2023
Lắng Nghe và Thực Hành Lời Chúa
26.9 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mươi-Năm Mùa Quanh Năm
Er 6:7-8,12,14-20; Tv 122:1-2,3-4,4-5; Lc 8:19-21
Lắng Nghe và Thực Hành Lời Chúa
Cả ba tác giả Nhất Lãm đều kể lại sự kiện Ðức Maria và các thân nhân Chúa Giêsu đi tìm Ngài, nhưng mỗi tác giả có một dụng ý riêng: Matthêu, Marcô xếp đoạn này lên trước phần Chúa Giêsu giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, còn Luca thì đặt sau dụ ngôn ấy, liền sau dụ ngôn chiếc đèn cháy sáng. Luca không đề cập đến việc các thân nhân đến tìm Chúa Giêsu để đưa Ngài về Nazarét, nhưng nhấn mạnh đến điểm này: “Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, đó là người sống trong gia đình Thiên Chúa, là Mẹ, là anh em của Ngài.
Một điểm nữa cần ghi nhận là trong đời sống thực tế, nhiều khi người ta cảm thấy gần gũi thân thiết với những người cùng chung chí hướng, nguyện vọng, hơn là những người ruột thịt, nhất là khi những người ruột thịt ấy không cùng chí hướng, nguyện vọng. Như thế, mối liên hệ sâu xa giữa con người với nhau không phải là liên hệ huyết thống, mà còn là liên hệ của cả tư tưởng, ý chí, tình cảm.
Đức Giê-su đang giảng cho đám đông, thì người ta chạy vào báo : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy”. Chúng ta có thể hình dung ra đám đông đứng chung quanh Chúa Giêsu đông đến độ, Mẹ và anh em của Ngài không thể đến gần được. Và như Tin Mừng kể lại, Ngài không tạm ngưng việc giảng dạy để ra gặp Mẹ và người thân. Và Chúa Giê-su không chỉ không ra gặp, nhưng còn nói những lời như muốn từ chối mẹ và anh em của mình : “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. Theo lời kể của thánh Mát-thêu, lời của Chúa Giêsu giữ khoảng cách với mẹ và những người thân yêu rõ nét và mạnh mẽ hơn “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” ! (Mt 12, 48-49).
Chúng ta hãy đi vào tâm hồn của Đức Maria: Mẹ muốn nói gì với Đức Giê-su khi đến; và khi sau khi nghe lời của Ngài, Mẹ hiểu và cảm như thế nào? Chúng ta chỉ biết rằng, các Tin Mừng không còn nhắc đến Đức Maria nữa, cho đến khi Đức Giê-su đi vào con đường Thập Giá (Ga 19, 25-27; và một cách gián tiếp trong Lc 23,27). Chắc chắn Mẹ đã ghi nhớ lời của Đức Giê-su, suy đi nghĩ lại trong lòng, đã hiểu, và đi theo Đức Giê-su cách khiêm tốn như một người môn đệ trong tương quan mới và trong Gia Đình mới của Người, và cũng là Gia Đình mới của Mẹ nữa, vì Mẹ là Mẹ của Đức Giê-su « cách duy nhất » đến độ, Mẹ cũng là Mẹ của mọi người môn đệ Đức Giê-su, trong đó có chúng ta.
Chúa Giêsu đến trần gian để xây dựng một gia đình duy nhất của Thiên Chúa, gia đình của những người cùng một mục đích là nguyện cho Danh Cha được cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Ðể cho thấy sự duy nhất về cùng một gia đình đó, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Ðó là hình ảnh Chúa Giêsu muốn diễn tả khi Ngài nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”.
Lắng nghe! Là thái độ biểu lộ mối quan tâm, sẵn sàng mở lòng ra để hiểu, để đón nhận, để cảm thông, để chia sẻ và để đáp ứng…Vì thế, lắng nghe là thái độ của tình yêu. Sách xuất hành nói đến việc Thiên Chúa nghe thấy tiếng rên siết, kêu than của con cái Hip-ri dưới ách nô lệ người Ai cập. Người đã nghe, đã xót thương và đã sai tôi tớ Người là ông Mô-sê giải thoát họ (x. Xh 2,2 tt). Người đã ký kết giao ước với họ tại Si-nai, trong đó Người hứa sẽ bảo vệ và chúc phúc cho dân và dân hứa sẽ nghe và thực hành lời Người (x, Đnl 4,13; 7,27 tt). Việc nghe và thực hiện lời Người sẽ bảo đảm sự an ninh, thịnh vượng và hạnh phúc của họ. Như thế sự lắng nghe và thực hiện lời Thiên Chúa như một đáp trả tình yêu cho tình yêu; như là phương thế tuyệt diệu để con người hoàn trọn mục đích đời mình.
