2023
Đừng bưng tai bịt mắt
20.9 Thánh Andrê Kim, Lmtđ, Phaolô Chong, và các Bạn Tử Đạo
1 Tm 3:14-16; Tv 111:1-2,3-4,5-6; Lc 7:31-35
Đừng bưng tai bịt mắt
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Andrê Kim và Thánh Phaolô Chung cùng các bạn tử đạo tại Giáo Hội Đại Hàn.
Phải nói Giáo Hội Đại Hàn đã được bắt đầu như một phép lạ. Nói theo cái nhìn của Chúa Giêsu thì Giáo Hội đó được bắt đầu như một hạt cải nhỏ bé nhưng bây giờ nó đã lớn lên, lớn lên mạnh mẽ và oai hùng trước sự kinh ngạc vả cảm phục của nhiều người.
Nào có ai ngờ được rằng chỉ có một người. Người đó tên là Li Sung Hung. Người ta gọi Li Sung Hung là một học giả. Li Sung Hung đã đến Bắc Kinh năm 1784. Li Sung Hung được học đạo và rửa tội tại đây. Sau khi được trở thành một Kitô hữu, Li Sung Hung thấy mình là người được hạnh phúc. Li Sung Hung đã không muốn một mình vui hưởng niềm hạnh phúc đó. Li Sung Hung muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho đồng bào ruột thịt trên quê hương đất nước của mình. Thế là chỉ với một ít sách báo, tài liệu hiếm hoi, Li Sung Hung đã lên đường về nước rồi với nhiệt tình nóng bỏng truyền giáo, Li Sung Hung đã làm cho ngọn lửa Đức tin được bùng cháy lên.
Việc làm lúc đầu tưởng chừng chỉ là đơn độc và khó lan truyền, thế nhưng như lời Chúa tiên báo ngọn lửa đó đã bùng cháy lên.
Một Giáo Hội đã được thành hình. Không linh mục, thậm chí không có một nhà truyền giáo, chỉ có một giáo dân, rồi từ từ lan toả, từ từ lớn lên, bất chấp mọi trở ngại, bất chấp mọi khó khăn nhất là những hiểu lầm lúc khởi đầu.
Rồi ngay sau đó, nhờ những nỗ lực của một nhóm học giả Hàn quốc tìm tòi, nghiên cứu về đức tin công giáo qua các sách vở mà ông Li Sung Hung đã mang về từ Trung Hoa, những người giáo dân Hàn quốc này bắt đầu dạy giáo lý cho những người khác và rửa tội cho họ. Mãi tới 11 năm sau (1784- 1795), nhờ sự học hỏi tìm hiểu sâu rộng, nhóm giáo dân công giáo đầu tiên này mới bắt đầu nhận thấy: họ cần có một linh mục. Thế là một đại diện ngoại giao đoàn đã được gửi sang Bắc kinh. Đức giám mục Bắc kinh đã chấp thuận ngay lập tức. Và vào năm 1795, cha Chumuymô, vị linh mục thuộc giáo phận Bắc kinh đã chính thức được cử sang Đại hàn và trở thành nhà truyền giáo đầu tiên tại đây.
Giáo hội Đại Hàn bắt đầu lớn lên và càng ngày càng lớn nhanh, lớn mạnh. Thế nhưng cũng như bất cứ Giáo hội nào của Chúa, như một định luật chung, cứ bắt đầu thành hình, lớn lên là bắt đầu chịu nhiều cản trở, cấm đoán cản ngăn, thậm chí nhiều khi còn đi đến chỗ bị bắt bớ tiêu diệt.
Giáo Hội Đại hàn đã phải trải qua một cơn đại hoạ kéo dài 100 năm như thế.
Trong khoảng thời gian kéo dài gần 100 năm đó, lịch sử còn ghi lại con số 103 vị tử đạo. Trong số 103 vị tử đạo này có 92 giáo dân thuộc đủ mọi giai cấp trong xã hội, 45 người nam và 47 phụ nữ. Nổi bật nhất là vị linh mục đầu tiên tại đất nước Hàn quốc là Andrê Kim Têgôn và mười nhà truyền giáo Pháp. Trong số 103 vị tử đạo, 79 vị đã được phong chân phước năm 1925, họ là nạn nhân của cuộc bách hại đầu tiên, và 24 vị được nâng lên hàng chân phước năm 1968, là nạn nhân của cuộc bách hại sau này.
