2023
Tin và làm chứng về Chúa Phục Sinh
13.4
Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 3:11-26; Tv 8:2,5,6-7,8-9; Lc 24:35-48
Tin và làm chứng về Chúa Phục Sinh
Tin Mừng thuật lại các lần Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ. Đoạn Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay là phần tiếp theo câu chuyện xảy ra với hai môn đệ người làng Emmaus.
Sau khi gặp Chúa Phục sinh, hai ông trở lại Giêrusalem gặp nhóm 12 và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Chính những người này bảo hai ông: “Thật, Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon” (Lc 24, 33-34).
Chắc chắn các ông còn đang thao thao bàn tán về việc Đức Giêsu, Thầy các ông đã phục sinh, thì Đấng Phục sinh đã hiện ra với mọi người hiện diện ngay trong phòng.
Ấy vậy mà các ông tưởng Ngài là ma!
Để khẳng định cho các ông biết chính Ngài đã phục sinh [và không phải là ma], Chúa Giêsu đã cho các ông xem những vết thương; thậm chí Ngài còn ngồi ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ.
Hôm nay, Tin Mừng thánh Luca trình thuật nỗi sợ hãi bao trùm lên các Tông đồ, mặc dù các ông đang được hai môn đệ trên đường Emmaus báo tin Chúa đã sống lại và đã hiện ra với các ông.
Nỗi sợ hãi của các môn đệ càng dâng lên tột độ khi thấy Đức Giêsu hiện ra và đứng giữa các ông.
Biết được tâm lý nơi môn sinh của mình, nên sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã hiện ra với các ông và câu đầu tiên Ngài ban cho các ông là: “Bình an cho anh em”.
Đây là lời trấn an, sau hàng loạt những ngày đen tối trong lo âu sợ hãi…
Khi ban bình an cho các ông, Chúa Giêsu muốn gạt đi nơi họ lòng sợ hãi đến tự ty, sự ngờ vực đến thất vọng… và khơi gợi lên trong lòng họ niềm tin và sự gắn bó với sứ vụ mà Ngài sắp trao phó.
Cũng từ đây, Chúa Giêsu đã khai mở lòng trí để họ nhớ lại những đoạn Kinh Thánh đã nói trước về Ngài cũng như sứ vụ cứu chuộc mà Ngài đã thi hành.
Chính niềm vui và bình an của Chúa phục sinh đã làm cho các môn đệ quên hết sợ hãi và lo lắng, vì thế, các ông đã sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, bất chấp mọi gươm đao hay đầu rơi máu đổ. Hơn nữa, các ngài còn coi những đau khổ đó là phần thưởng Chúa ban. Điều này đã được sách Công Vụ Tông Đồ nghi lại: “Chúng tôi vui mừng hân hoan vì thấy mình xứng đáng được chịu khổ vì Đức Kitô”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa. Trở thành nhân chứng của Ngài khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Nhưng trước hết, chúng ta phải có được sự bình an của Chúa trong tâm hồn, để đẩy lui những lo lắng, sợ hãi, bực bội, tức giận, hận thù, ganh ghét, kiêu ngạo…, có thế, chúng ta mới trở nên chứng nhân của Chúa cách đúng nghĩa.
Niềm tin vào Chúa phục sinh quả là không được chấp nhận một cách dễ dàng ngay từ đầu. Và việc sau đó các Tông đồ tin cho thấy các ông đã được chính Đấng Phúc sinh khuất phục với những lần hiện ra và với những bằng chứng không thể phủ nhận.
Vâng, được củng cố niềm tin bởi những lần Chúa hiện ra; được sức mạnh Thánh Thần thúc đẩy, các Tông đồ đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Phêrô và Gioan đã nói với các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ Do thái: “Chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe” (Cv 4, 20). Bài đọc thứ I hôm nay, Phêrô và Gioan nói với dân chúng: “Đấng ban sự sống mà anh em giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3, 15).