Trong tình yêu thương quan phòng, Thiên Chúa vẫn luôn lên tiếng. Người đã bày tỏ chính mình và ý định của Người qua vũ trụ, qua thiên nhiên, qua các Ngôn sứ, qua các biến cố lịch sử, và đặc biệt qua người con rất yêu dấu của Người – Đức Giê-su Ki-tô. Sự hiện diện của Người, tiếng nói của Người mời gọi khi cấp bách dữ dội như “khói bốc lửa thiêu” (Xh 20,18…), khi nhẹ nhàng tha thiết như ngọn gió thoảng (x. 1V 19,12), nhưng cũng vẫn rất quyết liệt vì đó là lựa chọn giữa sống – chết của con người. Người ta có thể đặc biệt nghe thấy tiếng của Người trong tĩnh lặng, nơi sâu thẳm tâm hồn – vì lời Người là Lời của tình yêu. Đồng thời người ta cũng có thể nghe được tiếng nói của Người xuyên qua các biến cố trong cái nhìn đức tin và thái độ sẵn sàng lắng nghe. Thiên Chúa luôn quan tâm và yêu thương con người. Người luôn lắng nghe tiếng họ kêu xin, giãi bày, tâm sự… đồng thời Người mời gọi con người lắng nghe Người để được an ủi, hướng dẫn, biết được cách hành động đúng đắn theo thánh ý của Người hầu được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.
Kinh nghiệm nghe và sống Lời Chúa sẽ làm cho chúng ta nhận ra rằng, Lời Chúa không phải là chữ viết của lề luật hay mệnh lệnh, nhưng là Lương Thực nuôi sống, là Ánh Sáng soi đường và là Sự Sống, có sức mạnh tái sinh chúng ta ; Lời Chúa cũng cuốn hút chúng ta nữa từ trong chốn sâu thẳm của chúng ta, bởi vì Lời Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, vẫn đang tạo dựng chúng ta và sẽ tái tạo dựng chúng ta để chúng ta trở thành tạo vật mới trong Gia Đình mới của Thiên Chúa.
Ơn huệ Lời Chúa, ơn huệ Mình và Máu của Chúa, và nhất là ơn tha thứ của Chúa, sẽ tái sinh chúng ta, tái tạo con tim chúng ta và làm cho chúng ta trở thành con người mới trong Gia Đình mới của Chúa. Những ơn huệ này Chúa vẫn ban cho chúng ta cách quảng đại nơi Thánh Lễ, để tái sinh chúng ta mỗi ngày cho Chúa và cho những người thân yêu của Chúa, trong đó Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
Với ý nghĩa đó, Ðức Maria hai lần xứng đáng làm Mẹ Chúa Giêsu: Mẹ theo huyết thống và Mẹ của Thân mình mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Chẳng những là Mẹ thật vì đã sinh ra Chúa Giêsu, mà còn là Mẹ vì đã thực thi ý Cha trên trời. Trong biến cố truyền tin, Ðức Maria đã thưa với Sứ thần: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng theo lời thiên thần truyền”. Ðiều đó nói lên suốt đời Ðức Maria, người luôn làm theo ý Chúa.
Ước gì, sự sống mỗi ngày của chúng ta được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, khởi đi từ con tim biết lắng nghe Lời của Ngài, trong cầu nguyện. Và như thế, như Đức Mẹ, chúng ta sẽ trở thành « người thân » đích thực của Đức Giê-su.
2023
Ngọn Ðèn Ðức Tin
25.9
Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Năm Mùa Quanh Năm
Er 1:1-6; Tv 126:1-2,2-3,4-5,6; Lc 8:16-18
Ngọn Ðèn Ðức Tin
Trong Tin Mừng hôm nay, khi đưa ra hình ảnh chiếc đèn, Chúa Giêsu muốn nối lại truyền thống thực tiễn của Cựu Ước. Cựu Ước không thích những lý luận trừu tượng, uyên bác của Hy Lạp. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước không lý giải về những phẩm tính trừu tượng của Ngài, nhưng tìm cách đo lường sự trung thành của Ngài trong lịch sử nhân loại. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước luôn nói đến những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử con người. Khi Thiên Chúa phán một lời, lời đó không phải là một lời nói suông, mà trở thành thực tế; Thiên Chúa không chỉ nói qua các tiên tri, nhưng cuối cùng Lời của Ngài đã thành xác phàm.