Cha Chumuymô cũng được phúc tử đạo. Cùng chịu tử đạo với ngài lúc đó, có khoảng 300 người mới trở lại đạo trong đó có ông Phaolô Chung, một nhân công trong một xưởng dệt dây thừng, một gương mặt tiêu biểu cho những người công nhân, đã được rửa tội năm 30 tuổi, và đã hoạt động tích cực trong việc truyền bá đức tin công giáo bằng cách giấu ẩn các tín hữu trong vùng khi họ đến nhận lĩnh các bí tích. Ông đã bị bắt vào năm 1839, bị tống ngục và bị tra tấn dã man. Vì không chịu đựng được những cực hình, ông đã đồng ý chối đạo, và được trả lại tự do. Tuy nhiên, sau đó ông hối hận và trở lại nói với chánh án, là ông muốn rút lại lời tuyên bố chối đạo. Một lần nữa, ông bị bắt giam tù và bị đánh đập. Ông chết vì các vết thương làm độc, năm ấy ông 41 tuổi.
Năm 1984, Giáo hội công giáo Hàn quốc mừng lễ kỷ niệm 200 năm ngày học giả trẻ tuổi Li Sung Hung đến Bắc Kinh năm 1784, được rửa tội tại đây, đoạn trở về quê hương với một số sách đạo và một ánh lửa đức tin, để rồi sau đó làm bùng cháy ngọn lửa đức tin công giáo tại Hàn quốc.
Ngày 6.5.1984, tại Seoul, Nam Hàn, trong một thánh lễ phong thánh đầu tiên được cử hành ngoài Rôma kể từ thế kỷ XIII, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng 103 vị tử đạo lên bàn thờ và gọi dịp này là ngày vui mừng nhất, ngày trọng đại nhất trong lịch sử Giáo hội Công giáo tại Hàn quốc.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã phải buồn phiền mà thốt lên rằng: “Ta phải ví thế hệ này với ai đây?” Chúa đến để loan báo Tin mừng cho dân Ngài; ấy vậy, họ sống nửa vời với Ngài; họ nóng cũng không nóng hẳn, lạnh cũng không lạnh hẳn. Họ không hẳn tuyệt đối tin tưởng vào Ngài và cũng không hẳn ra mặt tảy chay Ngài.
Lý do dân Chúa sống nửa vời với Chúa ấy là thời bấy giờ người ta đã có sẵn trong đầu hình ảnh một đấng Mêsia đầy uy quyền và sẽ lãnh đạo dân chúng làm một cuộc cách mạng đẫm máu để lật đổ đế quốc La Mã và xây dựng lại một vương quốc Israel hùng cường, thịnh vượng như thời vua Đavít; nhưng đến khi Đức Giêsu, Đấng Mêsia đích thực, xuất hiện, thì xem chừng Ngài chẳng được uy quyền như họ nghĩ, vì thế họ bán tín bán nghi và dửng dưng với Ngài. Đang khi họ mong chờ Ngài phải làm cuộc cách mạng lật đổ đế chế La Mã, thì Ngài lại “đi la cà với quân thu thuế và phường tội lỗi”! Họ đâu biết rằng Đấng Mêsia đích thực đến trần gian để giải thoát tâm hồn người ta khỏi ách thống trị tội lỗi và sự chết đời đời! Còn với một thể chế trần gian, nếu tự nó đã chất chứa mầm mống của tội lỗi và sự gian ác thì nó sẽ tự hủy diệt chính nó trong sự gian ác của nó, chứ Chúa không đến để làm một cuộc cách mạng đẫm máu để lật đổ nó, vì làm như thế sẽ là sự ác chồng chất thêm sự ác, máu đổ thêm máu. Chúa đến để xây dựng một vương quốc của tình thương, vương quốc của sự hy sinh, tha thứ để hóa giải mọi hận thù, oán ghét. Và khi vương quốc này triển nở và thịnh vượng trong lòng nhân thế, thì tự khắc các thể chế, các cơ cấu của tội lỗi và sự gian ác sẽ bị sụp đổ.
