2023
Sự nguy hiểm của tiền bạc
30.5 Thứ Ba trong tuần thứ Tám Mùa Quanh Năm
Hc 35:1-12; Tv 50:5-6,7-8,14,23; Mc 10:28-31
Sự nguy hiểm của tiền bạc
Sự nguy hiểm của tiền bạc đã làm cho người thanh niên có tiếng là đạo đức lầm lũi ra đi, vì tiền của anh ở đâu thì lòng anh ở đó!
Thật là một sự xót xa cho số phận chàng thanh niên giàu có này! Thấy được sự nguy hiểm như vậy, nên tiếp theo đó, Đức Giêsu đã thốt lên với các môn đệ: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”; “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.
Nghe đến đây, các môn đệ hiểu được sự nguy hiểm của tiền của, tuy nhiên, nó đã làm cho các ông hoang mang, bởi vì khó như thế thì có lẽ không ai vào được! Vì vậy, Phêrô đã đứng lên thay lời anh em và thưa với Đức Giêsu rằng: “Thế thì ai có thể được cứu?”; “Và chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy thì được gì?”. Để giải thoát cho các ông về sự lo lắng này, Đức Giêsu đã mặc khải cho các ông biết: đối với loài người thì không thể làm được, nhưng đối với Thiên Chúa thì hoàn toàn có thể. Vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải đến từ cố gắng hay phấn đấu thuần túy của con người. Nhân đây, Đức Giêsu cũng nói rõ để các môn đệ nhận ra những ân huệ mà Chúa ban cho những ai trung thành với Ngài, đó là sự sống đời sau.
Chúa Giêsu hứa sẽ trọng thưởng cho những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Phần thưởng cao quý ấy không phải vật chất hay những gì có thể nắm giữ nhưng là được chung phần đau khổ và vinh quang cùng với Chúa. Sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sức cám dỗ của tiền bạc khiến người ta không thể vào Nước Trời, các môn đệ cảm thấy chạnh lòng vì đã bỏ gia đình vợ con để đi theo Chúa mà không biết cuộc sống tương lai sẽ ra sao, bao nhiêu công sức đổ ra sẽ nhận được gì? Các ông tỏ ra là người biết tính toán lo xa, nhưng các ông chỉ nhìn thấy những điều hữu hạn, còn Chúa Giêsu hướng đến những giá trị thiêng liêng bền vững.
Cái nhìn của loài người luôn khác xa với cái nhìn của Thiên Chúa. Loài người có cái nhìn nhỏ hẹp, còn Thiên Chúa luôn có cái nhìn quảng đại bao dung. Thiên Chúa luôn tạo cho con người nhiều cơ hội tốt, mở ra nhiều lối đi để dẫn đưa họ tới nguồn hạnh phúc đích thực.
Phần thưởng của Thiên Chúa không gì có thể so sánh được. Nhưng để đạt được phần thưởng ấy đòi hỏi các môn đệ phải có thái độ khiêm tốn. Những ai đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và những ai đứng chót sẽ được nâng lên.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng thường bỏ qua những điều chính yếu nhưng lại nắm giữ những cái lặt vặt phụ thuộc. Chúng ta thường tính toán với Chúa khi đi tham dự thánh lễ, khi làm việc lành phúc đức. Chúng ta giữ đạo vì thói quen hơn là vì lòng yêu mến. Chúng ta làm việc từ thiện, phục vụ người nghèo để khoe khoang đánh bóng tên mình hơn là để chia sẻ tình yêu thương.
Trước đó, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ rằng: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao…Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 23.25). Điều này để nhấn mạnh thêm rằng “khó” không có nghĩa là “không thể” nhưng có nghĩa là phải cố gắng nhiều, có khi phải trả giá bằng những hy sinh. Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng, Người có thể tạo dựng mọi sự từ hư không. Vì yêu thương nên Người cho chúng ta tự do chọn lựa, Người không ép buộc nhưng ban ân sủng để chúng ta khôn ngoan sáng suốt nhận ra kế hoạch yêu thương của Người.
