2023
Tin để thấy
12.4 Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 3:1-10; Tv 105:1-2,3-4,6-7,8-9; Lc 24:13-35
Tin để thấy
Trong đoạn Kinh thánh này, thánh Lu-ca đã thâu tóm lại vào buổi chiều phục sinh tất cả các việc xảy ra suốt bốn mươi ngày từ ngày phục sinh đến ngày Chúa Giê-su lên trời. Thực vậy, mười một tông đồ chỉ có thể dần dần “lãnh hội được đầy đủ sứ điệp phục sinh”
Đối với những kẻ thấy Người họ tưởng là ma, Chúa Giê-su đã cho họ xem những lỗ đinh đóng ơ chân tay Người. Đối với kẻ quá vui mừng khi thấy Thầy thật rồi, Chúa Giê-su cho họ cùng ăn uống với Người. Đối với kẻ coi cuộc thương khó là gương mù, gương xấu Người giải thích Thánh kinh để họ nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với kẻ còn do dự, Người đòi họ trở nên nhân chứng rao giảng Tin mừng từ thành Giê-ru-sa-lem cho đến cùng cõi trái đất.
Tin Đức Giê-su không phải là đặc ân riêng cho mình, mà chính là ơn gọi làm chứng về Tin mừng đến mọi nơi. Mỗi cuốn Tin mừng đều biểu lộ cho người ta thấy nhiệm vụ chính thức của các tông đồ và của Giáo hội là rao giảng Tin mừng “và có thể chỉ một đoạn nhỏ Tin mừng cũng đủ trình bày tổng quát về ý nghĩa mầu nhiệm phục sinh” (A. George). Chúa Giê-su lên trời để Chúa Thánh Thần hiện xuống soi sáng cho những chứng nhân của Người thiết lập.
Đức tin của chúng ta phải thành ơn gọi thúc đẩy chúng ta vượt ra khỏi những vấn đề cá nhân để tiến sâu vào sứ mệnh phổ biến ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần luôn linh ứng hướng dẫn Giáo hội, nhưng chính chúng ta chậm trễ theo ơn Ngài, chính những cánh buồm tâm hồn chúng ta không mở căng ra. Các mầu nhiệm nói về các vết thương Đức Ki-tô như những môi miệng kêu gọi tình yêu của kẻ đã nhận biết. Chúng ta sẽ lấy gì, làm gì để tỏ lòng mến Thiên Chúa ? Chịu lấy những vết thương hằn sâu trong hy sinh để thành chứng nhân của Đức Ki-tô, hay chỉ coi đó là những nhãn mác lòe loẹt ngoài mặt thôi ?
Trong khi chờ đợi Chúa lại đến, chúng ta phải sống âm thầm dấn thân mạo hiểm nhiều, chứ không chỉ giải những đáp số, nhưng chịu trách nhiệm săn sóc chăm lo cho chính bản thân mình và anh em mình. Khi đức Giê-su hiện đến, Người chỉ hỏi một điều giản dị : “Các con có gì ăn không ?”. Đối với chúng ta phải sống cuộc đời tạm bợ, phải làm việc mò mẫm luôn, phải kiếm ăn vất vả nặng nhọc … không phải là những chứng nhân diễn kịch cho khán giả coi, nhưng là gợi lên ý nghĩa hy sinh tử đạo . . .
Hằng ngày, chúng ta có dịp chia sẻ, trò chuyện, giao tiếp và trao đổi với nhau về rất nhiều đề tài. Từ việc làm ăn đến việc học hành, từ việc thể thao đến việc giải trí, từ đề tài sức khỏe đến việc chăm sóc gia đình… Nhưng có bao giờ chúng ta trao đổi với nhau về Lời Chúa và sự sống thiêng liêng không? Hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra, đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, Người hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Có lẽ họ trao đổi với nhau về sự thất vọng của cuộc sống, về dự định tương lai… Và chắc chắn họ trao đổi với nhau về Chúa Giêsu, về những “thất bại” của Người khiến họ buồn và buông xuôi. Họ từng sống với Chúa Giêsu nhưng họ không tin vào lời hứa của Chúa để dẫn đến kết quả tệ hại này.
