2023
Đức tin rất cần thiết
12.8
Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Tám Mùa Quanh Năm
St 6:4-13; Tv 18:2-3,3-4,47,51; Mt 17:14-20
Đức tin rất cần thiết
Tin mừng thuật lại, sau khi Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Chúa Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám, các môn đệ tiến lại gần và hỏi: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy ?” Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Chúa Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn vẹn thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong, có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xảy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn chữa con người khỏi mọi bệnh tật, nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.
Mục sư Martin Luther nói: “Đức tin cho phép chúng ta nắm giữ trong tay những điều chúng ta không thấy được”.
Đức tin biến đổi chúng ta từ người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa. Đức tin làm cho những việc tầm thường trở thành những việc có giá trị phi thường. Đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào những điều dường như không thể lý giải. Đức tin cũng chính là điều kiện cần thiết, để Chúa Giêsu làm phép lạ cứu chữa người bệnh. Việc Chúa Giêsu chữa bệnh kinh phong cho em bé trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình về sức mạnh của lòng tin. Thật vậy, chính nhờ lòng tin vững vàng của người cha mà em bé được chữa lành.
Con người dễ mắc phải cám dỗ cậy vào sức riêng và do đó dễ gặp thất bại trong đời sống. Chính các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ đó. Thật vậy, sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Ngài, Chúa Giêsu muốn các ông xuống núi, trở về với những vấn đề của cuộc sống. Ngài muốn các ông nhận thức giới hạn của mình khi để các ông thất bại trong việc trừ quỉ câm. Trước đây nhờ quyền năng Chúa các ông đã xua trừ được nhiều quỷ. Có lẽ các ông bắt đầu quên điều đó, quên rằng mình chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi các ông nhận thức rõ sự bất lực của mình, Chúa đã giải thích cho các ông biết rằng để thành công, các ông cần có đức tin dù chỉ là đức tin nhỏ bé, cần gắn bó với Chúa, và theo nhiều bản Tin mừng bổ túc, cần phải cầu nguyện và ăn chay.
Như hạt cải trổ thành cây lớn, đức tin đích thực dù ở khởi điểm còn ở mức độ nhỏ, nhưng rồi sẽ phát triển thêm thành cây lớn. Hơn nữa, chúng ta cũng nên lưu ý điều này là sự phát triển không tự động cách máy móc, cần có sự cộng tác của đương sự với ơn Chúa, để phát triển đức tin thêm nữa cho đến mức độ trưởng thành và sự cộng tác này được củng cố bằng lời cầu nguyện và việc ăn chay. Đây có thể là bài học Chúa Giêsu nhắc khéo cho các môn đệ khi Ngài phán: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay, cầu nguyện”.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.
Thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người”. Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.
2023
Hạnh phúc chính là Thập giá đời mình
11.8
Thánh Clare, Đt
St 4:32-40; Tv 77:12-13,14-15,16,21; Mt 16:24-28
Hạnh phúc chính là Thập giá đời mình
Thánh nữ Clara sinh vào khoảng năm 1193 tại thành Assisi, nước Ý. Thánh Phanxicô Assisi cũng sống tại thành phố này. Clara thường nghe Phanxicô thuyết giảng. Trái tim Clara bừng lên niềm khao khát mãnh liệt là muốn bắt chước tấm gương của Phanxicô.
Như Phanxicô, Clara cũng muốn sống cuộc đời nghèo khó và khiêm nhường vì Chúa Chúa Giêsu. Nhưng khổ nỗi song thân của Clara không bao giờ chấp nhận một dự định như vậy! Thế rồi, vào một buổi tối Chúa nhật Lễ Lá năm 1212, lúc vừa tròn 18, Clara đã rời bỏ gia đình thân thương và mái nhà sang trọng của mình. Và trong một nguyện đường bé nhỏ nằm bên ngoài thành phố Assisi, Clara đã dâng hiến mình cho Thiên Chúa. Thánh Phanxicô cắt mái tóc dài của Clara và trao cho Clara một tu phục nâu kết bằng vải thô. Clara ở với các sơ Bênêđictô cho tới khi có nhiều chị em cùng đến tham gia với ngài. Song thân của Clara đã cố gắng dùng mọi phương thế để bắt Clara về nhà nhưng không được. Chẳng bao lâu sau đó, cả Annê, cô em 15 tuổi của Clara, cũng đến xin gia nhập với ngài.