Là Kitô hữu, chúng ta tin Đức Kitô là Thiên Chúa làm Người, đã chịu chết, sống lại để cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, niềm tin của chúng ta thường rất non yếu. Rất nhiều lần, ta không cảm nhận sự hiện diện của Chúa Phục sinh ở giữa chúng ta. Biết bao lần chúng ta được chạm đến Chúa, được rước Người vào lòng; vậy mà thử hỏi ta đã ý thức thực sự Chúa phục sinh vẫn đang hiện diện và ở cùng chúng ta không? …
Vì không ý thức Chúa Phục sinh hiện diện nên khi gặp khó khăn trong cuộc sống và trong sứ vụ, ta dễ chán nản; vì không ý thức Chúa Phục sinh hiện diện, nên ta cũng chẳng mạnh dạn làm chứng về Chúa Phục sinh cho người khác!
2023
Tin để thấy
12.4 Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 3:1-10; Tv 105:1-2,3-4,6-7,8-9; Lc 24:13-35
Tin để thấy
Trong đoạn Kinh thánh này, thánh Lu-ca đã thâu tóm lại vào buổi chiều phục sinh tất cả các việc xảy ra suốt bốn mươi ngày từ ngày phục sinh đến ngày Chúa Giê-su lên trời. Thực vậy, mười một tông đồ chỉ có thể dần dần “lãnh hội được đầy đủ sứ điệp phục sinh”
Đối với những kẻ thấy Người họ tưởng là ma, Chúa Giê-su đã cho họ xem những lỗ đinh đóng ơ chân tay Người. Đối với kẻ quá vui mừng khi thấy Thầy thật rồi, Chúa Giê-su cho họ cùng ăn uống với Người. Đối với kẻ coi cuộc thương khó là gương mù, gương xấu Người giải thích Thánh kinh để họ nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với kẻ còn do dự, Người đòi họ trở nên nhân chứng rao giảng Tin mừng từ thành Giê-ru-sa-lem cho đến cùng cõi trái đất.
Tin Đức Giê-su không phải là đặc ân riêng cho mình, mà chính là ơn gọi làm chứng về Tin mừng đến mọi nơi. Mỗi cuốn Tin mừng đều biểu lộ cho người ta thấy nhiệm vụ chính thức của các tông đồ và của Giáo hội là rao giảng Tin mừng “và có thể chỉ một đoạn nhỏ Tin mừng cũng đủ trình bày tổng quát về ý nghĩa mầu nhiệm phục sinh” (A. George). Chúa Giê-su lên trời để Chúa Thánh Thần hiện xuống soi sáng cho những chứng nhân của Người thiết lập.
Đức tin của chúng ta phải thành ơn gọi thúc đẩy chúng ta vượt ra khỏi những vấn đề cá nhân để tiến sâu vào sứ mệnh phổ biến ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần luôn linh ứng hướng dẫn Giáo hội, nhưng chính chúng ta chậm trễ theo ơn Ngài, chính những cánh buồm tâm hồn chúng ta không mở căng ra. Các mầu nhiệm nói về các vết thương Đức Ki-tô như những môi miệng kêu gọi tình yêu của kẻ đã nhận biết. Chúng ta sẽ lấy gì, làm gì để tỏ lòng mến Thiên Chúa ? Chịu lấy những vết thương hằn sâu trong hy sinh để thành chứng nhân của Đức Ki-tô, hay chỉ coi đó là những nhãn mác lòe loẹt ngoài mặt thôi ?
Trong khi chờ đợi Chúa lại đến, chúng ta phải sống âm thầm dấn thân mạo hiểm nhiều, chứ không chỉ giải những đáp số, nhưng chịu trách nhiệm săn sóc chăm lo cho chính bản thân mình và anh em mình. Khi đức Giê-su hiện đến, Người chỉ hỏi một điều giản dị : “Các con có gì ăn không ?”. Đối với chúng ta phải sống cuộc đời tạm bợ, phải làm việc mò mẫm luôn, phải kiếm ăn vất vả nặng nhọc … không phải là những chứng nhân diễn kịch cho khán giả coi, nhưng là gợi lên ý nghĩa hy sinh tử đạo . . .