Bước ngoặt thay đổi là khi Chúa Giêsu xuất hiện và trao đổi với họ về Thánh Kinh, trao đổi với họ về niềm tin và tín thác, và cuối cùng là trao đổi về việc bẻ bánh – Bí tích Thánh Thể. Qua việc trao đổi quan trọng này, hai môn đệ hoàn toàn thay đổi và thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, đặc biệt là biết làm thế nào để hiện tại và tương lai có giá trị hơn…
Tin vào Chúa Giêsu không phải là một đặc quyền để rồi giữ lấy cho riêng mình, đấy là môt lời kêu gọi ta loan báo Tin Mừng đến khắp nơi. Trong mỗi cuốn Phúc âm đều có một sự tỏ mình có thể gọi là chính thức đối với nhóm Mười Một và tạo điều kiện cho tương lai Giáo hội. “Đây không phải là một tường thuật cho bằng một bảng trình bày tổng hợp về ý nghĩa của toàn bộ mầu nhiệm phục sinh” Chúa Giêsu có thể trở về trời, Thánh Thần đã được hứa cho những người mà Ngài đặt làm chứng nhân. Đức tin của chúng ta có chăng cái chiều kích của lời kêu gọi khiến chúng vượt qua những vấn đề cá nhân mình hầu đi vào một sứ mạng cứu độ phổ quát ? Thánh Thần vẫn luôn thổi hơi vào Giáo hội; chính chúng ta là người chậm trễ, chính những cánh buồm của chúng ta chưa được kéo lên. Những nhà thần bí nói về các thương tích của Chúa Kitô như những cái miệng thét lên tình yêu của Đấng mang thương tích ấy. Chúng ta có gì để trình ra khi đến trước Thiên Chúa? Những danh hiệu và huy chương bên ngoài hay những vết sẹo hằn sâu của những chứng nhân?
Trong khi chờ đợi, chúng ta phải sống với nguy cơ đối diện với nhiều điều mình chưa biết… chúng ta không có bổn phận phải giải mọi phương trình; chúng ta chỉ có bổn phận quan tâm đến bản thân và anh em mình. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài hỏi điềư đơn giản nhất: “Các con có gì ăn không?”. Chúng ta phải sống trong cái bấp bênh; làm việc thường thường trong mò mẫm, cực nhọc đặt lương thực trên bàn… từ ngữ chứng nhân không có nghĩa là khán giả, đôi khi nó gợi ra ý nghĩa của tử đạo…
Thánh Gian tông đồ, ngay từ giây phút đầu tiên khi nhận thấy ngôi mộ trống, đã tuyên xưng rằng mình đã thấy và đã tin. Thánh nhân đã muốn truyền lại cho chúng ta nguyên tắc nền tảng trong quan hệ với Chúa Kitô Phục Sinh, đó là tin để thấy. Đây là nguyên tắc được Chúa Giêsu đề cao như một lời chúc phúc khi Ngài nói với thánh Tôm tông đồ: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Không thấy mà tin hoặc tin để được thấy đây chính là cảm nghiệm về Đấng Kitô Phục Sinh, mà ngày nay các kitô hữu được mời gọi nếm trải trong cuộc sống hàng ngày. Quả thật, một niềm tin đích thực luôn cho chúng ta thấy và cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Giữa những mất mát và khổ đau, một mềm tin đích thực luôn cho phép và thúc đẩy chúng ta tiếp tục tin yêu và hy vọng. Giữa ích kỷ hận thù. một niềm tin đích thực luôn mời gọi chúng ta tiếp tục sống quảng đại, yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được sự bình an trong tâm hồn, như phần thưởng Chúa dành cho những ai tin để được thấy và cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài.
2023
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay
11.4 Thứ Ba trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 2:36-41; Tv 33:4-5,18-19,20,22; Ga 20:11-18
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay
Trong Tin mừng hôm nay, thánh Gioan mời gọi chúng ta đi vào tâm tình của Maria Mađalêna, người phụ nữ được diễm phúc nhận ra Chúa ngay trong buổi sáng đầu tiên đi viếng mộ.
Sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà Maria Mađalêna cảm nhận được không phải là một sự hiện diện khả giác, nhưng chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể nhận ra Ngài. Ngài muốn để cho ai nhận ra Ngài, và nhận ra khi nào là tùy ý muốn của Ngài, do đó, mầu nhiệm Phục Sinh là đối tượng của niềm tin hơn là những lý chứng. Đây là cảm nghiệm mà Maria Mađalêna có được vào buổi sáng ngày Phục sinh: bà không thấy gì ngoài ngôi mộ trống. Chúa Kitô Phục sinh không xuất hiện như Đấng mà bà đã từng gặp gỡ, mà như một người làm vườn xa lạ, thế nhưng sự hiện diện của Đấng Phục Sinh đã có sứ làm bật ra một lời tuyên xưng đầy xác tín và một niềm vui khôn tả.
Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Kitô Phục Sinh mà bà Maria Mađalêna đã nhận ra dưới hình dạng của một người làm vườn xa lạ, cũng chính là Chúa Kitô Phục Sinh đang đến với chúng ta trong giây phút hiện tại. Ngôi mộ trống bà Manh Mađalêna đã thấy vào buổi sáng Phục Sinh là biểu tượng của biết bao mất mát và trống vắng, mà chúng ta đang trải qua trong cuộc sống mỗi ngày. Cũng như Maria Mađalêna, với cái nhìn hoàn toàn trần tục, chúng ta chỉ nhận thấy những trống vắng, đổ vỡ, mất mát, nhưng dối với đôi mắt dực tin, chúng ta được mời gọi để nhận những dấu chứng hiện diện của chính Đấng Phục Sinh. Người làm vườn vô danh mà Maria Mađalêna đã nhận diện được như chính Thầy chí ái của mình, là hình ảnh của mỗi người chúng ta gặp gỡ từng ngày. Trong mầu nhiệm phục sinh, mỗi tiếp xúc với tha nhân đối với chúng ta cũng phải là một gặp gỡ với Đấng Phục sinh.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Ðấng Phục Sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay. Ðể tin nhận Ngài, con người luôn làm một bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng.
Kinh Thánh trình bày việc Chúa sống lại bằng sự kiện: Chúa hiện ra với chị Maria Madalêna. Đó là ngày thứ ba sau vụ xử án đóng đinh Chúa. Các phụ nữ đã từng có mặt bên thập giá (Mc 15,47 Gio 19,25) rủ nhau đi đến mồ theo thói quen để xức thuốc thơm (Mc 16,1). Thánh sử Gioan kể Maria Madalena như một nhân vật chính. Có lẽ chị là người hoạt động nhất. Chị đến mồ khi trời còn tối (Mc 16,2: Mặt trời mọc tang tảng sáng), để thăm mộ và để tỏ ra mình còn đang chịu đại tang như phong tục ấy.
Khi đến mồ thì thấy mồ mở toang, khối đá lăn qua một bên, chị lo lắng thêm và quên hết lời Kinh thánh chính Chúa đã tiên báo cuộc Phục sinh (Mt 16,21-23. Mc 8,17-21. Mt 18,31-34) càng chìm sâu vào nỗi ưu phiền. Lập tức, chị nghĩ xác Chúa bị ăn cắp. Chị nghĩ sao người ta còn hành hạ Ngài tới tận nấm mồ nữa kia (c.13). Không tìm gì hơn nữa, Maria vụt chạy về báo cho các môn đệ (20,2). Hai môn đệ yêu dấu bỏ chạy (Gio 1,37-40) đi tới mộ. Họ là nhân chứng xác thực cho sự kiện mộ trống (Mt 27,64.28,12-15). Họ ra về mà không nói chi cho Maria cả. Chị trở lại mộ và khóc ròng (c.11). Nước mắt chị chứng tỏ lòng quyến luyến xâu xa, thương mến ngút ngàn. Nhưng đây không phải là nơi trào đổ những giọt lệ trần thế. Có thể những giọt nước mắt mờ không cho chị nhận ra Chúa Phục sinh.