Có nhiều vật cản khiến chúng ta không vào được Nước Trời. Vật cản đó có thể là thói tham lam muốn có nhiều tiền, thói ươn hèn lười biếng, nhát đảm kém tin không dám trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt. Vật cản đó có thể là tội lỗi, những đam mê xác thịt kéo ghì chúng ta xuống. Có rất nhiều lý do khiến chúng ta từ chối viên ngọc Nước Trời. Biết bao cám dỗ khiến chúng ta không dám đánh đổi vận mạng của mình để có sự sống đời đời. Chúng ta thường có thái độ “bỏ hình bắt bóng”, tìm kiếm thứ hạnh phúc mau qua chóng tàn mà quên đi hạnh phúc vững bền.
Có một người đàn ông đi hành đạo. Đường đi phải qua một con sông lớn nhưng ông không có bất kỳ phương tiện nào. Sau một hồi suy nghĩ, ông quyết định đi nhặt các cành cây rồi kết lại thành một chiếc bè đơn giản. Để chiếc bè nổi trên mặt nước, ông dùng hai bàn tay làm mái chèo. Cuối cùng ông cũng qua được bờ bên kia.
Nhưng vừa bước chân lên bờ, ông băn khoăn nhìn chiếc bè và tự hỏi: – Mình đã vất vả mới làm được chiếc bè này, bỏ đi thì tiếc quá, hay là mình kéo chiếc bè theo?
Chiếc bè chỉ là phương tiện giúp người ta qua sông an toàn chứ không phải cái để nắm giữ. Nếu cứ nuối tiếc nắm giữ chiếc bè, người đàn ông trên sẽ không thể tiếp tục hành trình.
Chúa Giêsu cho chúng ta một nguyên tắc căn bản đó là: bỏ nhưng không mất, cho đi là nhận lại, muốn có sự sống thì phải chết đi cho thói tham lam ích kỷ, phải từ bỏ ý riêng của mình để chọn thi hành theo ý Chúa. Trên bước đường theo Chúa, chúng ta phải có thái độ dứt khoát, không ước mơ hão huyền nhưng phải gắn với quyết tâm và việc làm cụ thể. Một khi đã chọn Chúa thì không làm nô lệ cho tiền bạc hay bất cứ vật thể con người nào.
Trong đời sống đức tin, Chúa Giêsu muốn chúng ta trao vận mệnh tương lai của mình để cho Chúa dẫn dắt. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về sự từ bỏ và vâng phục khi thi hành ý muốn của Chúa Cha. Trong giây phút quyết liệt trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao hiến và đổ đến giọt máu cuối cùng để tác sinh nhân loại trong sự sống mới. Sự vâng phục và trao hiến ấy chạm đến tận cùng bản thể của một Vị Thiên Chúa đầy lòng xót thương để dẫn đưa con người vào nguồn sống đích thực.
Nhiều lần chúng ta cũng tự hỏi như thánh Phêrô: – Tôi theo Chúa, sống đạo để được gì? Trong khi thế gian lừa lọc dối trá, tôi sống nghiêm túc thật thà ngay thẳng, chấp nhận thiệt thòi bất công để được gì? Tôi sống yêu thương bác ái để được gì trong khi những người khác chỉ ích kỷ lo cho bản thân mình.
Thật là một nghịch lý khi chúng ta giữ cặn kẽ các điều luật của Chúa mà lại sống thiếu bác ái với tha nhân. Chúng ta bằng lòng với việc giữ tỉ mỉ các điều luật ngoại trừ luật bác ái. Chúng ta sẵn sàng gân cổ bênh vực công lý nhưng lại bỏ qua những nhu cầu cần thiết của tha nhân.
Cuộc sống xã hội hôm nay còn nhiều người nghèo khổ, nhiều gia đình rơi vào cảnh bế tắc, chúng ta được mời gọi ra khỏi tháp ngà của sự yên ổn và ích kỷ để đến với tha nhân. Thiên Chúa không chỉ ở trong đền đài thành quách, nhưng Người đang bị kỳ thị chống đối nơi những vùng đất chìm trong chiến tranh khủng bố. Thiên Chúa không chỉ hiện diện nơi những đại lộ thẳng tắp tinh tươm sạch sẽ, nhưng Người đang co ro ẩn mình nơi góc phố với những người nghèo không nhà không cửa. Thiên Chúa không ở nơi lễ hội cờ hoa đình đám, nhưng Người âm thầm ẩn giấu nơi những con người khiêm tốn bé nhỏ nghèo hèn.
