toàn cho Mẹ, những linh hồn sẽ trở thành những công cụ mạnh mẽ trong tay Mẹ để đánh bại Satan và mở rộng Nước Chúa.”
- Kinh Rất Thánh Mân Côi
Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra sáu lần với các trẻ chăn cừu – Lucia, Giacinta và Phanxicô. Trong mỗi lần hiện ra, Mẹ đều nhấn mạnh đến việc lần chuỗi Mân Côi.
Thánh Gioan Phaolô II trong Tông Thư Rosarium Virginis Mariae về Đức Trinh Nữ Maria và Kinh Mân Côi đã nhấn mạnh, nài xin toàn thế giới hãy lần chuỗi Mân Côi để cứu rỗi các gia đình và cho hòa bình thế giới.
Linh mục nổi tiếng cổ võ Kinh Mân Côi, Cha Patrick Peyton đã nói một cách ngắn gọn: “Gia đình cầu nguyện cùng nhau sẽ ở bên nhau”… và “Một thế giới cầu nguyện là một thế giới hòa bình.” Tại sao không vâng lời Thánh Gioan Phaolô II? Tại sao không vâng lời Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Fatima yêu cầu? Nếu thực hiện được như thế, gia đình sẽ được cứu và sẽ có hòa bình mà cõi lòng con người hằng khao khát.
Phêrô Phạm Văn Trung
Chuyển ngữ từ: catholicexchange.com
2023
Đức Maria trong âm nhạc
Đức Maria trong âm nhạc
Đức Maria trong âm nhạc
Tác giả bài viết: Giuse Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2023
Thông dịch viên Lời Chúa
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Than phiền bài giảng của các linh mục đã trở thành chuyện dài nhiều tập đến nỗi đi vào cả Tông huấn của Giáo hoàng: “Tôi đặc biệt chú ý đến bài giảng lễ và việc chuẩn bị bài giảng vì có quá nhiều lời ta thán về phận vụ quan trọng này, và chúng ta không thể không biết đến… Chúng ta biết rằng người giáo dân dành cho bài giảng tầm quan trọng đặc biệt, nhưng cả họ cũng như các thừa tác viên có chức thánh đều phải khổ sở vì các bài giảng: giáo dân khổ vì phải nghe, còn người giảng thì khổ vì phải giảng” (Evangelii Gaudium, 135). Trong câu trích dẫn trên, Đức Thánh Cha Phanxicô không chỉ nói đến nỗi khổ của giáo dân khi phải nghe giảng, mà còn nói đến nỗi khổ của các linh mục khi phải giảng! Mà đây lại là điều ít người để ý đến.
Trong thực tế, các linh mục có những khó khăn khi giảng Lời Chúa, những khó khăn mà các diễn giả khác không phải đối diện. Chẳng hạn cử tọa không thay đổi. Một giáo sư dạy một môn học, ông biên soạn một giảng trình và cử tọa của ông là các sinh viên, mỗi năm là một lớp sinh viên mới nên tuy giảng trình vẫn thế (có thay đổi chút đỉnh) mà người nghe vẫn thấy mới. Hoặc một diễn giả được mời thuyết trình trong hội nghị, ông biên soạn bài diễn văn công phu, và vẫn bài ấy, ông trình bày tại những hội nghị khác với cử tọa khác, bài thuyết trình của ông lúc nào cũng được người nghe coi là mới mẻ. Còn linh mục giảng Lời Chúa thì sao? Cũng một cử tọa ấy, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, và nếu linh mục ấy phục vụ tại giáo xứ từ 5 năm trở lên thì lấy đâu ra cái mới! Có khi vừa nghe mấy câu thì người ta đã xầm xì “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”!
Chưa hết, cử tọa của một giáo sư trên giảng đường là các sinh viên cùng trình độ, cử tọa của một diễn giả về một đề tài là những người quan tâm đến đề tài đó, vì thế họ có thể trình bày cách thích hợp với cử tọa. Còn cử tọa của linh mục tại giáo xứ thì sao? Thưa, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi trình độ, làm sao để thích hợp với mọi người? Trong Triết Kinh viện có câu: “Bất cứ điều gì được đón nhận đều được đón nhận theo thể thức của người đón nhận”. Nếu lấy câu đó áp dụng cho việc giảng lễ của các linh mục, sẽ thấy rất phức tạp.
