2023
Bi thương nhưng không mất đường hy vọng
15.9 Đức Mẹ Sầu Bi
1 Tm 1:1-2,12-14; Tv 16:1-2,5,7-8,11; Lc 6:39-42
Bi thương nhưng không mất đường hy vọng
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Ngẫm nghĩ đến việc mừng lễ Đức Mẹ sầu bi, dường như ta cảm thấy có cái gì đó kỳ kỳ, không ổn thì phải! Đời thuở nhà ai lại đi ăn mừng lễ một người mẹ khi người mẹ đó gặp cảnh sâu thảm, bi thương vì phải chứng kiến cái chết của con mình bao giờ! Ở trong nỗi khổ đau, sầu bi thì làm sao có cái gì để mà ăn mừng?!
Giáo hội đặc biệt kính nhớ đến Đức Mẹ sầu bi, nhớ đến hình ảnh Mẹ đau khổ, âu sầu ôm xác Chúa Giêsu dưới chân thập tự giá. Không phải ngãu nhiên mà lễ nhớ đến Đức Mẹ sầu bi lại được cử hành ngay sau ngày suy tôn Thánh giá – tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn đầy đau thương của Con Thiên Chúa để cứu chuộc muôn người. Nỗi đau mà Người gánh chịu vô cùng to lớn, nhưng nỗi đau ấy nơi người Mẹ chứng kiến cảnh Con mình chịu đớn đau cũng không hề thua kém. Chính vì thế, khi tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên nhớ đến người Mẹ cũng chịu nỗi đớn đau như ngàn mũi dao xuyên tim.
Hôm nay mừng lễ Đức Mẹ Sâu Bi, Giáo hội nhắc nhớ cho chúng ta biết về giá trị của hạnh phúc, giá trị của niềm hy vọng trong chính nỗi khổ đau và chết chóc. Ngay ở bài đọc 1 trích trong thư gửi tín hữu Do thái hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về niềm hy vọng trong đau thương, hoạn nạn. Tác giả thư Do thái viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính”. Suy gẫm đoạn lời Chúa này, bấy lâu nay ta không khỏi thắc mắc: Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà xin Cha Ngài khỏi phải chết và rõ ràng tác giả thư Do thái bảo rằng Ngài đã được nhậm lời! Nhưng thực tế, Đức Giêsu vẫn phải chết tức tưởi trên thập giá! Vậy nghĩa là sao?
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh : Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà. (c. 19, 26)
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
Dưới chân Thánh Giá, Mẹ Maria nhận lấy Giáo Hội của Chúa Giê-su, và Thánh Gioan, người môn đệ Chúa Giê-su quý mến, đã thay mặt anh em tông đồ, nhận Mẹ là Mẹ Giáo Hội, và đưa Mẹ về nhà mình, đón Mẹ về làm Mẹ Giáo Hội. Từ lời xin vâng đón nhận cưu mang Con Chúa, đến lời xin vâng đón nhận Giáo Hội của Chúa Giê-su, Mẹ Maria đã âm thầm tự hiến đời mình cho Thánh Ý Thiên Chúa được thành toàn để nhân loại được cứu rỗi. Đúng như lời tiên tri Simêon nói với Mẹ: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà.
Lễ Mẹ sầu bi là một dịp cho mỗi người chúng ta biết ý thức chấp nhận tất cả những nghịch cảnh trong cuộc sống, để thanh luyện bản thân, và để đồng công với Chúa Kitô. Đức Maria, Hiền Mẫu của chúng ta, đã dạy và làm gương cho chúng ta đó là: đừng than vãn giữa những đau khổ thử thách. Mẹ khuyến khích chúng ta hãy liên kết những đau khổ của chúng ta với lễ hy sinh của Con Mẹ, và hiến dâng những đau khổ ấy như hiến lễ để mưu ích cho bản thân, gia đình, Giáo Hội, và toàn thể nhân loại.
2023
Huyền nhiệm của Tình Yêu
14.9
Tôn Vinh Thánh Giá
Cl 3:12-17; Tv 150:1-2,3-4,5-6; Lc 6:27-38
Huyền nhiệm của Tình Yêu
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Đàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống.
Trước khi Đấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Đức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Đó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Chúa Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Đức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Đức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Kitô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giêsu, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giêsu trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giêsu là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giêsu, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Kitô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyển sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái”. Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu”.
Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại…
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
2023
Các Mối Phúc Thật
13.9 Thánh Gioan Chrysostom, Gmtsht
Cl 3:1-11; Tv 145:2-3,10-11,12-13; Lc 6:20-26
Các Mối Phúc Thật
Sự mơ hồ và mưu đồ trong thời đại Thánh Gioan Kim Khẩu, vị thuyết giáo đại tài của Antioch, là đặc tính của bất cứ ai có địa vị sống ở thành phố lớn trong thời ấy. Được đưa đến Constantinople sau mười hai năm sống đời linh mục ở Syria, bỗng dưng Thánh Gioan thấy mình là nạn nhân bất đắc dĩ của vị hoàng đế mưu mô muốn đưa ngài làm giám mục của thành phố lớn nhất triều đình. Là một người khổ tu, không bệ vệ nhưng có phẩm cách, và bị đau bao tử vì những ngày sống trong hoang địa như một ẩn sĩ, Thánh Gioan bắt đầu chức giám mục dưới mây mù chính trị của triều đình.