Mặc dù được hai thiên sứ cho biết mà chị vẫn chưa tin được. Hai vị mặc áo trắng toát như thói quen của nhân vật thiên quốc (Mc 9,3.16,5 Sđcv 1,10. Kh 3,4) ngồi đúng nơi an táng Chúa (Lc 24,4). Dấu đó đáng lẽ đủ cho Maria hiểu việc Chúa Phục sinh, nhưng cũng như Matta khó hiểu vì em mình sống lại (Gio 11,23-24), cũng như hai môn đệ Emmau (Lc 24,16), Maria không thể nhận ra Chúa vì bà đang ở trong thửa vườn, nên chị tưởng đâu là bác làm vườn nào đó. Nhưng khi Chúa gọi đúng tên chị với giọng quen thuộc như Ngài đã gọi đúng tên Nathanael, Giakêu (Gio 1,47. Lc 19,5). Lúc ấy, Maria mắt sáng lên “Lạy Thầy” (c.16) Maria tưởng đâu Chúa trở về sống giữa họ như xưa.
Chị Maria không giấu nổi nỗi vui mừng tràn ngập, chị ôm chầm lấy chân Chúa như phong tục lúc ấy. Nhưng đây không phải là Chúa trở về mà là Chúa đến (Gal 14,3. 18,23. 1,16). Nhưng Chúa nói: “Đừng chạm vào Ta, vì Ta chưa về…” (c.17). Đây là một kiểu nói để Maria đừng bấu víu vào quan niệm về Ngài trong lãnh vực trần thế nữa. Thực ra Ngài đã về trời rồi, vì cái chết của Chúa có nghĩa là về trời, là thăng thiên.
Ngoài ra chữ “đừng chạm đến ra”, theo P. Jouen có nghĩa là mệnh lệnh truyền giáo, hãy để đó đi loan báo Tin Mừng cho anh em. Hãy chia vui cùng kẻ vui. Niềm vui được nhiều người chia sẻ càng lớn lao. Cho nên không phải là Chúa không cho phép chạm vào Chúa theo phong tục của Đông phương vì Tôma cũng đã được làm thế (Gio 20,28). Cho nên câu Chúa nói “Đừng chạm… vì Ta chưa về cùng Cha…” (c.17): Chúa chưa dứt khoát về Trời đâu, Chúa chưa bỏ trần gian ngay đâu mà lo, đừng sợ mất Ngài. Vậy hãy đi loan báo cho các tông đồ đang lúc họ tuyệt vọng trong một căn phòng đóng kín mít để họ lấy lại sức mạnh và lòng tin.
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay. Nhờ đức tin, chúng ta đã nắm được Chúa Kitô vững chắc hơn Madalêna nữa. Vậy hãy ra đi vào cuộc sống mà loan truyền sự sống của Chúa cho anh em.
2023
Chúa hiện ra với các phụ nữ
10.4 Thứ Hai trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 2:14,22-32; Tv 16:1-2,5,7-8,9-10,11; Mt 28:8-15
Chúa hiện ra với các phụ nữ
Chỉ Mathêu mới kể chuyện nay mà thôi. Theo Thánh Gioan thì Chúa Giêsu sống lại, chỉ hiện ra với một mình Mađalêna. Sự khác biệt đó có lẽ do hai nguồn kể khác nhau. Khi gặp thiên thần nơi ngôi mộ bỏtrống, các phụ nữ ra viếng mồ Chúa sợ hãi. Sợ hãi đây không chỉ là về mặt tâm lý, nhưng đây còn có ý nghĩa thần học: một cảm nghiệm siêu nhiên trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó la sự sợ hãi chúng ta đã gap thấy trong Cựu Ước của một Môsê của một Elia khi gặp Thiên Chúa.
Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và thờ lạy Người. Chúng ta có thể tưởng tượng ra được cứ chỉ và thái độ của những người phụ nữ này: họ chạy lại quì xuống ôm chân Chúa, cúi đầu thờ lạy người. Đó là cử chỉ của lòng mến và của đức tin. Họ ôm lấy chân Chúa vì không còn muốn mất Chúa một lần nữa!
