2023
Nếu các con biết Thầy
6.5 Thứ Bảy trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:44-52; Tv 98:1,2-3,3-4; Ga 14:7-14
Nếu các con biết Thầy
Thường tình chúng ta không tiếc lời ca ngợi kẻ xa lạ vì đã làm được những việc đáng kể, nói ra nhiều câu chí lý, có một hành động đáng phục. Trong khi đó chúng ta lại rất hà tiện lời khen đối với người sống gần bên cạnh, trong chính tập thể chúng ta, dù người đó không những đã làm, đã nói, đã sống, mà còn hơn cả những người được ca ngợi, nhưng lại sống xa chúng ta.
Ðây có thể phần nào là hoàn cảnh sống của các môn đệ, nhất là của Philipphê. Họ đã sống gần Chúa Giêsu, Thầy của mình, bao nhiêu năm qua, nhưng dường như họ vẫn chưa hiểu Chúa và mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha. Chính vì thế, mà trong câu nói của Chúa Giêsu cho các môn đệ có mang chút ít sự chua xót và trách móc: “Thầy đã ở với các con lâu rồi mà các con không biết Thầy sao? Hỡi Philipphê, ai xem thấy Thầy thì cũng xem thấy Cha. Hãy tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Ít nhất, các con hãy tin điều đó vì thấy các việc Thầy đã làm”.
Thật thế, không thiếu những dấu chỉ cho chúng ta biết mối quan hệ thâm sâu và đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Ðặc biệt trong đoạn Phúc Âm vừa đọc trên, chúng ta có thể ghi nhận một dấu chỉ đặc biệt, đó là Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban xuống, sẽ ban cho các môn đệ làm những việc cả thể hơn nữa. Họ sẽ hành động nhân danh Chúa, sẽ khai sinh một cộng đoàn mới, một Giáo Hội của Chúa. Nhưng chắc chắn các môn đệ sẽ gặp khó khăn và phương thế để vượt qua những khó khăn là cầu nguyện, cầu nguyện nhân danh Chúa. Hai lần trong cùng một đoạn văn vừa đọc, Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy cầu nguyện, cầu nguyện hết lòng tin tưởng, cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúng ta có xác tín về những gì Chúa Giêsu giãi bày cho chúng ta hay không?
“Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con biết Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con” (c.8). Có lẽ trong mỗi giây phút hăng say bồng bột của tuổi trẻ Philip đã xin với Chúa như vậy. Thật ra đấy cũng là ước mơ của nhiều người Do thái, vì xưa kia Maisen đã được đặc ân này trên núi Sinai (Xac 24,9-11), Elia đã được ở núi Horeb (1V 19,10-14), hoặc như Isai trong đền thờ (Is 6).
Nhưng như Chúa đã xác nhận không ai thấy được Thiên Chúa Cha trừ ra Đức Kitô mà thôi (Ga 1,18. 6,46). Thiên Chúa không còn hiện ra trong sấm chớp hay bằng thị kiến như xưa nữa. Kể từ nay Thiên Chúa Cha tỏ ra trong con người đức Kitô, Đấng không bao lâu nữa sẽ được ánh vinh quang bao phủ. Thứ vinh quang mà Isai chiêm ngắm trong đền thờ xưa chỉ là hình bóng của đức Kitô (Is 6. Ga 12,41). Chúa Kitô đã từng quả quyết “Cha Ta và Ta là một” ( Ga 10,30). “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta” (c. 9). Vì thế từ đây không phải là đền thánh Gierusalem của người Do thái, hay đền thờ của người Samaria ở Garisim (Ga 4, 20) nữa, chỉ còn một nơi duy nhất, một chỗ gặp gỡ duy nhất là chính bản thân đức Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 4, 21-24. 2, 13-22). Từ đây ai đón nhận Ngài là đón nhận Cha Ngài.