Cũng có nhiều thiếu nữ muốn trở nên những “phu nhân nghèo” của Đức Chúa Giêsu. Sau đó ít lâu, người ta thấy hình thành một cộng đoàn đạo đức nhỏ. Họ sống trong căn nhà tọa lạc gần bên nhà thờ thánh Đamianô, căn nhà được chính thánh Phanxicô Assisi sửa lại. Thánh nữ Clara và các chị em của ngài đã khấn không bao giờ ăn thịt, luôn đi chân không, sống trong căn nhà nghèo khó với bầu khí thinh lặng và cầu nguyện.
Tuy nhiên, họ rất hạnh phúc vì được sống cuộc đời nghèo khó như Đức Chúa Giêsu. Lần kia, có một đội quân hung hãn đã tiến vào công phá thành Assisi. Dù đau nặng, thánh nữ Clara cũng nài xin chị em đưa mình tới cửa sổ. Thánh nữ cho đặt Mình Thánh Chúa ngay tại nơi các binh lính có thể trông thấy. Sau đó, thánh nữ Clara quỳ xuống và nài xin Thiên Chúa ra tay cứu thoát các nữ tu và thành phố. Thánh nữ nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy bảo vệ những chị em này, những người mà giờ đây con không thể bảo vệ nổi!” Và dường như có một tiếng nói bên trong phát ra: “Ta sẽ luôn gìn giữ chúng trong sự quan phòng của Ta!” Ngay lúc ấy, một sự sợ hãi thình lình giáng xuống trên kẻ địch, và họ đã nhanh chân rời bỏ thành phố.
Thánh nữ Clara làm bề trên hội dòng được 40 năm, trong đó suốt 29 năm chịu bệnh. Nhưng thánh nữ nói rằng dầu sao cũng rất vui vì được phục vụ Đức Chúa Giêsu. Một số người lo ngại rằng các nữ tu sẽ bị khổ vì phải sống quá nghèo. Nhưng thánh nữ Clara đã sống hầu hết đời mình để bảo vệ điều mà ngài gọi là “đặc ân thanh bần.” Đức thánh cha đã cố gắng giảm bớt những đòi hỏi của lời khấn thanh bần trong tu luật của Clara, nhưng thánh nữ đã giải thích rằng ngài và các chị em thuộc hội dòng của ngài được mời gọi sống từ khước hết mọi của cải, và chỉ hoàn toàn tin cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Thánh nữ Clara về trời ngày 11 tháng Tám năm 1253. Chỉ hai năm sau, đức thánh cha Alêxanđơ IV đã tôn phong Clara lên bậc hiển thánh.
Thập giá đời mình chính là những lao công khó nhọc, những vui buồn – sướng khổ, những thất bại – thành công, những nụ cười – nước mắt, những lúc nắng – lúc mưa, những lúc xum vầy – chia xa…
Thập giá làm nên hạnh phúc, vinh quang của con người.
Sinh ra trên trần gian, ai cũng như ai: ăn để sống, lao động để phát triển. Người giàu hay kẻ nghèo, không ai cho ai hạnh phúc, cũng không ai lấy hạnh phúc của người cho chính mình. Hạnh phúc phải được tôi luyện, trả giá bằng chính đời sống của mình.
Vác thập giá mình, chính là chu toàn bổn phận, trách nhiệm của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng phải vui tươi, tín thác vào Chúa. Chúng ta phải nhìn nhận cuộc sống của chúng ta chính là món quà quý giá mà chính Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người, tuỳ theo khả năng. “Có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí” (1 Cr 12, 4). “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người” (Rm 12, 6).
Như vậy, chúng ta mỗi người ai cũng có một thập giá cho riêng mình, thập giá ấy Chúa ban cho mỗi người vừa đủ với sức của mình.
Bất kỳ một biểu hiện thất vọng, u buồn, buông thả, chán chường, tức giận, buồn tủi, cô đơn, sa đoạ, so sánh hơn thua, tự mãn, kiêu căng… đều là dấu hiệu của vấp ngã trên đường vác thập giá mình.
Chính lúc chúng ta không vác thập giá đời mình là lúc chúng ta đang đau khổ, bất hạnh.
Sự tin tưởng, vui tươi, phó thác vào Thiên Chúa chính là động lực mãnh liệt để ta vác thập giá đời mình. Thập giá tôi luyện mỗi cuộc đời con người.
Trong chúng ta, có mấy người đã vác thập giá mình một cách trọn vẹn! với bổn phận làm con, làm cha, làm mẹ, làm ông bà… đã chẳng một lần muốn buông bỏ thập giá đời mình.