Chúa Giêsu muốn lên án thái độ cố chấp, ngoan cố của những người Biệt phái và Luật sĩ. Dù thông hiểu Kinh Thánh và chứng kiến những phép lạ, công việc mà Chúa Giêsu đã thực hiện như lời Kinh Thánh tiên báo, nhưng họ vẫn khước từ tin nhận và tìm mọi lý lẽ để không chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Họ cố chấp đến mức độ: Ông Gioan Tẩy giả sống đời sống khổ hạnh “không ăn bánh, không uống rượu” thì họ bảo ông bị quỷ ám. Còn Chúa Giêsu sống hòa nhập, gần gũi với mọi người “cũng ăn cũng uống như ai” thì họ lại bảo Người là tên ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nhiều khi cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ xưa, luôn sống với cái tôi và ý riêng của mình, “bưng tai bịt mắt” không tìm kiếm, không lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc đời này. Thậm chí, chúng ta còn muốn Thiên Chúa phải làm theo những điều mình ước mong và muốn người khác phải phục vụ mình. Nếu như chúng ta luôn giữ và sống thái độ này trước Thiên Chúa thì chúng ta khó mà có thể đón nhận được ơn cứu độ của Người thương ban. Xin cho mỗi người biết mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ thơ luôn đơn sơ, tin tưởng và phó thác vào Chúa.
2023
Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người
19.9 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
1 Tm 3:1-13; Tv 101:1-2,2-3,5,6; Lc 7:11-17
Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người
Tin mừng Luca hôm nay cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái đang mong chờ, mà phép lạ Người đã tỏ lòng thương xót một bà góa đang khóc đi chôn đứa con trai duy nhất đã chết tại cửa thành Nain là một bằng chứng. Đức Giêsu đã truyền cho đứa con mới chết được sống lại và trao nó lại cho bà mẹ. Qua phép lạ này, Người tiên báo công việc Người sẽ làm là ban cho những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại một cuộc sống vĩnh hằng sau này.
Chúa Giêsu không quan tâm đến người chết, nhưng Ngài quan tâm đến người mẹ góa bụa: “Trông thấy bà, Chúa động lòng thương…” Ngài chỉ nhìn đến nỗi đau không sao an ủi trong trái tim tan nát của người mẹ bất hạnh, và trái tim Ngài “chạnh thương”. Ở đây một bầu khí tang thương bao trùm; người nữ góa bụa trong xã hội xưa cũng như nay thường rất hẩm hiu và ít được tôn trọng. Nỗi đau càng lớn khi người con trai duy nhất của bà từ trần, sự chết ngự trị vì dòng sự sống nơi bà bị cắt đứt. Đứng trước mãnh lực của sự ác, người ta chỉ còn biết than van, khóc lóc, buồn phiền, lặng thinh và tuyệt vọng. Nếu có điều kỳ diệu nào xảy ra, ấy là nhờ nước mắt của những người mẹ đau khổ như thế này: đó là nước mắt của thánh nữ Mônica, nước mắt của Đức Maria, nước mắt của Mẹ Hội Thánh, của biết bao bà mẹ hiền, của những người tha thiết đến phần rỗi của con cái.