Có lẽ câu Philip “Xin tỏ cho chúng con thấy Thiên Chúa Cha” (c.8) phần nào minh chứng ông chưa hiểu mấy về chính Chúa Kitô. Chúa Cha và Chúa Con không thể tách lìa nhau. Con đâm rễ sâu trong Cha và Cha ẩn mình trong Con, Thiên Chúa Cha ở nơi Con và làm việc qua Con. Chúa Giêsu đã quả quyết “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha” (10, 38). Các lời nói việc làm của đức Kitô là của Thiên Chúa Cha (5, 17-26.30.36.7, 16-17. 8,26-29.10, 25). Vì thế Chúa Kitô nói nếu không tin vào lời Ngài thí ít ra là hãy tin vào việc làm của Ngài là các phép lạ (10,25.37.38).
Qua bản văn trên chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn minh chứng Ngài là một người thực sự giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Nhưng một đàng Ngài lại khác chúng ta một trời một vực vì Ngài là Thiên Chúa đồng bản tính, đồng việc làm với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha qua chính bản thân, lời nói và việc làm của Ngài. Có lẽ lời Chúa trách cứ “Philip à, Thầy đã ở giữa các con biết bao lâu rồi thế mà con chưa biết Thầy” (c.9). Lời nói này cũng bao hàm như câu của Gioan tiền hô “Trong thế gian có một người mà thế gian không biết” (Ga 1, 10).
Nhưng lời ấy vẫn là lời tiên tri vang dội cho mỗi thời đại. Cũng như xưa kia Chúa Giêsu đã sống giữa dân Ngài 33 năm ròng. Ngài đã gặp gỡ, chuyện vãn, nhìn ngắm quê hương Ngài, Ngài đã dạy dỗ và làm phép lạ. Nhưng họ mỉa mai Ngài là con bác thợ mộc (Mc 6, 3), là bị mát, cần phải dẫn về quê, là thông đồng với Beelgiêbuth…
Hình như giữa Ngài và chúng ta như có một bức tường lãnh đạm chống đối nào đó, mỗi người trong chúng ta đều mang trong mình một thứ chống đối Thiên Chúa. Chúng ta như cố vùng vẫy thoát ly khỏi tay Ngài. Dù được Ngài mời gọi, nhưng chúng ta vẫn cứ viện những lý do riêng để từ chối Ngài như những người kia từ chối tiệc cưới con vua vậy (Mt 22, 1-14). Sau 20 thế kỷ ai trong chúng ta tránh được lời trách của Chúa “Thày đã ở giữa các con biết bao lâu… “. Đã từ lâu các con chưa nhận ra Ta đói khát, cô đơn, hất hủi, khinh miệt. Sau hai ngàn năm sự có mặt của Chúa như thể là sự có mặt trong bóng tối. Và có lẽ không sẽ có mặt như thế mãi đến tận thế. Thiên Chúa ở giữa sự im lặng.
Thiên Chúa sinh ra trong cảnh im lìm của đêm thâu. Ngài sống 30 năm trầm lặng. Ngài phục sinh trong đêm khuya. Ngài sống lai, hiện ra rồi đấy nhưng Madalêna tưởng đâu là bác làm vườn (Gio 20, 15), hai môn đệ Emmaus tưởng Ngài là khách bộ hành (Lc 24, 13), các môn đệ tưởng là ma (Lc 24, 36).
Người của Chúa nhận ra tiếng Chúa “Chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14). Ai nhẫn nại làm quen với công việc của Chúa sẽ dễ nhận ra Ngài khắp nơi. Chúa ở gần chúng ta lắm ! sách Khải huyền nói “Đây Ta đứng ngoài cửa lòng và Ta gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào dùng bữa với nó, nó với Ta” (3, 20).
Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha trở thành lý tưởng cần phải đạt đến đối với những môn đệ Chúa, những kẻ được Ngài sai đi tiếp tục sứ mệnh của Ngài. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Người môn đệ được mời gọi thể hiện sự hiệp nhất với Chúa trong cuộc sống chứng tá, cũng như Ngài luôn thể hiện sự hiệp nhất với Cha Ngài khi chu toàn sứ mệnh đã lãnh nhận từ Cha. Chắc chắn người môn đệ sẽ gặp khó khăn, nhưng một khi sống hiệp nhất với Chúa, họ sẽ nhận được sức mạnh thần linh và trở thành hữu hiệu hơn trong lời cầu nguyện. Bất cứ điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh luôn gìn giữ chúng ta trong mối hiệp thông với Ngài, và đừng để chúng ta đi tìm một Thiên Chúa khác mà quên đi Đấng đang hiện diện giữa chúng ta.