Chiếc đèn được đốt lên phải đặt trên cao để soi cho mọi người trong nhà. Ðây là hình ảnh cuộc sống đức tin của người Kitô hữu: cũng như chiếc đèn, đức tin cần phải được thắp lên và chiếu sáng; nó phải được đốt lên bằng những hành động cụ thể hằng ngày. Thiên Chúa là Ðấng chân thật, bởi vì sự chân thật ấy được thể hiện bằng một chuỗi những yêu thương đối với con người. Người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi cuộc sống của họ thể hiện chính cuộc sống của Chúa, là yêu thương và phục vụ.
Chủ đề ánh sáng được lồng trong tất cả mặc khải Thánh Kính. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng và chính Ngài là ánh sáng. Đức Kitô còn khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5) và Ngài yêu cầu người tín hữu hãy trở thánh ánh sáng cho trần gian (x Mt 5,14). Ngài muốn ánh sáng nơi chúng ta hãy chiếu tỏ ra, xoá tan mọi bóng đêm của trần gian này.
Tin Mừng của Thánh sử Luca hôm nay vỏn vẹn chỉ gồm 3 câu trong chương 8, nhưng đã nói lên ý nghĩa của cách thức lãnh nhận và truyền giảng Lời Chúa Giêsu. Đó là nhiệm vụ của người môn đệ theo Chúa Kitô và thực hành bằng việc sống lời Thầy của mình trong cuộc sống hàng ngày.
“Chẳng ai đốt đèn rồi lấy hũ che đi hoặc đăt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng” (c.16). Khi đọc câu này, hẳn chúng ta đều biết đây là điều không thể xảy ra. Chúng ta thường thấp đèn vì muốn thấy sự vật chung quanh, vì quanh chúng ta toàn là một màu đen, một bóng tối. Chúng ta thích ánh sáng vì ánh sáng giúp ta nhìn thấy những vật khác rõ hơn, chính xác hơn. Thế nhưng ở đây Chúa Giêsu lại nói : thấp đèn rồi lấy hũ che đi hay đặt dưới gầm giường, ý nói: khi chúng ta được Lời Chúa soi dẫn (x. Tv 118). Chúng ta đã lấy hũ che đậy bằng cách không sống thể hiện Lời Chúa. Một người khôn ngoan là người biết đặt đèn trên đế, để những ai vào được nhìn thấy ánh sáng lúc này đời sống của họ để Lời Chúa hướng dẫn và họ trở thành ánh sáng cho người khác, cho những ai muốn đi tìm ánh sáng. Họ trở thành chứng nhân cho nguồn sáng vĩnh cửu.
“Chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” (c.17). Chúa Giêsu khẳng định về những hành vi được thực hiện trong bóng tối sẽ bị ánh sáng phơi bày. Khi ánh sáng đến, bóng tối sẽ lùi xa. Đây cũng được kể như việc Chúa Giêsu đến trần gian. Ngài đến xoá tan mọi ngõ ngách của bóng tối thanh tẩy trần gian bằng ánh sáng. Bóng tối đó là tội lỗi, là ma quỉ, là bệnh tật… đang đè nặng trên đời sống con người. Đức Kitô đến giải thoát họ như lời Ngài đã đọc trong hội đường Nagiarét khởi đầu cho sứ vụ rao giảng để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho ngưòi mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức”(x.Mt 4,18). Ngài đến rao giảng Lời Cha, và làm cho lời Cha được sống động cụ thể trong hành vi của Ngài, và cái chết là lời chứng hùng hồn nhất cho bài giảng của Ngài về Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người.
Khi Chúa Giêsu rao giảng và làm chứng cho Lời Cha, Ngài muốn chúng ta cũng trở thành những người môn đệ của Ngài. Ngài cảnh báo về cách nghe và đón nhận Lời “ hãy để ý tới cách thức anh em nghe” (c.18a). Chúng ta có thể là những mảnh đất sỏi đá, hay vệ đường, hay là một bụi gai um tùm…. mà Lời Chúa không thể nào đâm chồi nẩy mầm được ( x .8,4-15).