Nếu thân xác ngài yếu đuối thì miệng lưỡi của ngài lại mạnh dạn. Nội dung các bài giảng của ngài, điều ngài dẫn giải về Kinh Thánh, không bao giờ sai vấn đề. Có khi những quan điểm ấy chọc giận giới quyền cao chức trọng. Có khi một số bài giảng kéo dài đến hai giờ đồng hồ.
Lối sống của ngài ở triều đình không được một số cận thần ưa thích. Ngài đề nghị một chỗ ngồi khiêm tốn cho các kẻ bợ đỡ hàng giáo phẩm đang chầu chực để được hưởng ơn mưa móc của triều đình và giáo hội. Thánh Gioan phàn nàn về nghi thức triều đình đã đưa ngài lên địa vị cao hơn các viên chức chính phủ. Ngài không phải là người muốn được ưu quyền.
Vì nhiệt huyết nên ngài hành động. Những giám mục hối lộ để được quyền cao chức trọng đều bị truất phế. Nhiều bài giảng của ngài kêu gọi những hành động thực tiễn để chia sẻ của cải cho người nghèo. Người giầu không thích thú gì khi nghe thánh nhân nói rằng, sở dĩ có của cải trần gian là vì Adong phạm tội, cũng như các ông không thích nghe ngài nói về sự trung tín trong hôn nhân của người chồng cũng giống như người vợ. Đối với vấn đề công bình và bác ái, Thánh Gioan không bao giờ chấp nhận thái độ kỳ thị trong việc áp dụng.
Vì lối sống tách biệt, vì tính khí thẳng thắn, nhất là khi trên tòa giảng, Thánh Gioan chắc chắn là mục tiêu để nhiều người chỉ trích và hục hặc cá nhân. Ngài bị kết tội tham ăn uống một cách lén lút. Vì trung thành trong công việc linh hướng cho một quả phụ giầu có, là bà Olympia, ngài đã bị cho là giả hình trong vấn đề của cải và bác ái. Hành động của ngài chống với các giám mục bất xứng ở Tiểu Á bị các giáo sĩ khác coi là hám danh, lạm dụng quyền thế trái với quy tắc giáo luật.
Hai nhân vật nổi tiếng thời ấy đã đích thân làm mất uy tín Thánh Gioan là Theophilus, là Tổng Giám Mục Alexandria, và Hoàng Hậu Eudoxia. Theophilus sợ rằng địa vị của Đức Giám Mục Constantinople ngày càng quan trọng nên đã nhân cơ hội kết án Thánh Gioan là dung dưỡng tà thuyết. Đứng sau Theophilus và các giám mục không ưa gì Thánh Gioan là hoàng hậu Eudoxia. Bà bực tức với bài giảng của thánh nhân về sự tương phản giữa giá trị phúc âm và cuộc sống xa hoa của triều đình. Không biết vô tình hay cố ý, một số bài giảng của ngài đề cập đến Jezebel* đáng ghê tởm và Herodias** vô đạo như những đồng minh của bà hoàng hậu, là người sau cùng đã xoay xở để Thánh Gioan phải lưu đầy. Ngài chết trong cảnh đầy ải năm 407.
Jezebel là một cái tên đã trở thành biểu tượng, đồng nghĩa với xảo trá và tội lỗi và thường để gán cho những phụ nữ dối trá một cách trơ trẽn.
Herodias là người đã dùng nhan sắc để lấy người em rể có quyền thế là vua Hêrôđê Antipas. Herodias là người đã mưu mô để giết Thánh Gioan Tẩy Giả.
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo; đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Chúa Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.
Chính Chúa Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Chúa Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời luôn coi họ như những bạn. Sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.
Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Chúa Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.
Phải chăng Chúa Giêsu là người cổ hủ, lối sống lỗi thời và Ngài cổ súy cho cái nghèo để rồi những ai muốn đi theo Ngài thì phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Thưa! Hẳn là không rồi! Qua mối phúc này, Chúa Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc mấy hồi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Chúa Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.
Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.
Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.
Khi chúng ta lâm cảnh nghèo đói và gặp đau khổ trong cuộc sống trần gian, chúng ta hãy tin tưởng vào Lời Chúa hứa với hy vọng để được hạnh phúc, vì Nước Trời là của anh em, anh em được no thoả, anh em sẽ được vui mừng, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Nếu chúng ta được Chúa ban giàu có, thì chúng ta phải biết dùng vật chất để phát triển xã hội, giúp đỡ người nghèo đói, nâng cao đời sống văn minh, phục vụ tha nhân trong tinh thần bác ái, từ thiện, thì đó là cái giàu hạnh phúc, vì biết dùng của cải vật chất để được công phúc trên trời.