2023
Con Đường
5.5
Thứ Sáu trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:26-33; Tv 2:6-7,8-9,10-11; Ga 14:1-6
Con Đường
Cũng trong khung cảnh bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đang nói cho các tông đồ những lời rất thân tình, tha thiết. Ngài báo cho họ biết Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi mà họ rất lạ. Nhưng Ngài hứa sẽ trở lại đón họ để cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi ?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nghĩa là: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa Ngài chính là con đường đẫn ta đến đích điểm đó.
Đọc Tin Mừng theo thánh Gioan ta hiểu hơn về Chúa Giêsu Đấng mạc khải qua kiểu nói Ta là. Ta là Ánh sáng (8,12), sự sống (14,6), tình yêu (1Ga 4,8), chủ chiên (10,14), cửa chuồng chiên (10,7), là đường đi (14,6).
Ai trong chúng ta không phân biệt con đường ? Có đường hẻm, đường rừng, đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường liên tỉnh, đường quốc tế, đường không gian. Con đường nào cũng quan trọng, vì con đường nào cũng dẫn tới một đích điểm. Dân Do thái sống thời du mục, cho nên đường hẻm, đường mòn, đường rừng đóng một vai trò thiết yếu hơn cả nhà ở. Chúa Giêsu đã dùng ngay hình ảnh đó để nói về Ngài: “Ta là đường” (c.6). cuộc xuất hành của dân Do thái là một con đường đi về đất hứa (Xac 13,21). Tiên tri Eâlia cũng đi con đường rừng lên núi Horeb (1V 19,1t). Trong Tân ước cũng nói đến những con đường thả bộ như đường Jerichom là nơi Chúa chữa cho một người mù (Mc 10,46), con đường của dụ ngôn người Samaritanô (Lc 10,30-37), con đường vào thành Giêrusalem ngày lễ Lá (Lc 19,28), con đường núi Sọ, con đường Emmaus (Lc 24,13t).
Mỗi con đường đều có một kỷ niệm, mỗi con đường đều có mục dích. Con đường nào cũng nối ít nhất là hai điểm với nhau. Con đường nào cũng là để đi tới. Nhờ con đường mà người ta giao tế, liên lạc gặp gỡ nhau, cũng nhờ có con đường mà giải quyết được nhiều chuyện như vấn đề kinh tế. Hầu như càng văn minh thì con đường càng nhiều, giăng mắc như hệ thống thần kinh vậy.
Trên phạm vi tự nhiên thân xác còn có con đường để đi lại để rồi mới có thể kiến tạo một cuộc sống hoàn bị, tươi đẹp, thì linh hồn cũng cần có một con đường. Con đường của linh hồn có hai thứ: con đường tốt và con đường xấu. Con đường xấu được Kinh thánh mô tả là con đường cong (Cn 21,8), là đường tội lỗi (Tv 1, 1. Hđ 21, 10), đường của ác nhân (Tv 1, 6. Gr 12, 1). Đường đó dẫn đến sự hư mất (Tv 1,6) và cái chết (12, 28). Ngược lại, con đường tốt là con đường nhân đức, là con đường ngay thẳng, toàn thiện (1Sm 12, 23. 1V 7, 36. 1C 12,31), là đường chân lý (Tv 119, 30. Tb 1, 3), bình an (Lc 1, 79), là con đường của sự sống (Cn 2,19.5,6), trường thọ và thịnh vượng.
Chúa Giêsu đã tự xưng mình là đường và Ngài mời gọi chúng ta bước theo Ngài trên con đường Ngài đã đi là con đường Thánh giá (Mt 16, 23. Lc 24, 26). Thánh Phaolô bảo: cuộc đời dương thế của chúng ta là con đường mà người ta đi là lữ khách (Dt 3, 14). Ngài nhấn mạnh: trên con đường đó, chúng ta phải đi (Col 2,6) hơn nữa phải chạy đua với người khác nữa. Chúng ta biết khi chạy đua thì chỉ phát phần thưởng vào cuối cuộc đua chứ không ai phát phần thưởng từ đầu bao giờ. cho nên mọi người phải cố gắng cật lực…
Ðường về quê trời có nhiều thử thách nhưng người đồ đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Giêsu Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô, đó là: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Ðấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi”.