Hằng ngày, chúng ta có dịp chia sẻ, trò chuyện, giao tiếp và trao đổi với nhau về rất nhiều đề tài. Từ việc làm ăn đến việc học hành, từ việc thể thao đến việc giải trí, từ đề tài sức khỏe đến việc chăm sóc gia đình… Nhưng có bao giờ chúng ta trao đổi với nhau về Lời Chúa và sự sống thiêng liêng không? Hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra, đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, Người hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Có lẽ họ trao đổi với nhau về sự thất vọng của cuộc sống, về dự định tương lai… Và chắc chắn họ trao đổi với nhau về Chúa Giêsu, về những “thất bại” của Người khiến họ buồn và buông xuôi. Họ từng sống với Chúa Giêsu nhưng họ không tin vào lời hứa của Chúa để dẫn đến kết quả tệ hại này.
Bước ngoặt thay đổi là khi Chúa Giêsu xuất hiện và trao đổi với họ về Thánh Kinh, trao đổi với họ về niềm tin và tín thác, và cuối cùng là trao đổi về việc bẻ bánh – Bí tích Thánh Thể. Qua việc trao đổi quan trọng này, hai môn đệ hoàn toàn thay đổi và thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, đặc biệt là biết làm thế nào để hiện tại và tương lai có giá trị hơn…
Tin vào Chúa Giêsu không phải là một đặc quyền để rồi giữ lấy cho riêng mình, đấy là môt lời kêu gọi ta loan báo Tin Mừng đến khắp nơi. Trong mỗi cuốn Phúc âm đều có một sự tỏ mình có thể gọi là chính thức đối với nhóm Mười Một và tạo điều kiện cho tương lai Giáo hội. “Đây không phải là một tường thuật cho bằng một bảng trình bày tổng hợp về ý nghĩa của toàn bộ mầu nhiệm phục sinh” Chúa Giêsu có thể trở về trời, Thánh Thần đã được hứa cho những người mà Ngài đặt làm chứng nhân. Đức tin của chúng ta có chăng cái chiều kích của lời kêu gọi khiến chúng vượt qua những vấn đề cá nhân mình hầu đi vào một sứ mạng cứu độ phổ quát ? Thánh Thần vẫn luôn thổi hơi vào Giáo hội; chính chúng ta là người chậm trễ, chính những cánh buồm của chúng ta chưa được kéo lên. Những nhà thần bí nói về các thương tích của Chúa Kitô như những cái miệng thét lên tình yêu của Đấng mang thương tích ấy. Chúng ta có gì để trình ra khi đến trước Thiên Chúa? Những danh hiệu và huy chương bên ngoài hay những vết sẹo hằn sâu của những chứng nhân?
Trong khi chờ đợi, chúng ta phải sống với nguy cơ đối diện với nhiều điều mình chưa biết… chúng ta không có bổn phận phải giải mọi phương trình; chúng ta chỉ có bổn phận quan tâm đến bản thân và anh em mình. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài hỏi điềư đơn giản nhất: “Các con có gì ăn không?”. Chúng ta phải sống trong cái bấp bênh; làm việc thường thường trong mò mẫm, cực nhọc đặt lương thực trên bàn… từ ngữ chứng nhân không có nghĩa là khán giả, đôi khi nó gợi ra ý nghĩa của tử đạo…
Thánh Gian tông đồ, ngay từ giây phút đầu tiên khi nhận thấy ngôi mộ trống, đã tuyên xưng rằng mình đã thấy và đã tin. Thánh nhân đã muốn truyền lại cho chúng ta nguyên tắc nền tảng trong quan hệ với Chúa Kitô Phục Sinh, đó là tin để thấy. Đây là nguyên tắc được Chúa Giêsu đề cao như một lời chúc phúc khi Ngài nói với thánh Tôm tông đồ: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Không thấy mà tin hoặc tin để được thấy đây chính là cảm nghiệm về Đấng Kitô Phục Sinh, mà ngày nay các kitô hữu được mời gọi nếm trải trong cuộc sống hàng ngày. Quả thật, một niềm tin đích thực luôn cho chúng ta thấy và cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Giữa những mất mát và khổ đau, một mềm tin đích thực luôn cho phép và thúc đẩy chúng ta tiếp tục tin yêu và hy vọng. Giữa ích kỷ hận thù. một niềm tin đích thực luôn mời gọi chúng ta tiếp tục sống quảng đại, yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được sự bình an trong tâm hồn, như phần thưởng Chúa dành cho những ai tin để được thấy và cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài.