Chúa cúi mình xuống an ủi vỗ về, như mẹ hiền ấp ủ con thơ. Ngài tìm cách lau khô dòng lệ: “Bà đừng khóc nữa!”. Trái tim của Con Thiên Chúa thổn thức trước dòng lệ sầu thương của người goá phụ. Chúa chúng ta dịu hiền và trìu mến biết bao khi Ngài tìm cách xoa dịu nỗi đau của kiếp người! Người lại gần, dường như đang tìm hết cách để xoa dịu nỗi đau của người mẹ bất hạnh. Ngài “sờ vào quan tài”, rồi gọi người thanh niên: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói”. Ôi, Chúa Giêsu là Lời ban sự sống ! Một lời Ngài phán ra làm cho con người được sống. Người mẹ đau khổ vẫn còn chìm trong cơn tuyệt vọng, “Chúa Giêsu trao anh ta lại cho bà”. Ôi bàn tay và tiếng gọi của Chúa Giêsu! Ngài đã đoạt lại anh từ tay thần chết, đưa anh về với cõi nhân sinh, để an ủi trái tim bà mẹ đang tan nát. Ngài đã trao lại cho người mẹ đứa con mà bà tưởng như không bao giờ có lại. Ngài trả lại cho bà niềm hy vọng đã mất, trả lại chỗ dựa cho bà lúc tuổi già, và trả lại cho bà niềm vui mà nếu không có Chúa thì chẳng bao giờ bà có được.
Người góa phụ, như một “đứa con thinh lặng”, chẳng thốt lên một lời nào. Bà không cầu xin được giúp đỡ; tác giả không nói rằng bà góa ấy có lòng tin vào Chúa Giêsu, hay bà đã đi theo Người, hoặc là bà đã nghe biết về Chúa Giêsu và quyền năng của Người. Chẳng có yêu cầu trông mong nào đối với phép lạ ấy. Không, đây là một câu chuyện về sự khó khăn túng thiếu của con người. Thế nhưng, điều đó chưa phải là đã kết thúc, như người ta vẫn nói: “nhìn vậy chứ không phải vậy” (hoặc tất cả những chứng cứ chưa nói lên được điều gì). Cái chết không phải là kết thúc câu chuyện bà góa và của cả chúng ta nữa. Bởi lẽ, Chúa Giêsu đã đến và trông thấy nhu cầu của con cái Chúa đang lặng thầm. Người cho đứa con trai của bà góa được sống lại, và hơn thế nữa, Người còn cho bà góa cũng được sống lại. Nỗi đau buồn hiện tại của bà đã được cất khỏi, bà lại có niềm hy vọng vào tương lai.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa lòng nhân loại chính là sự hiện diện của Thiên Chúa cứu độ. Sự hiện diện này không chỉ đưa lại sự an ủi, khích lệ, mà còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Chính những hiệu quả này giúp dân chúng nhận ra rằng Thiên Chúa đã đến viếng thăm họ nơi “vị ngôn sứ vĩ đại” này. Đấy hẳn cũng phải là điều các môn đệ của Đức Giêsu ở mọi thời phải chứng tỏ.
Kết thúc đoạn Tin mừng là lời tôn vinh vang dậy trong sự kính sợ:“Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người!” Hôm nay mọi nỗi khốn cùng của nhân loại vẫn còn đó, mở ra trước ánh mắt và tấm lòng chạnh thương của Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta có tin không, tin rằng Ngài muốn đổi mới tất cả, cứu sống tất cả? Tin rằng Ngài muốn đem Tin Mừng đến để thay thế nỗi khốn cùng đang chôn vùi chúng ta trong cõi chết?
Chúa Giêsu đã đến trần gian này không phải để ban cho con người ta phép trường sinh bất tử. Nhưng Ngài đến để chỉ cho con người được hạnh phúc và tận hưởng đời sống trường sinh mai sau. Nhưng để bước vào đời sống mới – Đời sống vĩnh cửu – thì con người phải trải qua cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng cũng phải chết rồi mới phục sinh khải hoàn kia mà.
Việc Chúa Giêsu “động lòng thương” trước một sự kiện đau thương trong cuộc sống con người, cụ thể là trước cái chết của đứa con bà góa được diễn tả trong Tin mừng thánh Luca 7, 11-17. Chúa Giêsu đã cảm thông, chia sẻ thân phận với con người trong mọi hoàn cảnh sống. Chính lúc có sự hiện diện và can thiệp của Thiên Chúa, con người mới thật sự đón nhận được niềm vui, bình an, và hạnh phúc.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết vững tin vào Chúa, cho dù là những lúc đau đớn nhất trong đời. Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương. Chúng ta cũng phải biết “chạnh lòng thương” như Chúa đã từng yêu thương và cứu độ chúng ta.