Ước gì mỗi kitô hữu chúng ta biết đến với Chúa và với tha nhân bằng cả con tim yêu mến, cảm nhận niềm vui sâu xa trong tâm hồn khi thi hành luật Chúa và quảng đại hiến dâng đời mình để phục vụ tha nhân. Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta một phần thưởng cân xứng lớn hơn những gì ta cầu xin. Phần thưởng đó không phải vật chất bên ngoài nhưng là sự gắn kết gần gũi với Thiên Chúa trong niềm vui và nỗi buồn, trong khổ đau và hạnh phúc, trong thập giá và vinh quang.
2023
Từ bỏ tận căn
29.5 Thứ Hai trong tuần thứ Tám Mùa Quanh Năm
Hc 17:19-27; Tv 32:1-2,5,6,7; Mc 10:17-27
Từ bỏ tận căn
Trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi khuyên anh thanh niên bán hết tài sản mà cho người nghèo rồi đến theo mìnhnhưng bị từ chối, Đức Giê-su đã nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” Xét một cách tổng quát thì không một con lạc đà nào có thể chui qua lỗ kim được. Điều này có nghĩa là không một người giàu nào có thể vào được Thiên Đàng. Nhưng trên thực tế, nhiều nhà quý tộc và ngay cả một số vị vua, hoàng tử… cũng được Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô suy tôn lên bậc hiển thánh. Như vậy, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta điều gì khi tuyên bố điều đó?
Thật ra, tiền bạc cũng chỉ là những thụ tạo vật chất. Chúng không phải là thần thánh và tự nó cũng chẳng thể ban ơn cứu độ cho ai hay làm cho ai mất ơn cứu độ. Nhưng có chăng là thái độ của mỗi chúng ta đối với chúng mà thôi.Người ta vẫn thường nói: “Tiền bạc là một ông chủ xấu nhưng lại là một đầy tớ tốt”. Thật thế, nếu ta biết sử dụng tiền bạc một cách đúng đắn, biết đặt để cho chúng một vị trí thích hợp và biết làm chủ chúng thì chúng cũng có thể tỏ ra là một cái gì đó tốt đẹp. Chúng không những không gây hại cho ta mà còn giúp ta sống tốt đời đẹp đạo và lập được nhiều công phúc trước mặt Chúa nữa. Trái lại, nếu ta quá say mê tiền bạc và để chúng xỏ mũi và điều khiển chúng ta thì thật là tai hại cho đời sống trần thế cũng như đời sống đức tin của mỗi chúng ta. Thật ra, tiền bạc chẳng có lý trí và cũng chẳng có sức mạnh đủ để có thể dẫn dụ một ai. Nhưng nhiều người vẫn gục ngã dưới tay của nó là bởi họ tình nguyện “hạ mình”làm người tôi tớ tôn thờ và phục vụ nó.
Sự giàu có mà Chúa Giêsu nói tới ở đây không chỉ căn cứ trên tổng số tài sản của một người nhưng còn dựa trên thái độ sống của người đó nữa. Khi nghe câu Lời Chúa: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”, lắm lúc ta cảm thấy dường như Chúa đang nói đến người khác vì mình vẫn là một người nghèo. Đôi khi ta lại cảm thấy an toàn hơn một số người khác vì ta chưa phải là một người giàu có.