Dấu hiệu của sự buông bỏ thập giá mình luôn kèm theo một câu “NẾU”. nếu như chồng tôi, nếu như vợ tôi, nếu như hoàn cảnh đời tôi, nếu tôi được như thế này, thế kia… câu nếu này đã chối bỏ ân ban thập giá của Chúa.
Nhiều người muốn đi tìm thập giá đời mình bằng những hội đoàn đạo đức: họ xem hội đoàn đạo đức là nơi họ sẽ nên thánh, nhưng khi họ tham gia vào rồi thì một thời gian lại chán bỏ; bỏ hết hội đoàn này rồi tham gia hội đoàn khác. Chẳng có hội đoàn nào chu toàn được bổn phận. Đó chỉ là đi kiểm niềm vui theo sở thích, hết niềm vui thì hết hội đoàn.
Có những người chẳng cần hội đoàn nào, họ lo tìm kiếm làm việc bác ái. Nhưng rồi khả năng tiền bạc, thời gian chẳng có, việc làm bác ái cũng chẳng đâu vào đâu. Họ trở nên người nhàn rỗi mà không biết làm gì.
Như vậy, thập giá đời mình chính là ân sủng Chúa ban cho mỗi người tuỳ theo khả năng. Chúng ta chỉ cần chu toàn khả năng Chúa ban là đã vác thập giá mình mọi ngày theo Chúa. Khả năng ấy như những nén bạc Chúa trạo cho mỗi người. Kẻ năm nén, kẻ ba nén và kẻ một nén. Hãy sinh lợi cho Chúa bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, chúng ta sẽ được sự sống vĩnh hằng, hạnh phúc viên mãn trong Nước Chúa.
2023
Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu
10.8 Thánh Lôrensô, Tstđ
Ds 20:1-13; Tv 95:1-2,6-7,8-9; Mt 16:13-23
Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Laurensô là ai mà được tôn kính cách đặc biệt như vậy ?
Thánh Laurensô sinh tại Huescô nước Tây Ban Nha. Cha mẹ ngài là những người đạo hạnh. Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để đi du học bên Rôma và đã sống trót cuộc đời trần thế tại đây. Ngài được chọn thành một trong bảy phó tế của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm “quản lý tài sản của giáo hội”.
Khi sự cấm đạo dưới thời hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Laurensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi: “Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?”. Ðức giáo hoàng trả lời: “Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta.” Nghe thấy thế, Laurensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.
Khi những điều này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn khôi hài nói với hoàng đế:
– Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn!
Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 258.
Thánh Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo Hội, hết lòng yêu thương người nghèo. Xin cho mỗi chúng ta cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân. Trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu thiệt thòi về phần xác.
Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người Kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần hành qua các khu phố trước khi đến Núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử dụng để treo chính các tội nhân.
Tin Mừng hôm nay là lời ông Phêrô được Chúa Cha mạc khải khi tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Có phải nếu truyền thống của gia đình chúng ta theo đạo, mặc nhiên Chúa sẽ ban cho chúng ta sự mạc khải ấy? Theo Ga 6, 65: “Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” Trong thực tế, chúng ta đã bao lần đến với Thiên Chúa vì lòng yêu mến, phải chăng chúng ta chỉ đến với Ngài những lúc đứng trước gian nan thử thách và khi đã vượt qua được thử thách ấy, liệu chúng ta có can đảm tuyên xưng đức tin của mình trước những người xung quanh mình như ông Phêrô đã từng làm. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “dù anh em ăn, uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh danh Thiên Chúa” (1 Cr 10, 31 ).
Khi Chúa Giê-su cho các tông đồ biết việc phải lên Giê-ru-salem để thực hiện ý muốn của Chúa Cha là khởi sự cho công cuộc Cứu độ, ông Phê-rô vì yêu mến Thầy mình không muốn Thầy phải hy sinh nên đã can gián: “ Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”. Chúng ta thấy được bản chất con người, là luôn có cách nhìn và xử sự của đời sống trần thế là tránh né những việc gì làm tổn thương đến mình và người thân yêu. Ai trong chúng ta cũng muốn tin theo Chúa Giêsu để được vào Nước Trời, nhưng để có được sự sống đời đời thì phải trải qua sự đau khổ, hy sinh thì con người lại dè dặt, ngay cả tông đồ Phêrô cũng có lúc ở trong tâm trạng đó.