Lời Chúa như sương sa, như mưa rơi…nhưng lòng chúng ta lại đóng kín, khô cằn nên Lời Chúa vẫn chỉ ở bên ngoài, không thấm nhập vào tâm hồn chúng ta được. Ấy là cách chúng ta nghe mà không được biến đổi. Chúng ta không muốn Lời Chúa biến đổi tâm hồn mình. Kết quả của việc sinh hoa kết quả là do Lời Chúa được mỗi người đón nhận như thế nào. Cùng một loại hạt giống Lời Chúa nhưng mảnh đất tâm hồn của chúng ta được vun xới, cày bừa khác nhau, nên hiệu quả cũng rất khác nhau. “Ai đã có thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng bị lấy mất” (18b).
Ở dây. Chúng ta có thể hiểu về đức tin truyền thống đã có nơi người Israel, đức tin này hướng về Đấng Mêsia- Chúa Giêsu, nhưng có người nghe theo Chúa Giêsu thì được cho thêm là sự hiểu biết về Nước Trời, còn những người khác không nghe, không hiểu…thì đức tin truyền thống của họ sẽ bị mai một dần và ngày càng yếu đi. Đây là lời thức tỉnh mạnh mẽ của Chúa Giêsu đối với những người cứng lòng tin. Đó cũng là hậu quả mà họ sẽ đón nhận, cân xứng với hành vi của họ.
Gương sáng phải được phát xuất từ trong tâm, trong đức tin. Vì thế, gương sáng của con người phải được thực hiện trong đời sống nội tâm và việc làm cụ thể, nếu không sẽ giống như thắp đèn mà bịt kín (Lc 8, 17) sẽ nguy hại cho bản thân, vì gương sáng không có việc làm sẽ không có tác dụng, chỉ là lời nói suông không mang đến sự sống cho linh hồn. Gương sáng của chúng ta phải được thực hiện dưới sự hướng của Chúa Thánh Thần theo thánh ý Thiên Chúa, nếu không có Chúa Thánh Thần hướng dẫn thì việc làm của chúng ta trở nên vô nghĩa, cái tôi hèn hạ sẽ lộ ra, cuối cùng chỉ là những thất vọng, những chán trường và chẳng có gì, ngay cả cái mình tưởng là có cũng trở nên không, như khi trong giờ chết chẳng mang được gì.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ, hãy biết lắng nghe tiếng Chúa nói trong lương tâm của mỗi con người, tùy thuộc vào cách nhận biết Chúa Thánh Thần, Chúa nói: “Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất.” Khi sống gương sáng thì ngay ở đời này tâm hồn cũng luôn bình an, cuộc sống luôn thanh thản, đời sống luôn đầy đủ cả tinh thần và vật chất, sau khi kết thúc cuộc đời dương thế thì sẽ được sự sống đời đời.
2023
Tiếp nối con đường theo Chúa
22.9
Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
1 Tm 6:2-12; Tv 49:6-7,8-10,17-18,19-20; Lc 8:1-3
Tiếp nối con đường theo Chúa
Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu có nhóm các môn đệ là những người sát cánh trực tiếp với Ngài và làm chứng cho Ngài (x. Lc 23,49). Ngài cũng có nhóm phụ nữ đi theo qua các làng mạc và trên các nẻo đường Galilê. Cả hai nhóm là nhân chứng cho những hành động, quyền năng và những giáo huấn của Chúa Giêsu và sẽ sát cánh với nhau. Các phụ nữ tuy không rao giảng nhưng lo việc ăn uống cho những người truyền giáo: “Các bà đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3).
Sứ mệnh và trách nhiệm rao giảng sứ điệp Tin mừng, không chỉ dành riêng cho nam giới. Theo như thánh sử Luca hôm nay cho biết, thì trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu, ngoài những môn đệ mà Chúa đã tuyển chọn, còn có các phụ nữ nữa. Như vậy chứng tỏ Chúa Giêsutôn trọng phẩm giá người phụ nữ và đánh giá cao phần đóng góp của họ trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta có một quan niệm đúng đắn hơn về người nữ để biết tôn trọng, yêu thương họ. Đồng thời chúng ta cũng cầu xin cho chính những người phụ nữ biết ý thức được phẩm giá cao quý của họ, hầu sống xứng đáng và góp phần tích cực vào những công việc tông đồ trong Giáo hội.