Nhưng không chừng, những người mà ta nghĩ là họ ít cơ hội vào Thiên Đàng hơn chúng ta lại có thể vào Nước Thiên Đàng trước chúng ta. Bởi số tài sản mà ta có cũng không nguy hiểm cho bằng thái độ giàu có của mỗi chúng ta. Có thể chúng ta không có nhiều tài sản nhưng vẫn là những người giàu có khi sống với một thái độ tự mãn, tự kiêu, tự coi mình là trên hết mà không cần biết đến ai kể cả Thiên Chúa.Sự giàu có này thật là nguy hiểm vì nó làm ta cảm thấy mình quá đầy đủ đến nỗi không cần dựa vào một ai kể cả Thiên Chúa. Và như thế, ta khước từ lòng nhân hậu, tình thương và ơn cứu độ Chúa dành sẵn cho ta. Như vậy, với thái độ sống giàu có, ta tự đóng của Nước Trời và tự loại mình ra khỏi những người được Chúa kêu gọi.
Tiền bạc tự nó không xấu mà cũng chẳng tốt. Điều quan trọng là chúng ta cần sống với một thái độ thanh thoát và làm chủ được chúng. Nếu không, chúng sẽ trở nên nguồn tai hại và là những sợi dây vô hình trói buộc ta. Nó khiến ta không thể đáp trả tiếng Chúa mời gọi và lôi kéo chúng ta ngày một xa Ngài hơn.
Người khôn ngoan theo lối hiểu của Kinh Thánh chính là khám phá ra ý nghĩa của cuộc đời, biết đặt cuộc đời mình trong thánh ý của Thiên Chúa chứ không phải tiền bạc, danh vọng và lợi thú… Biết tìm đến với kho tàng vĩnh cửu, chứ không bám víu và phụ thuộc vào những thứ mau qua, chóng hết ở đời.
Hôm nay, có một chàng thanh niên tốt lành đến để gặp Đức Giêsu nhằm xin Ngài chỉ cho con đường dẫn đến hạnh phúc. Thấy thế, Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến và mời gọi anh đi theo mình trên con đường mà chính Ngài đang đi. Tuy nhiên, khi buộc phải để lại mọi sự cho người nghèo thì anh đã không dám và từ từ rút lui!
Như vậy, ơn cứu độ đã đến được với anh thanh niên này, nhưng anh đã để mất bởi sự tham lam, ích kỷ của mình. Anh ta đã coi tiền bạc, của cải là số một trong cuộc đời của anh, nên chính Chúa cũng không còn chỗ đứng nơi tâm hồn người thanh niên đáng thương này thì làm sao ơn cứu độ có thể đến được!
Tình yêu của người thanh niên chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô có nói: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ tin vào Chúa mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.
Tinh yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quà quyết: “Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn”. Tình yêu sẽ thúc đẩy ta phải làm một cái gì đó cụ thể, một cái gì đó anh chị em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh chị em.
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa”. Đây là kiểu nói Á Đông, diễn tả một việc rất khó. Đức Giêsu đã tông dự bữa tiệc sang trọng của người Biệt phấi giàu có. Từng ăn uống tại nhà người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những người phụ nữ nhân đức nhiều của.
Vậy, Ngài chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra vđi anh chị em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt bậc thang giá trị, và biết lựa chọn đúng để được hạnh phúc đời đời. Hãy cẩn trọng với vấn đề tiền bạc vì tiền bạc có thể sẽ là rào cản lớn chắn đường về trời nếu nó trở thành ông chủ.
Nếu bao lâu chúng ta vẫn còn chạy đua với đồng tiền, bất chấp mọi thủ đoạn để chiếm lĩnh, hay sống ích kỷ, dửng dưng với người nghèo khổ, thì bấy lâu lời mời gọi đánh đổi kho báu Nước Trời sẽ là lời mời gọi xa lạ với chúng ta.
2023
Mẹ khả ái của Giáo Hội
Mẹ khả ái của Giáo Hội.
Đức Maria luôn là Mẹ khả ái của Giáo Hội, là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta:
Dù ta đi suốt cuộc đời,
Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
Dù ta đi trọn kiếp người,
Cũng không đi hết những lời mẹ khuyên.
Mẹ hằng cầu xin tuôn đổ tràn đầy ân sủng Chúa Thánh Thần và hướng dẫn nhắn nhủ các môn đệ và dân Chúa tới gần Chúa Giêsu hơn.