Trên con đường chạy đua, có người thấy con đường của mình dài thòng, xa xôi, vất vả nên bỏ cuộc. Có người chạy được ít bước đã ngoái cổ lại xem mình chạy bao xa mà trẽ lối. Có người chạy đua mà khinh đối thủ, chỉ la cà bên đường để rồi chẳng bao giờ về tới đích. Có người thì chạy hăng hái quá mà chệch đường, chạy lạc lối. Có người chạy trước mà về sau.
Là một lực sĩ chạy đua, người ta khem khổ hy sinh, vất vả tập dượt, dùng sức mạnh ý chí… huống chi là trên con đường về Trời, chúng ta phải vất vả đến độ nào. Cuối chặng đường mỗi người là Thiên Chúa Cha đúng giang tay đón chờ ôm đứa con vào lòng..
2023
Củng cố đức tin
4.5 Thứ Năm trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:13-25; Tv 89:2-3,21-22,25,27; Ga 13:16-20
Củng cố đức tin
Ðó là những lời Chúa Giêsu tâm sự với các tông đồ vào lúc khởi đầu cuộc khổ nạn của Ngài, loan báo tương lai cuộc sống của các tông đồ sẽ như thế nào. Nhưng tại sao Giáo Hội lại chọn để chúng ta suy niệm đoạn Phúc Âm này trong những ngày của mùa phụng vụ Phục Sinh? Những gì đã xảy ra đúng theo như lời Kinh Thánh và theo lời loan báo trước của Chúa, nhằm củng cố các tông đồ và cả chúng ta ngày hôm nay trong đức tin vào Chúa. Tin Chúa là Thiên Chúa, là Ðấng Hằng Hữu, là Ðấng Ta Là, “Ta bảo các con điều đó ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy ra để đến khi sự việc xảy ra, các con tin Ta là Ðấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa”.
Bản văn Tin Mừng thánh Gioan dùng từ “Ta là Ðấng Ta Là”, từ dùng để chỉ chính Giavê Thiên Chúa. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, các tông đồ và mỗi người chúng ta được mời gọi suy niệm những lời Chúa Giêsu có liên quan đến vận mệnh tương lai của những ai làm đồ đệ Chúa. Trước hết là hồng ân được Chúa sai đi, được đại diện cho Ngài “Ai đón rước kẻ Ta sai là đón rước Ta và ai đón rước Ta là đón rước Ðấng đã sai Ta”. Ðó là chiều dọc từ con người lên cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu Kitô. Mọi đồ đệ của Chúa cần phải duy trì trọn vẹn chiều dọc này. Ðây là hồng ân Chúa ban cho những con người Chúa chọn làm kẻ đại diện của Ngài, mang sứ điệp của Ngài đến cho anh chị em khác và hồng ân này có thể bị mất đi do chính quyết định tự do của con người như trường hợp của Giuđa ngày xưa, người môn đệ phản Thầy, “Ta biết những kẻ Ta đã chọn, kẻ ăn bánh cùng Ta đã giơ gót chân đạp Ta”.