2023
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay
11.4 Thứ Ba trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 2:36-41; Tv 33:4-5,18-19,20,22; Ga 20:11-18
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay
Trong Tin mừng hôm nay, thánh Gioan mời gọi chúng ta đi vào tâm tình của Maria Mađalêna, người phụ nữ được diễm phúc nhận ra Chúa ngay trong buổi sáng đầu tiên đi viếng mộ.
Sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà Maria Mađalêna cảm nhận được không phải là một sự hiện diện khả giác, nhưng chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể nhận ra Ngài. Ngài muốn để cho ai nhận ra Ngài, và nhận ra khi nào là tùy ý muốn của Ngài, do đó, mầu nhiệm Phục Sinh là đối tượng của niềm tin hơn là những lý chứng. Đây là cảm nghiệm mà Maria Mađalêna có được vào buổi sáng ngày Phục sinh: bà không thấy gì ngoài ngôi mộ trống. Chúa Kitô Phục sinh không xuất hiện như Đấng mà bà đã từng gặp gỡ, mà như một người làm vườn xa lạ, thế nhưng sự hiện diện của Đấng Phục Sinh đã có sứ làm bật ra một lời tuyên xưng đầy xác tín và một niềm vui khôn tả.
Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Kitô Phục Sinh mà bà Maria Mađalêna đã nhận ra dưới hình dạng của một người làm vườn xa lạ, cũng chính là Chúa Kitô Phục Sinh đang đến với chúng ta trong giây phút hiện tại. Ngôi mộ trống bà Manh Mađalêna đã thấy vào buổi sáng Phục Sinh là biểu tượng của biết bao mất mát và trống vắng, mà chúng ta đang trải qua trong cuộc sống mỗi ngày. Cũng như Maria Mađalêna, với cái nhìn hoàn toàn trần tục, chúng ta chỉ nhận thấy những trống vắng, đổ vỡ, mất mát, nhưng dối với đôi mắt dực tin, chúng ta được mời gọi để nhận những dấu chứng hiện diện của chính Đấng Phục Sinh. Người làm vườn vô danh mà Maria Mađalêna đã nhận diện được như chính Thầy chí ái của mình, là hình ảnh của mỗi người chúng ta gặp gỡ từng ngày. Trong mầu nhiệm phục sinh, mỗi tiếp xúc với tha nhân đối với chúng ta cũng phải là một gặp gỡ với Đấng Phục sinh.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Ðấng Phục Sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay. Ðể tin nhận Ngài, con người luôn làm một bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng.
Kinh Thánh trình bày việc Chúa sống lại bằng sự kiện: Chúa hiện ra với chị Maria Madalêna. Đó là ngày thứ ba sau vụ xử án đóng đinh Chúa. Các phụ nữ đã từng có mặt bên thập giá (Mc 15,47 Gio 19,25) rủ nhau đi đến mồ theo thói quen để xức thuốc thơm (Mc 16,1). Thánh sử Gioan kể Maria Madalena như một nhân vật chính. Có lẽ chị là người hoạt động nhất. Chị đến mồ khi trời còn tối (Mc 16,2: Mặt trời mọc tang tảng sáng), để thăm mộ và để tỏ ra mình còn đang chịu đại tang như phong tục ấy.
Khi đến mồ thì thấy mồ mở toang, khối đá lăn qua một bên, chị lo lắng thêm và quên hết lời Kinh thánh chính Chúa đã tiên báo cuộc Phục sinh (Mt 16,21-23. Mc 8,17-21. Mt 18,31-34) càng chìm sâu vào nỗi ưu phiền. Lập tức, chị nghĩ xác Chúa bị ăn cắp. Chị nghĩ sao người ta còn hành hạ Ngài tới tận nấm mồ nữa kia (c.13). Không tìm gì hơn nữa, Maria vụt chạy về báo cho các môn đệ (20,2). Hai môn đệ yêu dấu bỏ chạy (Gio 1,37-40) đi tới mộ. Họ là nhân chứng xác thực cho sự kiện mộ trống (Mt 27,64.28,12-15). Họ ra về mà không nói chi cho Maria cả. Chị trở lại mộ và khóc ròng (c.11). Nước mắt chị chứng tỏ lòng quyến luyến xâu xa, thương mến ngút ngàn. Nhưng đây không phải là nơi trào đổ những giọt lệ trần thế. Có thể những giọt nước mắt mờ không cho chị nhận ra Chúa Phục sinh.