2023
Lòng tin mạnh mẽ
18.9 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
1 Tm 2:1-8; Tv 28:2,7,8-9; Lc 7:1-10
Lòng tin mạnh mẽ
Nếu thập giá là sự điên rồ đối với người Do Thái thì đau khổ quả là sự thất bại thảm hại. Nếu thánh giá là sự khôn ngoan vô lượng của Thiên Chúa thì đau khổ là cơ hội để luyện tập các nhân đức. Để tận diệt mọi đau khổ, Chúa Giêsu đã tự nguyện mang lấy gánh nặng và tội lỗi cho con người mà đưa lên cây thập giá. Trong tình yêu Thiên Chúa, đau khổ là một mầu nhiệm. Như con rắn đồng của Môsê trong sa mạc đã cứu dân khỏi chết, hãy nhìn lên thánh giá Đức Giêsu để tiếp nhận thêm sức mạnh và niềm tin. Thiên Chúa đã dùng những nỗi đau khổ giúp chúng ta cảm nhận sâu xa về sự yếu đuối của thân phận con người và để tôi luyện chúng ta trưởng thành hơn.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta chứng kiến một lòng tin mạnh mẽ của viên đại đội trưởng ngoại giáo. Biết Đức Giêsu là người đầy quyền năng, ông đại đội trưởng đã đến xin Người chữa cho người đầy tớ của ông bị chứng tê bại nặng. Trước thái độ tin tưởng của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu hết sức thán phục và khẳng định với đám đông dân chúng: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israen, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế”. Theo nguyên tắc của Do Thái giáo, đại đội trưởng là một người ngoại đạo sẽ bị loại ra khỏi Vương quốc; và nếu một người Do Thái vào nhà một kẻ ngoại đạo sẽ bị coi là kẻ ô uế.
Khi chữa lành cho người bệnh, cả Đức Giêsu và viên đại đội trưởng đều vượt qua những ranh giới của luật Do Thái. Điều đó cho thấy Đức Giêsu đã làm tất cả vì lòng thương xót, còn viên đại đội trưởng thể hiện niềm tin mãnh liệt vào quyền năng và tình thương Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chữa bệnh từ xa, Ngài biểu hiện tình thương có khả vượt qua khoảng cách của địa lý, của không gian và thời gian. Vì thế ông đại đội trưởng chưa về đến nhà thì nghe tin báo người đầy tớ đã khỏi hẳn bệnh.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một lòng tin tuyệt đối của viên đại đội trưởng vào quyền năng Chúa. Ông đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa nên mới cầu xin rằng: “Xin Ngài cứ nói một lời thì đầy tớ tôi được khỏi bệnh”. Câu nói của đại đội trưởng ngày xưa đã được Hội Thánh đưa vào phần Phụng Vụ Thánh Thể, sau khi Cha chủ tế đọc lời truyền phép…, giáo dân thưa: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
Thái độ tin tưởng của ông đại đội trưởng khác hẳn với thái độ cứng tin của những người Do Thái. Phép lạ này là lời hứa cho tất cả chúng ta, những ai có lòng tin đều được Chúa chữa lành. Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc hết mọi người không phân biệt dân tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Điều quan trọng là chúng ta phải thực sự khát khao được Chúa chữa lành.
Trên hành trình thiêng liêng chúng ta sẽ không tránh khỏi những lúc bị thử thách, không thể trốn chạy những đau đớn bệnh tật. Như Đức Giêsu luôn tỏ lòng thương cảm với những yếu đuối của con người, chúng ta cũng hãy mở lòng ra đón nhận tất cả trong sự tin tưởng phó thác. Đức Giêsu ôm lấy cuộc đời, mang vác lấy gánh nặng của con người mà giương cao lên thập giá. Tình yêu thương con người dạy chúng ta chấp nhận những phiền hà rắc rối của người bên cạnh, dám chịu thương tích vì người khác, dám chấp nhận thất bại để tôi luyện và trưởng thành trong đức tin.
Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 7, 1-10) đã tường thuật lại câu chuyện người nô lệ bệnh nặng gần chết được thân chủ yêu thương, vì anh ta sống đẹp lòng ông chủ nên anh đáng được yêu thương. Vì đáng được thương nên anh ta được ông chủ đi tìm Chúa Giêsu để được chữa lành.
Ông chủ chính là viên sĩ quan đại đội trưởng, ông ta đáng được thương trên hết vì ông ta có lòng thương người, có công đức cho đời, có lòng tin vững chắc, tin vào quyền năng của Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời thì đầy tớ của ông ta được khỏi bệnh, “⁷ Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh” (Lc 7, 7), và Chúa Giêsu đã khen ông ta: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ítsraen, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế” (Lc 7, 9).
Đức tin có việc làm là đức tin được cứu độ, được chữa lành, được bình an, như thánh Giacobe tông đồ đã nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17), thánh nhân còn nói: “Tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi” (Gc 2, 18). Việc làm của đức tin là từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình mà theo Chúa (Mc 8, 34), Chúa dạy rằng: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35).
Đặc biệt, những ai có đức tin vững mạnh như viên đại đội trưởng, như lời Chúa Giêsu dạy: liều mất mạng sống vì Tôi và Tin Mừng, chắc chắn họ sẽ không thấy cô đơn nao núng vì Chúa ở bên họ; chắc chắn ho không run rẩy sợ hãi vì Chúa Giêsu đang đồng hành với họ; họ sẽ thất vọng trong giờ phút lâm chung vì có Chúa Giêsu đang chờ đón họ trên thiên đường.
2023
Xem quả biết cây
16.9 Thánh Cornelius, Ghtđ và Cyprian, Gmtđ
1 Tm 1:15-17; Tv 113:1-2,3-4,5,6-7; Lc 6:43-49
Xem quả biết cây
Thánh Giáo Hoàng Cornelius là vị Giáo Hoàng thứ 21 kế vị Thánh Phêrô nối ngôi Đức Thánh Giáo Hoàng Fabian qua đời năm 250.
Sau khi Thánh Fabian tử vì đạo thì Giáo Hội thời ấy không có giáo hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Trong thời gian ấy, Giáo Hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Thánh Cyprian, một người bạn của Cornelius, viết lại rằng Cornelius được chọn làm giáo hoàng “bởi quyết định của Thiên Chúa và của Ðức Kitô, bởi sự chứng thực của hầu hết mọi giáo sĩ, bởi lá phiếu của người dân, với sự đồng ý của các linh mục lớn tuổi và những người thiện chí.”
Vấn đề lớn nhất trong thời gian hai năm làm giáo hoàng của Thánh Cornelius có liên quan đến Bí Tích Hòa Giải và nhất là việc tái gia nhập của các Kitô Hữu đã chối đạo trong thời bị bách hại. Cả hai thái cực của vấn đề đều bị lên án. Cyprian, giám mục của Phi Châu, yêu cầu đức giáo hoàng xác nhận lập trường của ngài là người bội giáo chỉ có thể hoà giải bởi quyết định của vị giám mục.
Tuy nhiên, ở Rôma, Cornelius lại gặp một quan điểm đối nghịch khác. Sau khi bầu giáo hoàng, một linh mục tên Novatian (một trong những người điều hành Giáo Hội) tự tấn phong cho mình là Giám Mục Rôma—giáo hoàng đối lập đầu tiên. Vị này cho rằng Giáo Hội không có quyền hòa giải chẳng những người bội giáo, mà cả những người phạm tội sát nhân, tội ngoại tình, tội gian dâm hay ngay cả tái hôn! Ðức Cornelius được sự hỗ trợ của hầu hết mọi người trong Giáo Hội (nhất là Ðức Cyprian ở Phi Châu) để lên án chủ thuyết của Novatian, dù rằng giáo phái này kéo dài trong vài thế kỷ. Vào năm 251, Ðức Cornelius triệu tập thượng hội đồng ở Rôma và ra lệnh những người “sa ngã” được hòa giải với Giáo Hội qua “bí tích hoà giải” thông thường.
Một tài liệu từ thời Ðức Cornelius cho thấy sự phát triển của Giáo Hội Rôma trong giữa thế kỷ thứ ba: 46 linh mục, bảy phó tế, bảy phó trợ tế. Số Kitô Hữu được ước lượng khoảng 50,000 người.