Lời cảnh tỉnh của Chúa thôi thúc mỗi người chúng ta xét lại cuộc sống làm đồ đệ theo Chúa của mình đang ở mức độ nào. Chúng ta sẽ làm đại diện cho Chúa một cách hữu hiệu hơn nếu chúng ta trở nên giống Chúa hơn và chia sẻ vận mệnh của Chúa: “Tôi tớ không hơn chủ; kẻ bị sai đi không trọng hơn người sai họ”. Chúa đã đi qua con đường thập giá, thì đồ đệ của Ngài chắc chắn cũng sẽ đi qua con đường này. Hơn nữa, cám dỗ phản bội Chúa như Giuđa ngày xưa luôn là cám dỗ thường hằng của mọi môn đệ Chúa cả ngày hôm nay. Chúng ta hãy tỉnh thức đề phòng.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói lên ý muốn duy nhất của Ngài là chính các môn đệ cũng hãy làm như vậy đối với nhau và đối với người khác, bởi vì chẳng tẽ một môn sinh hay một sứ giả lại đòi được hưởng một danh dự, một phẩm giá lớn hơn Thầy mình, lớn hơn người sai mình sao. Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
Thật ra, chính Chúa Giêsu đã mạc khải là Ngài đã không làm gì khác hơn là noi gương Chúa Cha: Chúa Con không làm gì mà không thấy Chúa Cha làm trước. Chúa Cha đã làm việc luôn để chứng tỏ lòng Ngài yêu thương săn sóc con người, nhất là những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi, thì Chúa Giêsu khi đến trần gian Ngài đã cho mọi người thấy Ngài chính là hiện thân của tình thương Thiên Chúa giữa nhân loại. Chúa Giàu có quyền đòi hỏi con người đón nhận Ngài như đón nhận Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, bởi vì Ngài và Cha Ngài là một, ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha. Người Do Thái không tin, đã cho đây là một lời lộng ngôn đáng bị ném đá chết, nhưng đối với những ai chấp nhận tin Chúa, thì không thể tách rời Ngài ra khỏi Chúa Cha.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu như muốn khẳng định rằng: nếu là người môn đệ chân chính, sẽ nói lời của chính Thiên Chúa, và như thế thì: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.
Muốn làm được điều đó để cho mọi người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta phải mặc lấy chính tâm tình của Chúa Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi phục vụ con người cách vô vị lợi trong sự khiêm tốn…
Có thế chúng ta mới lưu lại cho người đương thời và hậu thế gia tài quý giá là chính Chúa Giêsu, nhờ đó, con người hôm nay và mai sau mới nhận ra Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống ngang qua đời sống và hành vi của chính chúng ta.
Mong sao mỗi người chúng ta biết được điều đó để thi hành, ngõ hầu trở thành người có phúc như Chúa Giêsu đã nói: “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!”. Ngược lại, chúng ta đừng như Giuđa, kẻ phản thầy mà hôm nay, Chúa Giêsu đã tiên báo một cách đau đớn: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”
Tin Mừng hôm nay là những lời trăng trối sau cùng của Thầy Giêsu đối với các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc thương khó. Sau khi cúi xuống rửa chân cho từng môn đệ, Chúa Giêsu căn dặn các ông chú ý phục vụ lẫn nhau như Người đã phục vụ. Hơn nữa khi phục vụ người khác là chúng ta đang phục vụ chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc lại lời của Đavít “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Tv 41,10) như để nhắc nhở trong số các môn đệ, có người sẽ phản bội bán Chúa, nhưng không vì thế mà các ông lãng quên bổn phận phải phục vụ. Chính Thiên Chúa biết trước tất cả những bội phản sẽ xảy ra, nhưng Người vẫn yêu thương và yêu đến cùng. Ở đây có một sự kết nối rất chặt chẽ, khi thực thi bác ái, đón tiếp tha nhân là chúng ta đón tiếp chính Thiên Chúa. Tương quan của chúng ta với Thiên Chúa chỉ triển nở và bền lâu nếu chúng ta duy trì tương quan với tha nhân. Ngược lại, khi từ chối tha nhân là chúng ta từ chối chính Thiên Chúa. Không phải chúng ta đến với Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đã đến với chúng ta trước. Người đã đến và tự nguyện ở lại, mang vác mọi gánh nặng khổ đau và tội lỗi của kiếp người. Chúa Giêsu đã trao hiến để lấp đầy mọi khiếm khuyết nơi chúng ta, đã chết để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Trong cuộc sống, giữa dòng đời ngược xuôi, biết bao lần chúng ta đã bước qua nhau mà không quan tâm để ý đến những nhu cầu cần thiết của người khác, không biết có một người đang cần chúng ta giúp đỡ. Trong đời sống thiêng liêng, biết bao lần chúng ta cũng bỏ qua lời mời gọi của Thiên Chúa, khi từ chối thực thi tình bác ái đối với tha nhân, khi từ chối trở nên chứng nhân của tình yêu thương. Biết bao lần Chúa mời gọi chúng ta tham dự vào mầu nhiệm Cứu Chuộc của Thiên Chúa nhưng chúng ta lại từ chối mải mê chạy theo những cám dỗ mời mọc ngọt ngào của thế gian vật chất, của đam mê xác thịt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống xem chúng ta đang là môn đệ của Chúa ở mức độ nào. Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai không lớn hơn người sai đi. Chúa đã đi qua con đường Thập giá, thì chắc chắn người môn đệ của Ngài cũng không có con đường nào khác hơn.