Mặc dù được hai thiên sứ cho biết mà chị vẫn chưa tin được. Hai vị mặc áo trắng toát như thói quen của nhân vật thiên quốc (Mc 9,3.16,5 Sđcv 1,10. Kh 3,4) ngồi đúng nơi an táng Chúa (Lc 24,4). Dấu đó đáng lẽ đủ cho Maria hiểu việc Chúa Phục sinh, nhưng cũng như Matta khó hiểu vì em mình sống lại (Gio 11,23-24), cũng như hai môn đệ Emmau (Lc 24,16), Maria không thể nhận ra Chúa vì bà đang ở trong thửa vườn, nên chị tưởng đâu là bác làm vườn nào đó. Nhưng khi Chúa gọi đúng tên chị với giọng quen thuộc như Ngài đã gọi đúng tên Nathanael, Giakêu (Gio 1,47. Lc 19,5). Lúc ấy, Maria mắt sáng lên “Lạy Thầy” (c.16) Maria tưởng đâu Chúa trở về sống giữa họ như xưa.
Chị Maria không giấu nổi nỗi vui mừng tràn ngập, chị ôm chầm lấy chân Chúa như phong tục lúc ấy. Nhưng đây không phải là Chúa trở về mà là Chúa đến (Gal 14,3. 18,23. 1,16). Nhưng Chúa nói: “Đừng chạm vào Ta, vì Ta chưa về…” (c.17). Đây là một kiểu nói để Maria đừng bấu víu vào quan niệm về Ngài trong lãnh vực trần thế nữa. Thực ra Ngài đã về trời rồi, vì cái chết của Chúa có nghĩa là về trời, là thăng thiên.
Ngoài ra chữ “đừng chạm đến ra”, theo P. Jouen có nghĩa là mệnh lệnh truyền giáo, hãy để đó đi loan báo Tin Mừng cho anh em. Hãy chia vui cùng kẻ vui. Niềm vui được nhiều người chia sẻ càng lớn lao. Cho nên không phải là Chúa không cho phép chạm vào Chúa theo phong tục của Đông phương vì Tôma cũng đã được làm thế (Gio 20,28). Cho nên câu Chúa nói “Đừng chạm… vì Ta chưa về cùng Cha…” (c.17): Chúa chưa dứt khoát về Trời đâu, Chúa chưa bỏ trần gian ngay đâu mà lo, đừng sợ mất Ngài. Vậy hãy đi loan báo cho các tông đồ đang lúc họ tuyệt vọng trong một căn phòng đóng kín mít để họ lấy lại sức mạnh và lòng tin.
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay. Nhờ đức tin, chúng ta đã nắm được Chúa Kitô vững chắc hơn Madalêna nữa. Vậy hãy ra đi vào cuộc sống mà loan truyền sự sống của Chúa cho anh em.
2023
Chúa hiện ra với các phụ nữ
10.4 Thứ Hai trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 2:14,22-32; Tv 16:1-2,5,7-8,9-10,11; Mt 28:8-15
Chúa hiện ra với các phụ nữ
Chỉ Mathêu mới kể chuyện nay mà thôi. Theo Thánh Gioan thì Chúa Giêsu sống lại, chỉ hiện ra với một mình Mađalêna. Sự khác biệt đó có lẽ do hai nguồn kể khác nhau. Khi gặp thiên thần nơi ngôi mộ bỏtrống, các phụ nữ ra viếng mồ Chúa sợ hãi. Sợ hãi đây không chỉ là về mặt tâm lý, nhưng đây còn có ý nghĩa thần học: một cảm nghiệm siêu nhiên trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó la sự sợ hãi chúng ta đã gap thấy trong Cựu Ước của một Môsê của một Elia khi gặp Thiên Chúa.
Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và thờ lạy Người. Chúng ta có thể tưởng tượng ra được cứ chỉ và thái độ của những người phụ nữ này: họ chạy lại quì xuống ôm chân Chúa, cúi đầu thờ lạy người. Đó là cử chỉ của lòng mến và của đức tin. Họ ôm lấy chân Chúa vì không còn muốn mất Chúa một lần nữa!
Nhưng Chúa nói với họ: Hãy về báo tin cho anh em… Thầy nói cách khác: chị em phải vượt qua thái độ tâm lý nầy, đừng ôm lấy chân Thầy như thế nừa; nhugn giờ đây chị em hãy ra đi loan tin Mừng sống lại. Một trang sử mới đã bắt đầu, trang sứ rao truyền Tin Mừng. Chị em đừng sợ: Đừng sợ mất Thầy nữa, vì kể từ nay Thầy đã sống lại và hằng ở với chị em. Niềm vui phục sinh nơi chị em, phải nói cho mọi người biết.
Về báo tin cho anh em Thầy biết để họ sẽ đến Galiê: Galilê là quê hương của Chúa, hãy về nhà, hãy trở về với tâm hồn, chúng ta sẽ gặp Chúa ở đó. Nếu không gặp được Chúa trong tâm hồn thì tâm hồn ta chỉ là một ngôi mộ bỏ trống. Một ngôi mộ bỏ trống trong đêm khuya, thật là lạnh lẽo và ghê sợ. Một tâm hồn không có Chúa cũng rất đáng sợ.
Họ sẽ được thấy Thầy ở đó: họ sẽ gặp được Thầy ở đó, ở nơi người nghèo và bị khinh chê, vì Galilê bị người Do thái khinh chê, ở nơi những người còn đau khổ cách nầy hay cách khác. Và nhất là trong tâm hồn.
Sự kiện Chúa sống lại trước tiên muốn gặp các Tông Đồ, cho thấy được người bắt đầu đặt nền tảng cho Hội Thánh tiên khởi: gặp các Tông Đồ để sai các ông đi rao giảng Tin Mừng.
Trước sự kiện Chúa sống lại, hai bên cùng hối hả: một bên, các phụ nữ hối hả về báo tin cho các Tông Đồ, bên kia lính canh cũng hối hả về báo tin cho các thượng tế về sự việc đã xảy ra. Họ liền nhóm họp Thượng hội Đồng và tìm cách ém nhẹm sự việc. Họ đã gian dối chụp mũ chính trị Chúa Giêsu bằng cách tố cáo người muốn làm loạn; nay sự gian dối và chai lì của họ đã đạt tới đỉnh cao: từ chối việc Chúa sống lại. Làm như thế là họ tự loai trừ mình ra khỏi Lời Hứa. Từ nay Lời hứa được trao cho một dân mới: các Tông Đồ và những kẻ tin theo các ông, đó là Hội Thánh.
Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt. Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật. Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.
Hai ngàn năm qua và mãi mãi về sau, sứ điệp Phục Sinh vẫn tiếp tục được loan báo. Phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn. Các Tông Ðồ và những phụ nữ được Chúa hiện ra có lẽ diễm phúc hơn chúng ta. Thế nhưng, các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước việc Chúa sống lại và hiện ra. Những lính canh mồ cũng chứng kiến các điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ.
Phép lạ thiết yếu không phải là một việc phi thường, nhưng trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ khi nào con người tin nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Chúa ngự, chính là chiều theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.
Là thành viên của Dân mới, của Hội Thánh, chúng ta vui không chỉ vì Chúa sống lại, nhưng nhất là vì chúng ta cũng được phục sinh với người. Nhờ ơn Chúa, sau bao nhiêu cố gắng của Mùa chay, con người chúng ta đã được đổi mới phần nào, được phục sinh với Chúa Kitô. Bây giờ chúng ta cũng hãy ra đi loan báo Tin Mừng đó cho mọi người.