Nói thế không phải để than thở, cũng không phải để bênh nhau nhưng để có thể nói với nhau cách chân thành rằng dù có những khó khăn như thế, anh em linh mục phải luôn cố gắng chu toàn trách nhiệm cao quý đã lãnh nhận, và bài viết này mong được là sự chia sẻ thân tình trong bầu khí huynh đệ ấy.
Thông dịch viên
Để tìm một hình ảnh diễn tả việc giảng lễ của linh mục, tôi nhớ đến một linh mục đàn anh đã qua đời. Có lần ngài kể cho tôi nghe chuyện một người bạn cùng lớp ở chủng viện nhưng đã xuất tu, sau đó anh dồn sức học tiếng Anh để làm thông dịch viên cho người Mỹ. Vị linh mục đàn anh ấy nói với tôi: hắn học đến nỗi ho ra máu để làm thông dịch viên cho Mỹ, thế còn chúng ta học để làm thông dịch viên Lời Chúa thì sao! “Thông dịch viên Lời Chúa”, tôi nhớ mãi cụm từ ấy và muốn mượn hình ảnh này để suy nghĩ về nhiệm vụ giảng lễ của các linh mục.
Khi đất nước mở ra với các nước ngoài về hoạt động thương mại cũng như giao lưu văn hóa, thông dịch viên trở thành một ngành nghề cần thiết. Vậy, đâu là những phẩm chất cần thiết của một thông dịch viên giỏi?
Thông dịch viên giỏi là người phải thông thạo cả hai ngôn ngữ, ngoại ngữ và ngôn ngữ bản xứ. Giỏi ngôn ngữ bản xứ nhưng kém ngoại ngữ đương nhiên không thể thông dịch, nhưng giỏi ngoại ngữ mà yếu về ngôn ngữ bản xứ cũng không thể là thông dịch viên tốt. Do đó, sở hữu vốn từ vựng rộng lớn trong cả hai ngôn ngữ sẽ giúp thông dịch viên nhanh nhạy trong việc dùng từ chính xác và sinh động.
Cùng với sự thông thạo ngôn ngữ, thông dịch viên giỏi còn phải có kiến thức tổng quát và hiểu biết về văn hóa. Ngôn ngữ là phương tiện diễn tả tư tưởng, tâm tình, cảm xúc bên trong, và ngôn ngữ gắn liền với văn hóa. Vì thế nếu có sự hiểu biết rộng về lịch sử và văn hóa bản xứ cũng như nước ngoài, thông dịch viên có thể hiểu sâu về những điều người ta muốn diễn tả và truyền đạt cho người khác.
Ngoài ra, cũng như trong bất cứ lãnh vực nào khác, đạo đức nghề nghiệp là đòi hỏi tất yếu. Trong ngành thông dịch, đạo đức nghề nghiệp trước hết đòi hỏi sự trung thực, chuyển tải đúng những điều người khác muốn, không tự ý thêm bớt điều gì. Cùng với sự trung thực là bảo mật thông tin, tác phong lịch sự, nghiêm túc trong công việc.
Cuối cùng, thông dịch viên giỏi là người phải không ngừng trau dồi khả năng. Ngôn ngữ và kiến thức là biển cả mênh mông và không ngừng tiến triển, vì thế để là thông dịch viên giỏi, phải không ngừng trau dồi ngôn ngữ và sự hiểu biết, nhờ đó mới có thể đáp ứng nhu cầu cách thích đáng.
Thông dịch viên Lời Chúa
Lời của Chúa và lời của đời
Thông dịch viên là cầu nối cho cuộc đối thoại giữa hai người không cùng ngôn ngữ. Cũng thế, thông dịch viên Lời Chúa là cầu nối cho cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân của Người. Để phục vụ cuộc đối thoại ấy, linh mục phải hiểu biết Lời Chúa, cụ thể là các bài đọc trong Thánh Lễ. Thông thường các linh mục giảng lễ hay tự hỏi: “Tôi sẽ giảng điều gì để người nghe thấy hấp dẫn?” nhưng thực ra câu hỏi đầu tiên phải là: “Lời Chúa muốn nói gì với dân của Chúa?”, vì thế việc đầu tiên là phải đọc và tìm hiểu Lời Chúa qua các bài đọc. Đức Phanxicô trong Tông huấn Evangelii Gaudium (EG) cũng như Đức Bênêđictô XVI trong Verbum Domini (VD) đều nhấn mạnh đến phần việc quan trọng này và đưa ra những chỉ dẫn cụ thể (x. EG 150; VD 59):
– Phải đọc kỹ, chậm rãi, không vội vã, để ý đến những từ ngữ được lặp lại nhiều lần cũng như để ý cấu trúc của bản văn, mục đích là để tìm hiểu đâu là sứ điệp chính của trích đoạn mà ta đang đọc.