2023
TÌM GẶP CHÚA GIÊSU HÔM NAY
TÌM GẶP CHÚA GIÊSU HÔM NAY
Chủ đề: “Ngày hôm nay phải tìm gặp Chúa Giêsu trong Hội Thánh Người qua nghi thức bẻ bánh.”
Regina Riley có kể một câu chuyện mà nhiều bậc cha mẹ cần lưu tâm tới. Trong nhiều năm trời bà đã từng cầu nguyện cho hai cậu con trai trở về với đức tin… Thế rồi một buổi sáng Chủ Nhật nọ, ngay trong nhà thờ, bà không thể nào tin vào mắt mình nổi khi thấy hai đứa con bà bước vào nhà thờ ngồi vào hàng ghế đối diện bà. Sau đó bà liền hỏi hai cậu con rằng điều gì đã thôi thúc chúng trở lại với đức tin. Cậu nhỏ liền kể lại câu chuyện sau đây:
Vào một buổi sáng Chủ Nhật, vào thời gian nghỉ hè tại Colorado, hai cậu lái xe đổ xuống một con đường ở dốc núi, lúc đó trời đang mưa tầm tã. Bỗng nhiên họ gặp một cụ già không dù che, người ướt sũng đang bước đi dáng điệu khập khễnh. Dù mưa to, cụ vẫn hăng hái tiến bước trên đường. Hai anh em liền dừng xe mời cụ lên. Thì ra ông cụ đang trên đường đi lễ tại một nhà thờ ở cuối con đường cách đó ba dặm (quãng 5km). Hai anh em liền lái xe đưa cụ đến đó. vì trời mưa vẫn còn nặng hạt và chẳng biết làm gì hay hơn, nên hai anh em quyết định chờ đợi cụ già để mang cụ về lại nhà sau khi lễ tan. Nhưng ngay sau đó hai cậu liền nghĩ nếu thế thì nên vào luôn trong nhà thờ hơn là ngồi đợi ngoài xe, thế là trong khi hai anh em lắng nghe các bài đọc Thánh Kinh và tham dự việc bẻ bánh thì có một điều đã làm họ xúc động sâu xa. Về sau họ chỉ có thể cắt nghĩa với bà mẹ như thế này: “Mẹ ơi! Mẹ biết không, lúc bấy giờ giống như là chúng con trở về nhà sau một chuyến đi dài đằng đẵng đầy mệt mỏi”.
Câu chuyện về hai anh em và việc họ gặp gỡ cụ già xa lạ trên con đường vùng Colorado nêu bật được nét tương đồng sâu sắc chứa đựng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Hai người môn đệ trên đường Emmau, đã từng một thời theo Chúa Giêsu với bao niềm hy vọng và nỗi vui mừng. Họ thực sự tin rằng Người được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Vương quốc Thiên Chúa. thế rồi những giờ phút bão tố của thứ sáu tuần thánh đã xảy đến. Mọi niềm hy vọng và mộng mơ của họ tan thành ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ cô quạnh và trở về nếp sống trước kia. Chính trong bối cảnh này, họ đã gặp người khách lạ trên đường đi Emmau vào buổi sáng Phục Sinh. Các môn đệ lắng nghe vị khách ấy, chăm chú nhìn vị này bẻ bánh và một điều gì đó xảy ra đã khiến họ xúc động sâu xa. Vị khách lạ này có xa lạ tí nào đâu mà chính là Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống động trước mắt họ.