Thánh Cornelius tử đạo năm 253 vì hậu quả của sự lưu đầy ở phần đất bây giờ là Civita Vecchia. Ngài được mai táng tại nghĩa trang Thánh Callitus ở Rome.
Ở đất Palestine, có hai loại cây vốn đã trở nên phổ biến và hết sức gần gũi với cuộc sống người Do thái, đó là cây nho và cây vả. Hai loại cây này gắn bó thân thiết với đời sống con người đến mức chúng được hình tượng hóa và chất chứa những ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Chắc chắn, khi nói đến cây vả, quả vả thì người Do thái nghĩ ngay đến niềm bình an, hạnh phúc và sự thịnh đạt. Nói cách khác cây vả, quả vả tượng trưng cho sự thịnh đạt và bình an cho cuộc sống con người. Còn cây nho và quả nho thì biểu trưng cho niềm vui trong cuộc sống của họ.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê su nhắc cho những người theo Ngài biết rằng chẳng bao giờ người ta có thể tìm được trái vả, trái nho nơi bụi gai cả. Người ta muốn có trái vả, trái nho ngon ngọt trong đời, thì phải chịu khó vun xới, chăm sóc cho cây vả, cây nho trong khu vườn nhà người ta. Nếu không chịu khó chăm sóc vườn nhà mình, thì chỉ có bụi gai mọc um tùm mà thôi. Mà ở bụi gai thì làm gì tìm được trái vả và trái nho!
Ý Chúa muốn nói rằng người ta chẳng có được hoa trái của niềm vui, bình an và hạnh phúc khi trong lòng người ta có những bụi gai của sự chua cay, gắt gỏng, đố kỵ, tị hiềm. Ngược lại, nếu người ta chấp nhận dọn dẹp khu vườn của tâm hồn mình và vun tưới, chăm sóc cho cây nho, cây vả của sự hy sinh, vị tha, quảng đại thì chắc chắn người ta sẽ gặt hái được trái nho của niềm vui hay trái vả của sự bình an, thịnh đạt.
Nhưng khổ nỗi, với con người tự nhiên của chúng ta, chúng ta không thích dọn dẹp những bụi gai của sự đố kỵ, tị hiềm mọc um tùm trong lòng mình! Cụ thể, khi ai đó có những lời nhận xét chân thành, nhưng hơi cứng rắn một chút về ta, hoặc ai đó có những lời nói hay hành động do vô ý mà đã vô tình làm ta cảm thấy bị tổn thương, hoặc thậm chí tự nhiên ta gặp một người mà ta chẳng có cảm tình gì cả, thế là ta tìm cách gièm pha, ta chẳng để người ta yên. Mà giả như ta không tìm cách “chơi” người ta, thì ta cũng tìm cách làm ngơ hoặc tránh né, xem họ như không hề tồn tại trong tâm trí mình. Tất cả những thái độ đó chỉ tổ làm cho bụi gai của sự tị hiềm, ganh ghét dần dần mọc lên và phát triển ùm tùm trong khu vườn của tâm hồn ta. Và Chúa bảo rằng chẳng có trái nho, trái vả của niềm vui, của bình an, hạnh phúc trong lòng ta được.
Đã có người từng nhận định rằng: “khoảng cách xa nhất không phait từ Trái Đất đến Sao Hỏa, mà là từ miệng đến tay, hay đúng hơn là từ lời nói đến hành động”. Quả đúng như vậy, dân gian có câu “Nói dễ hơn làm”, những lời nói “phóng đại”, khoe mẽ chưa bao giờ khó bằng việc đưa nó vào hành động thực tiễn.