– Phải liên hệ bản văn ta đang đọc với giáo huấn của toàn bộ Kinh Thánh vì Chúa Thánh Thần không chỉ linh hứng một phần nhưng là toàn bộ Kinh Thánh.
– Đồng thời bản thân linh mục phải đọc bản văn Kinh Thánh như Lời Chúa nói với chính mình. Ai muốn rao giảng, phải sẵn sàng để cho Lời chạm đến và làm cho Lời hình thành cụ thể trong đời sống của mình, như thế mới có thể truyền đạt cho người khác điều mình chiêm ngắm; nếu không sẽ có nguy cơ chỉ là tiên tri giả. “Người giảng dạy Lời Thiên Chúa ở bên ngoài mà không nghe Lời ấy ở bên trong thì không thể mang lại hoa trái” (Augustino).
Tiếp đến, giảng không chỉ là giảng cái gì nhưng còn là giảng cho ai, vì thế cùng với việc hiểu biết Lời Chúa, linh mục còn cần phải hiểu biết cử tọa và đời sống của họ: “Người giảng phải có khả năng nối kết sứ điệp của bản văn Kinh Thánh với hoàn cảnh sống của con người, với một trải nghiệm đang kêu gào ánh sáng Lời Chúa. Đây không phải là chuyện tính toán cơ hội nhưng là đòi hỏi tôn giáo và mục vụ sâu xa” (EG 154). Chính điều này làm cho bài giảng lễ khác với bài chú giải Kinh Thánh, và cũng có thể nói là thách đố lớn nhất của việc giảng lễ, đòi hỏi linh mục phải vừa lắng nghe Lời Chúa vừa lắng nghe lời của đời, nhất là tâm tư của những người mình được sai đến công bố Lời Chúa cho họ. Chính vì thế, “Bài giảng là viên đá thử để đánh giá việc gần gũi của mục tử với giáo dân” (EG 135).
Soạn giảng
Thông dịch viên là một nghề và đòi hỏi phải có đạo đức nghề nghiệp, huống chi thông dịch viên Lời Chúa là một ơn gọi, thì linh mục giảng lễ lại càng phải có tinh thần trách nhiệm lớn hơn, trách nhiệm trước mặt Chúa và trách nhiệm với dân Chúa. Trách nhiệm ấy đòi hỏi linh mục phải chuẩn bị bài giảng lễ cho chu đáo hết sức có thể: “Mỗi tuần nên dành một thời gian cá nhân hay tập thể rất cần thiết cho trách nhiệm này, dù phải bớt thời giờ cho những công việc khác, kể cả những việc thật quan trọng” (EG 145). Nếu không chuẩn bị bài giảng cho tốt, linh mục giảng lễ sẽ làm mất thời giờ của cộng đoàn, tệ hơn nữa, còn làm cho cộng đoàn chán ngán Lời Chúa và đời sống đức tin sa sút.
Lý do thường được viện dẫn để biện minh cho việc thiếu chuẩn bị bài giảng là “không có giờ, quá nhiều việc phải lo”! Tuy nhiên nếu chúng ta chân thành nhìn lại đời sống của mình, có lẽ vấn đề không phải là không có giờ nhưng “đâu là ưu tiên hàng đầu của chúng ta?” Nếu ưu tiên hàng đầu là giảng Lời Chúa thì chúng ta sẽ có thể sắp xếp thời gian thích hợp cho công việc này.
Lý do khác cũng hay được viện dẫn là “các bài đọc đã quá quen, chẳng có gì mới nên không cần chuẩn bị”! Chúng ta quên rằng Lời Chúa luôn mới mẻ và cuộc sống con người cũng không ngừng thay đổi. Hãy thử đọc những bài giảng của Đức Bênêđictô XVI hoặc của Đức Phanxicô xem, cũng cùng một bài Tin Mừng ấy, các ngài giảng nhiều năm và lần nào cũng cung cấp cái nhìn mới về Lời Chúa. Vì thế viện dẫn lý do “đã quá quen” thực ra chỉ là để biện minh cho sự lười biếng của mình.