Nhưng Chúa nói với họ: Hãy về báo tin cho anh em… Thầy nói cách khác: chị em phải vượt qua thái độ tâm lý nầy, đừng ôm lấy chân Thầy như thế nừa; nhugn giờ đây chị em hãy ra đi loan tin Mừng sống lại. Một trang sử mới đã bắt đầu, trang sứ rao truyền Tin Mừng. Chị em đừng sợ: Đừng sợ mất Thầy nữa, vì kể từ nay Thầy đã sống lại và hằng ở với chị em. Niềm vui phục sinh nơi chị em, phải nói cho mọi người biết.
Về báo tin cho anh em Thầy biết để họ sẽ đến Galiê: Galilê là quê hương của Chúa, hãy về nhà, hãy trở về với tâm hồn, chúng ta sẽ gặp Chúa ở đó. Nếu không gặp được Chúa trong tâm hồn thì tâm hồn ta chỉ là một ngôi mộ bỏ trống. Một ngôi mộ bỏ trống trong đêm khuya, thật là lạnh lẽo và ghê sợ. Một tâm hồn không có Chúa cũng rất đáng sợ.
Họ sẽ được thấy Thầy ở đó: họ sẽ gặp được Thầy ở đó, ở nơi người nghèo và bị khinh chê, vì Galilê bị người Do thái khinh chê, ở nơi những người còn đau khổ cách nầy hay cách khác. Và nhất là trong tâm hồn.
Sự kiện Chúa sống lại trước tiên muốn gặp các Tông Đồ, cho thấy được người bắt đầu đặt nền tảng cho Hội Thánh tiên khởi: gặp các Tông Đồ để sai các ông đi rao giảng Tin Mừng.
Trước sự kiện Chúa sống lại, hai bên cùng hối hả: một bên, các phụ nữ hối hả về báo tin cho các Tông Đồ, bên kia lính canh cũng hối hả về báo tin cho các thượng tế về sự việc đã xảy ra. Họ liền nhóm họp Thượng hội Đồng và tìm cách ém nhẹm sự việc. Họ đã gian dối chụp mũ chính trị Chúa Giêsu bằng cách tố cáo người muốn làm loạn; nay sự gian dối và chai lì của họ đã đạt tới đỉnh cao: từ chối việc Chúa sống lại. Làm như thế là họ tự loai trừ mình ra khỏi Lời Hứa. Từ nay Lời hứa được trao cho một dân mới: các Tông Đồ và những kẻ tin theo các ông, đó là Hội Thánh.
Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt. Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật. Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.
Hai ngàn năm qua và mãi mãi về sau, sứ điệp Phục Sinh vẫn tiếp tục được loan báo. Phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn. Các Tông Ðồ và những phụ nữ được Chúa hiện ra có lẽ diễm phúc hơn chúng ta. Thế nhưng, các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước việc Chúa sống lại và hiện ra. Những lính canh mồ cũng chứng kiến các điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ.
Phép lạ thiết yếu không phải là một việc phi thường, nhưng trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ khi nào con người tin nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Chúa ngự, chính là chiều theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.
Là thành viên của Dân mới, của Hội Thánh, chúng ta vui không chỉ vì Chúa sống lại, nhưng nhất là vì chúng ta cũng được phục sinh với người. Nhờ ơn Chúa, sau bao nhiêu cố gắng của Mùa chay, con người chúng ta đã được đổi mới phần nào, được phục sinh với Chúa Kitô. Bây giờ chúng ta cũng hãy ra đi loan báo Tin Mừng đó cho mọi người.
2023
Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm…
(Thánh vịnh 104,4-5)
Hôm nay là ngày thứ 5 của tuần thứ 5 mùa chay (ngày 30 tháng 3 năm 2023), tôi đến văn phòng làm việc tại cư xá sinh viên Thánh Thomas More, có trụ sở nằm đối diện với Đại học Tây Úc. Vào khoảng lúc 10 giờ ba mươi phút, tôi đi sang bên nhà nguyện để chuẩn bị mọi thứ cho thánh lễ mà tôi sẽ cử hành lúc 12 giờ trưa cho các sinh viên. Việc đầu tiên tôi làm là dọn đồ lễ, chuẩn bị bánh rượu và xem qua các bài đọc trong thánh lễ hôm nay. Tôi lướt qua bài đọc 1, trích từ sách Sáng Thế (St 17, 3-9), nói về việc Thiên Chúa thiết lập giao ước với ông Abraham, vì Chúa muốn đặt ông làm tổ phụ nhiều dân tộc.
“Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng”. Chúa lại phán cùng Abraham rằng: “Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta”. (Xem St 17, 3-9).
Sau đó, tôi đọc qua phần đáp ca, trích từ Thánh vịnh 104, từ câu 4-9, và mắt của tôi đã dán chặt trên hàng chữ: “Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm.” Chính lời này đã đáng động tôi cách mãnh liệt và muốn tôi dành thời gian để suy gẫm về những việc kỳ diệu và lạ lùng mà Chúa đã thực hiện trong cuộc đời của tôi, nhất là kể từ khi tôi rời xa mái ấm gia đình để tìm con đường tự do[1] và cho hành trình tiếp tục theo đuổi ơn gọi làm linh mục của chính mình mà tôi đã cảm nhận được khi tôi ở lứa tuổi trưởng thành.
“Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm” lời ấy mời gọi tôi và muốn tôi dành thời gian để hồi tưởng lại những gì mà Chúa đã thực hiện cho tôi trong suốt những năm tháng vừa qua. Cho nên tôi từ từ tiến đến hàng ghế đầu tiên trong ngôi nhà nguyện và ngồi ở đó, để cho tâm hồn của mình thực sự lắng đọng, và trong tư thế thinh lặng chỉ một mình tôi ngồi ở đó, tôi bắt đầu hồi tưởng lại những điều kỳ diệu và các kỳ công vĩ đại mà Chúa đã ầm thầm thực hiện nơi cuộc đời của tôi, từ khi tôi khôn lớn cho đến giây phút hiện tại. Tôi để đời mình trải ra trước mắt và ngắm nhìn những biến cố quan trọng đã xảy ra trong suốt hơn 40 năm vừa qua. Nó giống như một thước phim quay thật chậm với đầy đủ các tình tiết éo le và những pha gây cấn thật hồi hộp, khi tôi phải ẩn núp và chốn chạy sự lùng bắt của Công An và chính quyền điạ phương, bởi vì lúc đó tôi là kẻ sống ngoài vòng phạm vi của pháp luật.
Tôi không thể nào cầm được nỗi xúc động, khi tôi nghĩ đến những giây phút mà mạng sống của tôi giống như sợi chỉ treo trước mành gió. Chỉ cần một cơn gió thoảng đủ mạnh thôi, thì cũng đã cắt đứt sợi chỉ mong manh ấy, chính là sự sống của tôi. Tôi muốn ám chỉ đến hành trình vượt biên của tôi với một con tàu gỗ mong manh và nhỏ bé, tuy nhiên phải đương đầu với biết bao sóng gió và bão tố cuồng phong trong suốt hành trình vượt biên từ khi tôi rời hải phận Việt Nam cho đến khi con tàu của chúng tôi được cập bến bờ bình an tại hòn đảo Pulau Bidong, nước Mã Lai.
Đây chính là điều kỳ diệu và vĩ đại mà Chúa đã thực hiện cho tôi và cho cả 50 người khác hiện diện trên con tàu, nhờ đó mà chúng tôi đã thoát nạn và vượt qua được cái chết sờ sờ ngay trước mắt. Thực sự, đối với tôi, thì đó chính là một biến cố vĩ đại, một phép lạ cả thể mà Thiên Chúa đã thực hiện ngay trước mắt của chúng tôi, những con người đã ở trên con tàu vượt biên năm đó (1981). Cho nên, sau này mỗi khi tôi có dịp đọc lại các đoạn Thánh Kinh trong Sách Xuất Hành, ví dụ như đoạn sau đây mà tôi xin được trích dẫn (Xh 14, 5-31; 15, 1-19):
Chương 14: “Người Ai-cập đuổi theo dân Ít-ra-en
5Có tin báo cho vua Ai-cập là dân đã chạy trốn rồi. Pha-ra-ô và bề tôi liền thay lòng đổi dạ với dân. Chúng nói: “Ta đã làm gì vậy? Ta đã thả cho Ít-ra-en đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho ta!” 6Nhà vua cho thắng chiến xa và đem quân đi theo. 7Vua lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh. 8ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái Ít-ra-en, trong khi con cái Ít-ra-en đi ra, giơ tay đắc thắng. 9Quân Ai-cập, gồm toàn thể chiến mã, chiến xa của Pha-ra-ô, kỵ binh và quân lực của vua ấy, đuổi theo và bắt kịp họ, khi họ đóng trại bên bờ biển, gần Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn. 10Khi Pha-ra-ô tới gần, con cái Ít-ra-en ngước mắt lên thì thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng họ. Con cái Ít-ra-en kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu ĐỨC CHÚA. 11Họ nói với ông Mô-sê: “Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập? 12 Đó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao ? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!” 13Ông Mô-sê nói với dân: “Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc ĐỨC CHÚA làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. 14ĐỨC CHÚA sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên.”