Chúng ta đừng bao giờ dừng lại trong sự thoả mãn hạnh phúc trần gian, nhưng phải tìm sự thoả mãn với những thực tại thiêng liêng để vươn mình lên, để định hướng cho sự sống đời đời của mình. Chúng ta đừng ỷ lại với cái vui thú trần thế mà tự mãn cho bản thân, không màng chi đến niềm vui hạnh phúc đời đời. Chúng ta hãy lo làm vinh danh Thiên Chúa, nếu mình được vinh danh thì hãy vinh danh trong Chúa, vì được diễm phúc hiệp thông với Chúa, vinh danh vì Chúa nghĩa là mọi sự đều bởi Chúa ban cho, vinh danh với Chúa vì mọi việc chúng ta làm để tôn vinh danh Chúa. Chúa Giêsu luôn nhắn nhủ chúng ta phải tìm đến hạnh phúc đích thực là thứ hạnh phúc có Chúa ở cùng trong cuộc sống đời này và đời sau.
2023
Tuyển chọn
12.9 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Cl 2:6-15; Tv 145:1-2,8-9,10-11; Lc 6:12-19
Tuyển chọn
Khi biết được giới lãnh đạo Do thái đang tìm cách loại trừ mình, Đức Giêsu trải qua một đêm dài cầu nguyện với Cha Ngài và đến sáng ngày hôm sau, Ngài quyết định chọn 12 vị tông đồ. Những vị tông đồ được Chúa tuyển chọn là những con người rất đỗi bình thường giữa dân chúng, chứ không nổi bật hay lỗi lạc gì hơn dân chúng. Chúa chọn các ngài không phải các ngài có tài cán gì, nhưng vì các ngài có khả năng ứng đáp lời mời gọi của Chúa và chấp nhận để Chúa uốn ắn, điều chỉnh con người của các ngài.
Các ngài sẽ là biểu tượng và nên móng của một Israel mới mà Chúa sẽ thiết lập vì Israel cũ không còn khả năng dung nạp hay thông truyền ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa cho muôn dân nữa. Nói cách khác, trên nền tảng 12 tông đồ (đại diện cho mười hai chi tộc Israel) Chúa khôi phục nhà Israel và Israel mới đươc khôi phục có khả năng chuyển tải ơn cứu độ phổ quát cho muôn dân tộc.
Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu đi lên ngọn núi và cầu nguyện: Chúa Giêsu là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1.22.32.40-46 23,34.46). Ngài cầu nguyện tha thiết trong những lúc quan trọng (3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện “suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm là hết sứ quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài và quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
Đó là việc gì? là việc tuyển chọn từ số đông môn đệ ra 12 người mà Ngài gọi là tông đồ:
Khi ghi nhận các tông đồ được tuyển chọn khỏi hàng ngũ môn đệ, Lu Ca tỏ ra quan tâm tới các tác vụ trong Giáo hội. Quan tâm này sẽ được khai triển nhiều hơn nữa trong quyển công vụ (chẳng hạn Cv 6,17). Môn đệ là tất cả những ai “đi theo” Chúa Giêsu; còn tông đồ là những môn đệ được tuyển chọn kỹ để làm “cán bộ”. Điều kiện được tuyển chọn là:
Đã từng sống với Chúa Giêsu và chứng kiến việc Ngài chết và sống lại;
Được “sai đi” (đây là ý nghĩ của chữ “tông đồ” apostolos) để loan báo Tin Mừng sống lại ấy. Lu Ca dành riêng danh hiệu “tông đồ” cho nhóm tông đồ 12 vì chỉ có họ mới hội đủ hai điều kiện này. ngay cả với Phaolô, Lu Ca cũng không gọi ông là “tông đồ”, vì Phaolô là tông đồ theo một nghĩa khác hơn.
Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha trước khi chọn các Tông đồ. Điều này chứng tỏ việc tuyển chọn các Tông đồ rất quan trọng, vì các ngài tiếp tục sứ mệnh của Đức Giêsu. Chúa gọi và chọn họ chứ họ không cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do Chúa chọn. Các môn đệ lại với Ngài, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi, họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có những người ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ. Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nòng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến Lời Ngài.
Đối với Chúa Giêsu, con số 12 có một giá trị tượng trưng: các Tông đồ là 12 viên đá sống thay thế cho 12 viên đá lấy ở sông Giođan (Gs 4,1-6) cho đến thời mới. Các ngài là tổ phụ cho dân tộc mới và là quan xét để xét xử các công dân của vương quốc tương lai.
Ngày nay, tiếp nối sứ vụ của thánh Phêrô là Đức Giáo hoàng, và tiếp nối sứ vụ của các Tông đồ là các Giám mục, và Linh mục là đại diện của Giám mục trong việc chăm sóc và điều khiển dân Chúa. Ý nghĩa này khơi dậy cho người Kitô hữu có lòng yêu mến, vâng phục và trung thành với Đấng Bản quyền của mình trong Hội thánh, và nhiệt tình góp phần mình vào việc xây dựng và phát triển Hội thánh.
Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”, hoặc “Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.