Mãi đến thế kỷ 14, người ta vẫn còn xem người phụ nữ như một hạng người nguy hiểm, một cám dỗ triền miên, một tạo vật thấp hèn, hay cùng lắm chỉ là phương tiện để bảo tồn nòi giống. Một quan niệm và cung cách đối xử như thế đối với người phụ nữ vẫn còn rơi rớt trong thời đại chúng ta: trong biết bao xã hội hiện đại hôm nay, người phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử so với nam giới. Thời Chúa Giêsu, dĩ nhiên thân phận nữ giới còn bị xử tệ hơn. Sở dĩ người ta đã có những ý nghĩ xấu về những phụ nữ này, vì họ đã nhìn người phụ nữ như là hậu duệ của Eva, kẻ đã quyến dũ Adong ăn trái cấm, để rồi kéo cả nhân loại vào vòng tội lỗi.
Tin Mừng cho chúng ta thấy cách cư xử của Chúa đối với nữ giới. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến, có người đã từng bị quỉ ám, bị người đời khinh khi, xua đuổi, bị dân chúng coi là những người tội lỗi, có mặt trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ mà còn muốn đề cao sự bình đẳng của người phụ nữ, muốn giải phóng người phụ nữ khỏi suy nghĩ hạn hẹp của những người đương thời. Đối với Đức Giêsu, mọi người bất luận là ai, cũng đều được mời gọi để loan báo Tin Mừng qua cách sống cũng như qua giới tính của mình. Mỗi phần tử trong Giáo Hội đều có một chỗ đứng, một vai trò riêng. Tất cả đều bổ túc cho nhau, để cùng nhau phục vụ hầu mở mang Nước Chúa. Trong chiều hướng tư tưởng này, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội ý thức và dấn thân cho công việc truyền giáo, không phân biệt giới tính, địa vị, giai cấp, khả năng…tất cả là vì tin mừng Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng không nói nhiều về các phụ nữ này, có nhắc tới một người trước đây bệnh hoạn bị bảy quỷ ám (x. Lc 11,26), Maria gọi là Mađalêna (một làng gần hồ Gênêsaret); một bà thuộc xã hội thượng lưu, Gioanna, đã từ bỏ chồng và triều đình Hêrôđê, bà Sudanna (Lc 8,3), Maria mẹ của Giacôbê (Lc 24,10), Salômê (Mc 15,40) và mẹ của anh em nhà Dêbêđê (Mt 27,56).
Tuy nhiên Tin Mừng ghi nhận các bà xuất hiện trong những thời điểm quan trọng của Thầy: Lúc Chúa Giêsu chết trên thập giá và lúc chôn cất Người (x. Lc 23,49-55), ở ngôi mộ trống ở đó đặc biệt có mặt bà Maria Mađalêna và bà Gioanna; người ta cũng sẽ gặp các bà này với nhóm Mười hai và mấy người khác trong phòng lầu trên trước lễ Ngũ tuần (Cv 1,14). Ở đây các bà sống với Mẹ Chúa Giêsu, các anh em Chúa và nhóm Mười hai.
Chúa Giêsu không ngừng thi hành sứ mệnh của mình. Người đi khắp làng mạc, thành phố để rao giảng Tin mừng và quên cả mệt nhọc. Các môn đệ và các phụ nữ đi theo Đức Giêsu cũng cộng tác với Ngài trong sứ mệnh ấy. Đặc biệt tác giả Luca cho biết những người phụ nữ theo Chúa là những người đã được Chúa trừ quỷ và chữa lành bệnh. Họ lấy của cải giúp đỡ Chúa. Tất cả những ai được Thiên Chúa kêu gọi và ban ơn đều cùng với Đức Giêsu đi loan báo Tin mừng cứu độ.
Giữa một xã hội Do thái trọng nam khinh nữ, thậm chí người phụ nữ được xếp hạng thứ sáu, đứng sau cả vật nuôi. Người phụ nữ Do thái hầu như không có tiếng nói, đến cả việc cưới xin và ly hôn cũng do quyết định của người nam. Xuyên suốt Thánh kinh Cựu ước, hầu như lãng quên bóng dáng của người phụ nữ, rải rác một ít chỗ nhắc tới một số phụ nữ, nhưng phần lớn thường là những chuyện chẳng vẻ vang gì (trừ Judith, Esther và vài tiên tri), thậm chí còn coi họ như là cạm bẫy cho đàn ông. Các luật sĩ Do thái tuyệt đối không nhận phụ nữ làm đồ đệ, họ phân biệt đối xử trong mọi sinh hoạt xã hội, kể cả việc phụng tự và các nghi lễ thanh tẩy.