Một bài giảng tốt là bài giảng tác động trên con người toàn diện: soi sáng trí khôn, đánh động tâm hồn, thúc đẩy hành động. Vì vậy cần có thời giờ chuẩn bị kỹ lưỡng bằng việc cầu nguyện, suy nghĩ, đào sâu, tìm kiếm cách diễn tả. Nên tập trung vào một chủ đề hơn là trình bày quá nhiều ý tưởng rải rác, thiếu liên kết, khiến người nghe khó lĩnh hội. “Một ý tưởng, một tâm tình, một hình ảnh” là lời khuyên cụ thể của Đức Thánh Cha Phanxicô. Nếu được, nên viết ra vì khi viết, chúng ta có thể chọn những từ ngữ và cách diễn đạt thích hợp và giúp người nghe dễ đón nhận hơn.
Thuyết giảng
Biên dịch chỉ cần dịch cho đúng và hay, thông dịch còn đòi hỏi thêm là phải nói, phát âm chuẩn để người ta hiểu. Linh mục giảng lễ cũng thế, phải nói sao cho người ta nghe được, hiểu được, cảm được: “Một số người nghĩ rằng họ có thể trở thành những nhà giảng thuyết tốt vì họ biết phải nói cái gì, nhưng lại chểnh mảng về việc phải nói thế nào, cách cụ thể là khi trình bày bài giảng. Họ than phiền là người ta không chịu lắng nghe hoặc không đánh giá họ cao, nhưng có thể là họ đã không chú tâm đến cách trình bày sứ điệp” (EG 156). Vì thế, linh mục giảng lễ nên quan tâm đến một số điều về thuyết giảng:
– Giọng nói: phát âm chuẩn, không nói ngọng hoặc nói sai, không quá nhanh vì sẽ khó nghe, không quá chậm vì sẽ tạo cảm giác mệt mỏi, hơn nữa là giọng nói có khả năng diễn đạt cảm xúc và chạm đến tâm hồn người nghe.
– Ngôn ngữ thích hợp: không dung tục vì đây là lời rao giảng trong khung cảnh phụng vụ, cũng không quá chuyên môn, xa lạ với cử tọa. Ngôn ngữ giảng là ngôn ngữ đơn sơ, rõ ràng, tích cực: “Điều thường xảy ra là các vị giảng thuyết sử dụng những ngôn từ có tính học thuật nhưng không phải là ngôn từ thông dụng của người nghe. Đó là những thuật ngữ đặc thù của thần học và giáo lý, nhưng phần đông các tín hữu lại không hiểu… Để có thể giúp họ tiếp cận Lời Chúa, vị giảng thuyết phải lắng nghe, chia sẻ đời sống của họ và chú tâm đến họ nhiều hơn” (EG 158).
– Thời lượng: giảng lễ là giảng trong cử hành phụng vụ chứ không phải trong một giờ học hoặc hội thảo, vì thế bài giảng lễ không thể quá dài. Hơn nữa, bài giảng quá dài có thể làm mất đi sự hòa hợp giữa các phần phụng vụ cũng như nhịp điệu phụng vụ (x. EG 138). Không thể ấn định cách quá máy móc về thời lượng bài giảng lễ, tuy nhiên cách chung vì các linh mục làm việc tại các giáo xứ phải giảng thường xuyên mỗi Chúa nhật (chưa kể hằng ngày) nên có thể chọn khung thời gian cho một bài giảng lễ Chúa nhật là 7 – 10 phút.
– Tác phong: linh mục giảng lễ mang trên người phẩm phục phụng vụ, giảng trong bầu khí cử hành phụng vụ, sau bài giảng lễ là Phụng vụ Thánh Thể … tất cả những điều đó bày tỏ ý nghĩa đặc biệt của bài giảng lễ và vai trò đặc biệt của vị giảng lễ. Chính ý nghĩa và vai trò ấy đòi hỏi vị giảng lễ phải có tác phong thích hợp. Nói cách khác, linh mục giảng không chỉ bằng lời nói mà còn bằng ngôn ngữ không lời, và tác phong của ngài trong toàn bộ cử hành phụng vụ đóng vai trò quan trọng. Một bài giảng tốt cùng với việc cử hành sốt sắng và trang nghiêm chắc chắn sẽ mang lại ơn ích thiêng liêng cho cộng đoàn dân Chúa.