Công Đồng Vaticanô II trong hiến Chế Lumen Gentium sau khi tuyên bố Đức Maria là “thành viên trổi vượt” là “kiểu mẫu” và ‘gương sáng” của Giáo Hội, Công Đồng dạy tiếp: “Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu (LG 53).
Khi mô tả những tình cảm con thảo của mình, Giáo Hội nhìn nhận Đức Maria là người Mẹ yêu quý nhất của mình, gián tiếp tuyên bố người là Mẹ Giáo Hội, vì những lý do sau:
– Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi nhận làm Mẹ Chúa Giêsu: “Đức Maria, với tư cách là Mẹ Đức Kitô cũng là Mẹ của tất cả mọi tín hữu và các chủ chăn, nghĩa là Mẹ Giáo Hội” (Đức Phaolô VI).
– Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô: “Đây là con Bà… Đây là mẹ con” (Ga 19,26-27).
– Mẹ là Mẹ Giáo Hội khi ở nhà Tiệc Ly, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính toà Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử toạ như sau: “Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?” Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: “Thưa Cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”.
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: “Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria”. Liền sau đó, cử toạ liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v…
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nối tiếp: “Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn nói thêm về Đức Maria…”. Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: “Tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria…”.
Tước hiệu nói lên tương quan mẫu tử của Đức Maria với Giáo Hội.
Tước hiệu này ít được sử dụng trong quá khứ, nhưng mới đây trở nên phổ biến hơn trong những công bố của huấn quyền Giáo Hội và trong sự sùng kính của dân Kitô hữu. Đầu tiên, người tín hữu kêu cầu Đức Maria với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, “Mẹ tín hữu” hay là “Mẹ chúng con” để nhấn mạnh tới tương quan với từng đứa con của mình.
Về sau, do sự chú ý nhiều hơn tới mầu nhiệm Giáo Hội và mối tương quan của Đức Maria với Giáo Hội, nên Đức Trinh Nữ Rất Thánh bắt đầu được kêu cầu thường hơn là “Mẹ Giáo Hội”.
Trước Công Đồng Vat. II, kiểu nói này được huấn quyền Đức Lêo XIII sử dụng, quả quyết rằng Đức Maria “đúng thật là Mẹ Giáo Hội” (Acta Leonis XIII, 15, 302). Tước hiệu này về sau được sử dụng nhiều lần trong các bài giảng của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI.
Cho dù tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” được gán cho Đức Maria mới đây thôi, nhưng tước hiệu ấy lại diễn tả tương quan mẫu tử giữa Đức Trinh Nữ Rất Thánh và Giáo Hội như nhiều bản văn Tân ước đã chứng minh.
Khởi từ ngày Truyền Tin, Đức Maria đã được kêu mời thuận ý khai mở Vương quốc cứu thế mà sau này sẽ xuất hiện với sự hình thành của Giáo Hội (Lc 2, 26-35).
Tại Cana (Jn 2, 2-11), khi xin Con mình thi hành quyền năng cứu thế của Người, Đức Maria đã góp phần cơ bản vào việc ghi dấu đức tin trong cộng đoàn các môn đệ đầu tiên và hợp tác trong việc khai mở Nước Chúa, một nước đặt “mầm giống” và “khởi điểm” nơi Giáo Hội (LG 5).
Trên Núi Sọ (Jn19, 27-27), Đức Maria kết hợp với hy lễ của Con và đã góp phần hợp tác mẫu tính của mình vào công trình cứu chuộc dưới hình thức của cơn đau đẻ, sinh ra nhân loại mới.
Khi nói lời: “Thưa Bà, nầy là con Bà” Đấng chịu đóng đinh tuyên bố Người là Mẹ không những đối với tông đồ Gioan mà còn với tất cả các môn đệ. Chính tác giả Tin mừng, khi nói Chúa Giêsu chết “để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11, 52), đã chỉ rõ sự sinh ra Giáo Hội như là hoa quả của hy lễ cứu chuộc mà Đức Maria đã kết hợp với mẫu tính.
Về điểm này chúng ta cùng nhau chiêm ngắm sâu hơn về mẫu tính của Mẹ dưới chân Thập giá.