Hầu như một chuyện giống y như vậy đã xảy ra cho hai anh em nọ trên đường ở Colorado. Có một thời gian họ đã từng theo Chúa Giêsu mật thiết, từng tin thực Người là Con Thiên Chúa, được Chúa phái đến cứu chuộc thế gian. Thế rồi những ngày giông bão của tuổi thanh niên đã đến. Mọi hy vọng và mộng mơ của họ cũng tan thành ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng, họ bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ hiu quạnh để bước đi theo lối riêng của mình. và chính trong bối cảnh này họ đã gặp cụ già xa lạ trên con đường ở Colorado vào buổi sáng Chủ nhật trời mưa nọ. Cụ già đã nói với hai anh em về Chúa Giêsu không phải bằng lời mà bằng một hành vi gương mẫu đầy anh hùng. Ngay khi hai anh em lắng nghe, tâm hồn họ bắt đầu bừng cháy lên từ bên trong. Thế rồi trong lúc bẻ bánh nơi giáo đường, họ đã khám phá ra Chúa Giêsu mà họ đã đánh mất.
Câu chuyện các môn đệ trên đường Emmau và câu chuyện của hai anh em nọ trên đường Colorado cũng chẳng khác gì câu chuyện riêng của chúng ta. Chúng ta cũng từng gặp những giai đoạn bão táp trong đời khi mà đức tin chúng ta bị tan thành ngàn mảnh vụn. Trong những giai đoạn giông bão này, có lẽ chúng ta đã phạm tội chống lại Hội Thánh, có lẽ chúng ta đã hoàn toàn thất vọng đối với Hội Thánh, thậm chí còn đã từ bỏ Hội Thánh. Thế nhưng một ngày nọ chúng ta gặp được một kẻ nào đó… Có thể là một khách lạ — và qua người khách lạ này chúng ta tìm lại được Chúa Giêsu giữa lòng Hội Thánh Người trong nghi thức bẻ bánh.
Và như thế bài Phúc âm hôm nay chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta ngày nay — đặc biệt đối với những người đang tìm kiếm hoặc những người đã đánh mất Chúa Giêsu.
Thỉnh thoảng chúng ta nghe có người nói: “Tôi tin vào Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu, nhưng tôi không tin vào Giáo hội”. bất cứ lúc nào nghe lời nói này, chúng ta hãy nhớ lại vị khách bộ hành khác đang cùng đồng hành với chúng ta trên đường. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp thánh Phaolô trên đường đi Damas. Sách Công vụ tông đồ ghi lại : “Bỗng nhiên một tia sáng từ trời loé lên quanh ông. Ông liền té xuống đất và nghe có tiếng nói: “Saolô, Saolê, tại sao người bắt bớ Ta?”. Phaolô liền hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng nói liền đáp lại: “Ta là Giêsu mà ngươi đang truy nã” (Cv 9: 3-5). Phaolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Người thôi! Thế rồi Phaolô chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ Người là một. Cái này ở đâu thì cái kia ở đó giống như đầu và thân mình. Chia cắt Chúa Giêsu khỏi Hội Thánh Người, tức cộng đồng các môn đệ Người, thì cũng giống như tách rời chiếc đầu ra khỏi thân mình vậy.
Nhiều năm sau, Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm này trong thư gởi tín hữu Côlôsê như sau: “Chúa Giêsu là đầu thân thể Người, tức Hội Thánh, Người là nguồn sống cho thân thể” (Cl 1: 18). Ngày hôm nay, nếu chúng ta muốn tìm gặp Chúa Giêsu Phục Sinh thì chúng ta phải tìm Người theo lối các môn đệ đã tìm được gặp Người trên đường Damas, theo lối hai anh em nọ tìm được Người trên con đường Colorado tức là tìm gặp Người giữa lòng Hội Thánh, tìm gặp Người trong nghi thức bẻ bánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin nhân từ nhìn đến những kẻ đã bỏ Ngài chết mặc nơi nấm mồ hiu quạnh.
Xin đến với họ như Ngài đã đến với các môn đệ trên đường Emmau.
Xin cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ lần nữa,
Xin khơi dậy ngọn lửa đức tin vẫn còn leo lét trong tim họ.
Xin ngồi xuống đồng bàn với họ,
Xin Ngài tỏ lộ ra cho họ lần nữa, giữa lòng Hội Thánh Ngài, và trong nghi thức bẻ bánh.