Vun trồng vốn liếng
Trong chương trình đào tạo ở các đại chủng viện, Giảng thuyết là môn học thường được xếp vào năm cuối của chương trình. Như thế, cách nào đó, việc giảng lễ của các linh mục vừa là kết quả vừa thể hiện ra bên ngoài tất cả những điều linh mục đã tiếp thu trong chương trình đào tạo. Nói như thế có nghĩa là bài giảng lễ của các linh mục được hình thành trên nền tảng đã có trước, tức là kiến thức Kinh Thánh và thần học, kinh nghiệm thiêng liêng và mục vụ, vốn sống và khả năng suy tư của mỗi người. Đây là lý do giải thích tại sao cũng dựa trên cùng các bài đọc nhưng các bài giảng lại được khai triển khác nhau.
Nền tảng ấy đã có nhưng không phải là một món hàng thủ đắc một lần là xong, nền tảng ấy cần phải tiếp tục được củng cố và phát triển trong suốt đời sống linh mục. Chính vì thế các linh mục được khuyến khích không ngừng học hỏi: “Những kiến thức của các thừa tác viên thánh cũng phải thánh vì phát xuất từ nguồn mạch thánh và quy hướng về cùng đích thánh. Vì thế kiến thức đó trước hết được kín múc từ việc đọc và suy gẫm Thánh Kinh, đồng thời cũng tăng thêm hiệu quả nhờ việc nghiên cứu những tài liệu của các Giáo phụ, các thánh Tiến sĩ và các chứng từ khác của Thánh Truyền. Ngoài ra, để trả lời thỏa đáng cho những vấn nạn của con người thời nay, các linh mục phải tìm hiểu thấu đáo những tài liệu của Huấn Quyền, nhất là của các Công đồng và các Giáo hoàng, cũng như phải tham khảo những tác giả thần học thời danh đã được Giáo Hội thừa nhận” (Presbyterorum Ordinis, 19).
Hơn thế nữa, chúng ta đang sống trong một thời đại mà tri thức nhân loại phát triển rất nhanh, vì thế linh mục lại càng cần tự trau dồi: “Trong thời đại ngày nay, văn hóa nhân loại và ngay cả các ngành học thánh đã có những bước tiến mới, vì thế các linh mục phải không ngừng trang bị thật đầy đủ kiến thức về Thiên Chúa và về con người, đó là cách tự chuẩn bị để có thể đối thoại cách thích hợp hơn với những người đương thời” (Presbyterorum Ordinis, 19). Đây là lý do các Giáo phận cố gắng tổ chức các khóa thường huấn hằng năm cho các linh mục. Tuy nhiên điều cần thiết không kém là mỗi linh mục phải tự đào tạo, dành thời giờ để đọc sách và học hỏi thêm.
* * *
Giảng lễ là tác vụ cao quý được trao ban cho các thừa tác viên có chức thánh: “Mỗi người đều có bổn phận và nhiệm vụ liên quan tới Lời Thiên Chúa: các tín hữu phải lắng nghe và suy niệm Lời; còn chỉ những ai đã nhận được nhiệm vụ giáo huấn do Bí tích Truyền chức thánh hoặc những ai đã được trao phó thi hành thừa tác vụ này, tức là các Giám mục, linh mục và các phó tế, thì mới trình bày Lời Chúa” (VD 59). Câu trích dẫn này cho thấy giảng lễ vừa là đặc ân dành riêng cho các linh mục và cũng là trách nhiệm nặng nề. Trách nhiệm ấy đòi hỏi linh mục phải gắn bó mật thiết với Lời Chúa: “Chúa muốn sử dụng chúng ta như những con người sống động, tự do và sáng tạo, hoàn toàn để cho Lời của Người thấm nhập chúng ta, trước khi chúng ta truyền đạt Lời này; sứ điệp của Chúa phải đi ngang qua vị giảng thuyết, không chỉ ngang qua lý lẽ của ngài nhưng chiếm hữu trọn vẹn cuộc sống của ngài” (EG 151).
Câu hỏi mỗi linh mục phải đặt ra cho mình không phải là “tôi giảng có hay không, có được người ta ca tụng không?” nhưng là “tôi đã cố gắng làm hết sức mình chưa?” Hãy làm hết sức như thể kết quả hoàn toàn là do mình, và phó thác nơi Chúa như thể mọi kết quả là từ nơi Chúa.
Nguồn: giaophanmytho.net (08.5.2023)
Đọc thêm bài trong mục “Câu chuyện đầu tuần” của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm:
17 – Thông dịch viên Lời Chúa
16 – Thánh Giuse và nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa 14 – Mầu nhiệm Phục Sinh và giá trị thân xác 13 – Giới trẻ và Chúa nhật Lễ Lá 12 – Những nấm mồ trên mạng xã hội |