Phép lạ tại Biển Đỏ
15ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. 16Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. 17Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. 18Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy.”
19Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống đi đằng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, 20chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. 21Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, ĐỨC CHÚA cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, 22và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 23Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en. 24Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, ĐỨC CHÚA nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. 25Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: “Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì ĐỨC CHÚA chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ.” 26ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng.” 27Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, ĐỨC CHÚA xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. 28Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót. 29Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 30Ngày đó, ĐỨC CHÚA đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển. 31Ít-ra-en thấy ĐỨC CHÚA đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ ĐỨC CHÚA, tin vào ĐỨC CHÚA, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người.
Chưong 15: Bài ca chiến thắng
1Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng ĐỨC CHÚA bài ca sau đây. Họ ca rằng:
“Tôi xin hát mừng CHÚA,
Đấng cao cả uy hùng:
Kỵ binh cùng chiến mã,
Người xô xuống đại dương.
2CHÚA là sức mạnh tôi,
là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
Người là Chúa tôi thờ,
xin dâng lời vinh chúc,
Người là Chúa tổ tiên,
xin mừng câu tán tụng.
3Người là trang chiến binh,
danh Người là ‘ĐỨC CHÚA!’
4Xa mã Pha-ra-ô,
Người xô xuống lòng biển,
tướng dũng với binh hùng
chết chìm trong Biển Sậy.
5Vực thẳm vùi lấp chúng,
chúng chìm xuống nước sâu
chẳng khác nào hòn đá.
6Lạy CHÚA, tay hữu Ngài
đã biểu dương sức mạnh.
Tay hữu Ngài, lạy CHÚA,
đã nghiền nát địch quân.
7Lấy dũng lực oai hùng,
Chúa quật ngã đối phương;
Ngài nổi cơn thịnh nộ,
thiêu chúng cháy như rơm.
8Nộ khí Ngài, lạy Chúa,
đã khiến nước dâng lên,
sóng trùng dương dồn lại
dựng đứng như tường thành ;
giữa lòng biển thẳm sâu,
nước bỗng đâu ngừng chảy.
9Địch quân tự nhủ rằng:
‘Ta đuổi theo bắt lấy,
chiến lợi phẩm đem chia,
mới no lòng thoả dạ ;
ta tuốt lưỡi gươm trần,
cứ thẳng tay tiêu diệt.’
10Ngài hà hơi nổi gió,
biển vùi lấp chúng đi,
chìm lỉm tựa như chì
giữa nước sâu cuồn cuộn.
11Ai trong bậc thần minh
được như Ngài, lạy CHÚA?
Ai sánh được như Ngài,
Đấng rạng ngời thánh thiện,
lập chiến công khủng khiếp,
làm nên việc diệu kỳ?
12Tay hữu Ngài giơ lên,
đất rẽ ra nuốt chúng.
13Còn dân đã chuộc về,
Ngài yêu thương dìu dắt,
lấy quyền lực dẫn đưa
tới đất thiêng Ngài ngự.
14Khi vừa nghe tin đó,
chư dân run lẩy bẩy ;
người xứ Phi-li-tinh
phải đớn đau quằn quại.
15Bấy giờ tại Ê-đôm,
các thủ lãnh kinh hoàng,
và quan quyền Mô-áp
đều sợ hãi khiếp run,
người xứ Ca-na-an
phải rụng rời hốt hoảng.