Trong bài Tin mừng hôm nay, để nói lên sự bình đẳng giữa nam và nữ, Đức Giêsu cho các phụ nữ tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Đức Giêsu và nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng: trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Đức Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng: họ là những người đồng hành với các Tông đồ trong việc loan báo Tin mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.
Đồng hành với Đức Giêsu, không chỉ có Nhóm Mười Hai, mà còn có các phụ nữ – là những người đã được Ngài trừ cho khỏi quỷ và chữa lành bệnh. Tác giả Luca còn cho biết thêm, họ “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ”. Tuy nhiên, không phải chỉ có vậy, đi theo thầy Giêsu, họ còn bị đòi hỏi nhiều hơn nữa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”(Mt 10,37). Như vậy, tất cả mọi người, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, kể cả hạng người tội lỗi, thu thuế hay chài lưới đều có cơ hội như nhau trong việc bước theo Đức Giêsu. Chỉ cần họ dám sẵn sàng từ bỏ mọi sự để “cùng đi với Ngài”.
Thế giới luôn cần đến bước chân của những người theo Chúa. Xin cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận tiếp nối con đường Chúa: Tích cực dùng tất cả các khả năng và ân lộc Chúa ban để đóng góp công cuộc loan báo Tin Mừng Phục sinh.
2023
Hãy trở về như Matthêu
21.9 Thánh Mátthêu, Tông Đồ Thánh Sử
1 Tm 4:12-16; Tv 111:7-8,9,10; Lc 7:36-50
Hãy trở về như Matthêu
Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: “Hãy theo Ta”.
Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Ðó là mầu nhiệm đức tin. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha. Thái độ, cử chỉ, hành động của Chúa trong mọi lần mời gọi tông đồ đều làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của mầu nhiệm ơn gọi. Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: “Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi” (Mt 9, 13) và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9, 12).
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh. Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: “Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa thuế vụ trong xã hội Do Thái là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình. Họ là hình ảnh của những gì là xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình. Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: Một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi. Vì thế chúng ta hiểu thêm tại sao người biệt phái cầu nguyện tách biệt và khinh chê người thu thuế, còn người thuế vụ thì không dám đến gần bàn thờ nơi Thiên Chúa ngự, vì sự bất xứng của mình, anh ta ở dưới cúi đầu, đấm ngực ăn năn (x. Lc 18,9-14).
Đã không nên ở gần, lại càng không bao giờ ăn uống cùng bàn với họ để khỏi bị lây nhiễm hoặc bị ô uế. Hôm nay, Chúa Giêsu lại gọi người thu thuế Matthêu theo Ngài để trở thành môn đệ, một hành động khiến người Do Thái không thể hiểu được. Thật lạ, một người xấu xa, dơ bẩn đó được đặt làm môn đệ, rồi chính Đức Giêsu lại đồng bàn với những kẻ thu thuế như là những người đồng hội, đồng thuyền với kẻ tội lỗi…: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế”.
Theo phong tục Do Thái, khi cùng ăn uống với ai, đó là dấu hiệu một sự hiệp thông, một sự chia sẻ tư tưởng, tình cảm và là một cử chỉ thân thiết và quan tâm của mình đối với người được. Mời ai ăn cơm, là một vinh dự, tỏ ra muốn hòa bình, thân thiện, tin tưởng và tha thứ (2V 25,27-29). Cùng đồng bàn với người thu thuế, Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia… Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc.
Vâng, chính Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa những người bất hạnh trong đó có cả những tội nhân. Tội nhân biết nhìn nhận tình trạng thiếu thốn, tình trạng tội lỗi, để Đức Kitô, vị thầy thuốc đến cứu chữa (x. Mt 9,12-13) như Ngài tuyên bố: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Chúng ta nhớ lại sắc màu tái tím cõi lòng của người thu thuế tại đền thờ, đã được Thiên Chúa cứu chữa và ông trở nên người công chính (x. Lc 18,9-14).
Chúng ta với thời gian bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài, vị thầy thuốc băng bó, chữa lành và làm cho công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm được tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài, vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ tự cho mình là công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).
Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
Dường như thánh Matthêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc Âm thánh Matthêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu độ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Matthêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.
Matthêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Thánh Matthêu là dấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Matthêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ’’, và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”