Chúa Giêsu chê trách Phê-rô: “ Xatan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Lời Chúa cảnh tỉnh người Ki-tô hữu hiểu rằng trước khi sống lại và được vào Nước Trời thì phải chấp nhận thập giá, vì không có thập giá sẽ không có vinh quang Phục sinh. Chân phước G.M Balaguer chia sẻ: “Thập giá, phiền muộn, gian truân, bạn còn có mãi suốt cuộc đời. Đó là đường Chúa đi, và môn đệ không hơn Thầy.” Kinh nghiệm của thánh Anphongsô: “Nhìn vào Chúa Giê-su trên Thánh giá, ta sẽ chịu mọi đau khổ cách nhẫn nại”.
Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo. Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế nhưng điểm chính yếu của Tin Mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Ðời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Ðấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải đươc tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: “Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô”.
Thập giá đang được vẽ lại dưới muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác Thập giá với những người đang bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang sống trong chúng ta.
Xin cho Lời Chúa và sức sống của Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn kiên vững và an vui.
2023
Sống Niềm Tin
9.8 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Tám Mùa Quanh Năm
Ds 13:1-2,25; Ds 14:1,26-29,34-35; Tv 106:6-7,13-14,21-22,23; Mt 15:21-28
Sống Niềm Tin
Người đàn bà ngoại giáo, có đứa con đau yếu đã đến tìm gặp Chúa Giêsu. Lần thứ nhất bà kêu xin, nhưng Ngài đã thinh lặng khiến các môn đệ phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà kêu xin, thì bị Chúa Giêsu trả lời: Đừng lấy bánh của con cái mà ném cho chó. Thế nhưng bà vẫn không mất lòng cậy trông khi thưa cùng Chúa: Lạy Thầy, nếu như vậy thì con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống chứ. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và đã làm phép lạ cho con bà được khỏe mạnh.
Từ câu chuyện này chúng ta rút ra được một bài học, một thái độ sống giữa những khổ đau và bất hạnh, giữa những gian nguy và thử thách chúng ta gặp phải giữa lòng cuộc đời. Như chúng ta đã biết: đau khổ và thử thách là như một cái gì gắn liền với thân phận con người: thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì. Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Hai lần Chúa Giêsu dự định không làm phép lạ, nhưng rồi Ngài đã thay đổi ý định vì niềm tin và lời khẩn khoản của người xin. Một lần do lời cầu xin của Đức Maria tại tiệc cưới Cana, và lần khác trong bài Tin Mừng hôm nay. Cũng như người đàn bà xứ Canaan, ta không xứng đáng để Chúa ban ơn, cũng chẳng có quyền đòi Ngài làm phép lạ. Điều ta có thể làm và phải làm, là tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, xác tín tình thương của Ngài, và đặt trọn niềm hy vọng nơi Ngài. Chắc chắn ánh mắt Chúa rạng rỡ niềm vui khi thấy quyết tâm sắt đá, niềm hy vọng tha thiết, cũng như tinh thần lạc quan tin tưởng của người đàn bà ngoại giáo này.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta, những người luôn tin tưởng và cậy trông vào Chúa thì những khổ đau chúng ta chịu sẽ không kéo dài quá thời gian cuộc sống chúng ta. Chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ chấm dứt. Người giầu và kẻ nghèo rồi thì cũng phải chết, cũng như ông phú hộ và người ăn xin tên là Lagiarô. Thế nhưng sau cái chết là cuộc sống đời đời, là tương lai vĩnh cửu sẽ mở ra cho chúng ta tùy theo như những việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”.
Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
Lòng tin của bà còn mạnh mẽ vì nỗi đau của con chính là nỗi đau của bà, nên bà xin Thầy dủ lòng thương “tôi”, van xin cho chính bà. Lúc Thầy ra như làm ngơ, thì các môn đệ lên tiếng làm Thầy lưu tâm giải quyết vấn đề. Ước gì ngày nay chúng con cũng trở thành cầu nối kết, để Chúa thực hiện những ơn lành cho người khác cần được quan tâm và nâng đỡ. Lúc đó mọi khó khăn được giải gỡ an ổn tốt đẹp, khi có động lực kéo ơn Chúa xuống trên con người.
Có lẽ Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy lòng tin đáng nể nơi người ngoại và hiểu tình yêu thương đại đồng của Thiên Chúa dành cho hết thảy mọi người, kể cả dân ngoại mà họ đang muốn loại trừ. Dọc dài theo Tin Mừng, ta thấy Người vẫn luôn yêu thương thi ân, chúc lành, đề cao, khen ngợi những người ngoại.