Chính lúc Đức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Đức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Đức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Thánh sử Luca nhắc tới sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 1, 14; 2, 3-4). Như vậy Thánh sử nhấn mạnh vai trò người mẹ của Đức Maria trong Giáo Hội mới sinh; bằng cách so sánh vai trò đó với vai trò của Người khi sinh ra Đấng Cứu Thế. Chiều kích Mẹ như thế trờ thành một yếu tố cơ bản trong tương quan của Đức Maria với Dân mới được cứu chuộc.
Căn cứ theo Kinh Thánh, giáo huấn của các giáo phụ nhìn nhận chức làm Mẹ của Đức Maria trong công trình Chúa Kitô và do đó, trong công trình của Giáo Hội.
Theo thánh Irênê, Đức Maria “trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho toàn dòng giống loài người” (PG 7, 959), và lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ “tái sinh người ta trong Thiên Chúa” (PG 7, 1080). Điều đó được thánh Ambrôsiô lặp lại: “Một Trinh Nữ đã sinh ra Đấng cứu rỗi cho thế gian, một Trinh Nữ đã mang đến sự sống cho mọi sự” (PL 16,1198), và nhiều giáo phụ khác cũng lập lại khi gọi Đức Maria “Mẹ của sự cứu rỗi”.
Thời trung cổ, thánh Anselmô thưa với Đức Maria thế này: “Mẹ là Mẹ của sự công chính hoá và cả những kẻ được công chính hoá, là Mẹ sự hoà giải và cả những kẻ được hoà giải, là Mẹ sự cứu rỗi và cả những kẻ được cứu rỗi” (PL 158, 957), còn nhiều tác giả khác lại gán cho Người tước hiệu “Mẹ ân sủng” và “Mẹ sự sống”.
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội”
Như thế tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của người tín hữu Kitô, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống, thì thật chính đáng khi tuyên bố Người là Mẹ Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn Công Đồng Vaticanô II tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, của người tín hữu và các mục tử của họ”. Chính Đức Giáo Hoàng thực hiện điều đó khi đọc bài diễn văn bế mạc khoá thứ 3 Công Đồng (21.11.1964), Người cũng bảo: “từ nay toàn thể dân Kitô hữu hãy tôn kính và kêu cầu Đức Trinh Nữ Rất Thánh với tước hiệu này”.
Tâm tình con thảo
Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận: Ngay từ thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học sinh nào quá quắt như mày”. Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống”. Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng cướp, bị treo cổ trên dây”.
Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’. Với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.
Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các gia đình”.
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của cộng đoàn Dân Chúa, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống… và là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta.
2023
Hãy theo Thầy
27.5 Thứ Bảy trong tuần thứ Bảy Mùa Phục Sinh
Cv 28:16-20,30-31; Tv 11:4,5,7; Ga 21:20-25
Hãy theo Thầy
Thế giới này có khoảng 7 tỷ người nhưng mỗi người có một vẻ và một đời sống khác biệt nhau. Chúng ta chỉ có một điểm chung duy nhất là được Chúa yêu thương vì đã cho chúng ta được hiện hữu trên trái đất này. Vì thế, mọi sự xảy đến với chúng ta đều là cơ hội để chúng ta đáp trả lại tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay, Thánh Phêrô đã được trao nhiệm vụ cao cả là trông coi Giáo Hội. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng báo trước thập giá thánh nhân phải vác để làm chứng cho Thầy. Khi thấy môn đệ được Chúa yêu đến gần, ông cũng muốn biết rồi người môn đệ này sẽ ra sao? Có giống như ông không? Chúa Giêsu đã cho ông biết điều quan trọng hơn là hãy theo Chúa, đừng bận tâm đến những chuyện khác làm chi.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta gặp phải những khó khăn, thử thách. Chúng ta dễ dàng so sánh cuộc đời mình với những người xung quanh, rồi cho mình khổ hơn người này, nghèo khó hơn người kia… Khi đó, chúng ta cảm thấy Chúa không còn thương mình nữa hay tự than vãn đời quá khổ! Thế nhưng chúng ta đâu có biết rõ người anh em xung quanh chúng ta cũng có những thánh giá phải vác, thậm chí thánh giá của họ còn nặng nề và sần sùi hơn của chúng ta nữa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta “Phần anh, hãy theo Thầy”. Chúa muốn chúng ta hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng vì biết rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta dù lúc đó chúng ta chưa thể nhận ra được điều đó nhưng sau này, chúng ta sẽ hiểu “việc Thầy bây giờ anh chưa hiểu nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13,7)
“Hãy theo Thầy” lời mời gọi này xuất phát từ tình yêu của Chúa Giêsu, Ngài muốn chúng ta cũng được hưởng vinh quanh cùng với Ngài trên Thiên Đàng. Chính vì thế, chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa, vác thập giá, khó khăn hằng ngày để bước theo Chúa với tất cả niềm cậy trông phó thác.