Nếu chỉ đánh giá con người qua lời nói, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng bị “dắt mũi” bởi những dời dối trá hoa mĩ. Không có gì ngạc nhiên khi có nhiều cô gái bị lừa gạt bởi những gã nhân tình “sở khanh”, “quất mã truy phong”; hay có rất nhiều người bị lôi kéo, dụ dỗ bởi những nhân viên “bán hàng đa cấp”… Lỗi một phần là do họ nhẹ dạ cả tin, dễ tin tưởng vào những lời nói đường mật. Tuy nhiên, cũng có thể là do những người lừa gạt ấy có một khả năng thuyết phục tuyệt hảo, chúng ta có thể thấy nơi họ một sự lôi cuốn khó cưỡng, từ đó khiến ta dễ dàng nghe theo lời họ nói mà chẳng cần quan tâm liệu họ có khả năng thực hiện những việc đó hay không.
Có người đã từng nói rằng: “đừng nghe những gì ‘người ta’ nói, mà hãy nhìn những gì ‘họ’ đã làm”. Một khi đã nhận thấy được những hành động của họ khác xa với lời nói, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thẳng vào tâm can chứa đầy sự dối trá, lừa phỉnh của những kẻ lừa gạt ấy. Từ đó, chúng ta có thể nhận ra rằng, chính việc nói được mà không là được đã đẩy con người vào đường tội lỗi, dối gạt lẫn nhau; và đương nhiên, đối với những người hết lòng tin tưởng vào chúng ta, hành động đó thật đáng lên án vì nó có thể gây ra những hậu quả khó lường.
Về cơ bản, những người thích nói hơn làm cũng tương tự những người có thói quen “phóng đại” (hay thường gọi là “nổ”). Mục đích của họ thường là tự đề cao bản thân hoặc “dắt mũi” những “linh hồn trong sáng”. Họ muốn người khác nhìn mình với đôi mắt kính trọng, nể phục nhưng khả năng của họ chưa đủ; họ muốn tạc một tượng đài kì vĩ trong lòng người khác nhưng chính bản thân họ không xứng đáng với điều đó; họ muốn dùng những lời nói hoa mĩ của mình để lôi kéo sự ủng hộ của người khác trong khi khả năng thực hiện điều đó không cao…Thế nhưng, dù là mục đích nào đi chăng nữa, ít nhiều họ cũng đã dối gạt tha nhân, đó vẫn là tội nói dối và tuyệt đối không nên cổ súy.
Chúa Giêsu đã chất vấn các môn đệ rằng: “Tại sao anh em gọi thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” mà anh em không làm điều thầy dạy?”. Ta có thể thấy rằng, nói được làm được là chuyện nhỏ, có một chuyện còn quan trọng hơn muôn phần, đó là phải biết lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm kim chỉ nam của cuộc đời mình. Người đề cao hành động thực tế hơn những lời sáo rỗng, Người muốn chúng ta phải thực thi thánh ý của Ngài. Có như vậy, chúng ta mới được ví như “Người xây nhà trên đá” những kẻ khôn ngoan biết thi hành Lời Người. “Xem quả thì biết cây”, nếu chúng ta sống như Người dạy, người khác sẽ đánh giá tốt những người mang danh Kitô hữu; và đương nhiên, một khi danh Chúa tràn ngập khắp cả địa cầu, nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành.
Xã hội chúng ta đang sống chứa đầy những lời xảo trá, bịp bợm, nếu không cẩn trọng, chúng ta sẽ là những con cừu non tội nghiệp bị mắc bẫy của những lão sói già ranh ma, xảo quyệt. Mỗi người chúng ta phải biết tỉnh táo, cảnh giác trước những lời nói đường mật, vì “mật ngọt chết ruồi”. Chỉ có một Lời có thể đem lại cho chúng ta sự sống đời đời, đó là Lời của chính Thiên Chúa được mặc khải qua Chúa Giêsu. Những lời Người đã nói ra, Người đều thực hiện, vì Chúa là Đấng Chân Thật và chính Người là Sự thật. Chúng ta phải biết học tập nơi Người, hãy để Chúa trở thành một “siêu người mẫu” – người mà tất cả chúng ta phải noi theo. Chúng ta hãy sống sao cho phải phép, để mai này Chúa sẽ không chất vấn chúng ta như đã chất vấn các môn đệ của Người, vì người không biết không có tội, còn kẻ “tri pháp phạm pháp” sẽ phải chịu phạt nặng hơn.