16Kinh hoàng và sợ hãi
ập xuống trên đầu họ.
Cánh tay hùng mạnh Ngài
làm chúng đờ như đá,
bao lâu dân của Ngài
vẫn còn đang qua biển,
lạy CHÚA chúng con thờ,
bao lâu dân Ngài tậu
vẫn còn đang qua biển.
17Ngài cho dân tiến vào,
định cư họ trên núi,
núi gia nghiệp của Ngài.
Lạy CHÚA, chính nơi đây
Ngài chọn làm chỗ ở,
đây cũng là đền thánh
tự tay Ngài lập nên.
18CHÚA là vua hiển trị
đến muôn thuở muôn đời.”
19Khi chiến mã của Pha-ra-ô cùng với chiến xa và kỵ binh tiến vào biển, ĐỨC CHÚA cho nước biển ập xuống trên họ, còn con cái Ít-ra-en thì đi giữa lòng biển khô cạn.
Mỗi khi tôi đọc lại các đoạn Thánh Kinh như vậy, tôi luôn có một cảm giác mừng vui và phấn khởi. Lòng tôi tràn ngập niềm hân hoan và hạnh phúc, vì tôi xác tín rằng: chính cánh tay uy quyền và dung lực của Thiên Chúa đã cứu vớt tôi. Ngài đã đưa tôi từ thung lũng của sự chết đến miền đất nhân sinh và cho tôi có một cơ hội để sống sót và làm lại cuộc đời của mình. Chính vì lẽ đó, mà hôm nay khi tôi có dịp để suy gẫm và ôn lại những việc lạ lùng và hết sức kỳ diệu mà Chúa đã thực hiện cho tôi. Lòng tôi không thể nào không bồi hồi và thổn thức, và tôi muốn dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ và tri ân thật sâu thẳm, từ đáy lòng của tôi để bày tỏ sự biết ơn về những gì mà Chúa đã đoái thương và ban cho tôi, nhất là Ngài cho tôi một cơ hội sống còn và cho tôi có cái may mắn được tiếp tục và đeo đuổi ơn gọi làm linh mục của chính mình, đó là giấc mơ lớn lao của cuộc đời tôi.
Lạy Chúa, có lẽ trưa hôm nay, đây là lần đầu tiên mà con mới có dịp khám phá ra ý nghĩa sâu sắc của từng lời trong bài thánh ca: “ĐẾN MUÔN ĐỜI… con cảm tạ ơn Chúa.” Do linh mục Đàm Ninh Hoa sáng tác.[2] Con muốn mượn lời của bài hát này để dâng lên Chúa những tâm tình và cảm xúc mà ngay trong giây phút này, con đang cảm nhận được. Con muốn hòa chung giọng hát của mình với các anh chị em ca sĩ để tán dương và ngợi khen Thiên Chúa, đồng thời con cũng muốn nói lên tấm lòng tri ân thật thẳm sâu của con đối với Chúa, vì chính Ngài đã cứu vớt con và cho con có được như ngày hôm nay.
Ôi, lạy Chúa, Ngài qủa là vị Thiên Chúa oai hùng và đầy lòng nhân ái. Tình thương của Chúa trải dài từ đời này qua đời kia, từ thế hệ này sang thế hệ khác… Ngài vẫn luôn một mực tín trung với giao ước mà Ngài đã ký kết với chúng con.
Xin ca khen tình yêu Chúa đến muôn đời.
Thành phố Perth, Thứ 5 ngày 30 tháng 3 năm 2023
Lm Phêrô Trần Mạnh Hùng
[1] . Tác phẩm The Search for Freedom: Memoir of a Vietnamese Refugee in Australia – Đi tìm tự do: hồi ký của người Việt tị nạn tại Úc Châu, viết bởi Linh mục Trần Mạnh Hùng sẽ được ra mắt vào tháng 7 năm 2023.
[2] . Đến Muôn Đời. Sáng tác do Lm Đàm Ninh Hoa. Ca sĩ Triệu Yến trình bày. https://www.youtube.com/watch?v=L7b7BV1elAo