Tông đồ Gioan là “môn đệ Chúa Giêsu thương mến” (Ga 13,23; 19,26; 20,2; 21,7), người đã ngả đầu vào ngực Chúa trong bữa Tiệc ly (x. Ga 13,23.25) như là biểu tượng của tình yêu gắn bó với Thầy.
Được gắn bó sâu sắc với Thầy, Gioan có được đức tin mạnh mẽ cho con đường đặc biệt mà Thầy chuẩn bị và muốn ông đi: Không đổ máu làm chứng cho Chúa dù đã kề cận bên cái chết tử đạo: Người bị cầm tù ở Rôma, còn bị ném vào trong một vạc dầu sôi, nhưng Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an vô sự. Sau đó, Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải huyền chứa đầy những lời tiên tri.
Theo ý muốn của Chúa Giêsu, Gioan đã đi trên con đường khác với các anh em tông đồ: rao giảng Tin Mừng ở các giáo đoàn bên Tiểu Á, tận dụng hết mọi khả năng, mọi điều kiện Chúa cho để đào sâu Lời Chúa. Khi đã 99 tuổi, thánh Gioan mới viết sách Tin Mừng thứ tư với đức tin thật vững chắc được chuẩn bị và nuôi dưỡng bằng tình yêu. Gioan đã loan báo Tin Mừng cả tâm hồn đầy xác tín, như ông đã nói: “Điều chúng tôi đã được tai nghe, điều chúng tôi đã nhìn tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời hằng sống” (1Ga 1,1) như ông đã xác định cuộc đời của mình: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật…” (Ga 21,24-25).
Đời mỗi người Kitô hữu là một ơn gọi theo Chúa. Ta hãy đáp lại ơn gọi yêu thương đó tùy theo bậc sống trong hoàn cảnh riêng của mình, với niềm phó thác cậy trông vào Chúa.
Ta thấy tất cả mọi người được kêu gọi để theo Chúa. Có những bậc sống khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại có từng hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người là mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng phận người mà dắt đi theo Chúa. Chúa đang nói với mỗi người chúng ta: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa đang dẫn ta đi theo Chúa bằng lối đi Chúa dành riêng cho ta.
Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa về số phận của Thánh Gioan, Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì đến con, phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa không bảo con đừng quan tâm đến anh chị em quanh con. Khi thấy anh em cần nâng đỡ đức tin, Chúa muốn con chạy tới đóng vai bàn tay của Chúa để đỡ nâng họ. Con sẽ đỡ nâng bằng gương sáng, bằng một lời động viên, bằng một lời nhắc nhở, và nhất là bằng những lời cầu nguyện. Rồi khi con gặp thử thách, con tin Chúa sẽ lại dùng anh chị em quanh con thay mặt Chúa mà ủi an, động viên con.
Tuy nhiên, Chúa muốn nói với riêng ta: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa dạy tan đừng phân bì ghen tỵ. Xin Chúa đừng để ta so sánh phận mình với phận người mà chùn bước chân theo Chúa. Ta biết mỗi đời người là một mầu nhiệm trong tình yêu quan phòng của Chúa. Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với Chúa. Mỗi đời người đều có đủ thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người đều được Chúa ban đủ niềm vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho con”.