2023
Vua tình yêu
26.11 Lễ Chúa Kitô Vua
Ed 34:11-12,15-17; Tv 23:1-3,3-4,5-6; 1 Cr 15:20-26,28; Mt 25:31-46
Vua tình yêu
Ông có phải là vua không? Đó là câu hỏi Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu trong một phiên toà xét xử. Ông là Tổng Trấn đại diện cho chính quyền Rôma. Trong vụ việc này, ông là Thẩm phán và Chúa Giêsu là “bị can”. Câu trả lời không dễ. Nếu Đức Giêsu không phải là vua, thì Người cũng chỉ như mọi vĩ nhân đã từng hiện hữu trong lịch sử và đã qua đi. Nếu còn lại thì chỉ là những giáo huấn như di sản cho hậu thế. Nhưng, nếu Người là Vua thì sao? Chấp nhận Người là Vua sẽ làm đảo lộn cả thế giới. Tuyên xưng Người là Vua sẽ làm cho lòng người day dứt khôn nguôi. Bởi lẽ vị Vua ấy sẽ xét xử mỗi người chúng ta, không chỉ vào lúc tận cùng của thời gian, nhưng mỗi giây mỗi phút của cuộc đời.
Philatô chỉ lấp lửng trả lời theo kiểu nghi vấn:“Tôi là người Do thái sao?”. Quả là một câu nói khinh thường và vô trách nhiệm. Và phải chăng đó cũng là lối sống và là cách hành động của ông? Xem ra ông là vị quan rất quyền lực, nhưng thực tế cũng chỉ là tay sai và nô lệ cho quyền thế, cố gắng giữ lấy chiếc ghế chứ không muốn xử trí mọi cái theo sự thật hay lẽ phải. Trước thái độ mập mờ của Philatô, Chúa Giêsu đã thẳng thắn xác định:“Nước tôi không thuộc về thế gian này…”.
Khi nói“Nước tôi”, Chúa Giêsu không phủ nhận mình là Vua, nhưng không phải là Vua theo kiểu người Do thái và Philatô quan niệm. Ngài là vua theo ý muốn của Thiên Chúa chứ không theo mơ ước của người đời. Rõ ràng là vương quốc của Ngài không nhắm vào mục tiêu chính trị, càng không sử dụng những phương thế trần gian như vũ khí, bạo lực, quân lực… Chúa Giêsu không phải là Đấng Mêsia theo kiểu phàm nhân, lo thực hiện công cuộc giải phóng theo kiểu phàm tục. Thật ra, Philatô biết chỉ vì ghen ghét mà người Do Thái bắt nộp Đức Giêsu. Nhưng rất tiếc, ông biết một đàng nhưng rồi làm một nẻo.
Tiếp theo đó, Chúa Giêsu còn xác định căn tính và sứ mạng của mình: “là để làm chứng cho sự thật.” vì Nước của Ngài là Nước của sự thật, vì Thiên Chúa, Cha của Ngài là Đấng Chân Thật. Chỉ có sự thật mới giải thoát con người, cho con người được sống trong bình an và hạnh phúc. Tuy nhiên, không mấy ai mà ham sống thành thật? Kẻ thành thật thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá quỷ quyệt nhiều khi được coi là khôn ngoan. Khi sự thật bị bưng bít thì tất cả đều ra tối tăm và sự gian ác lan tràn. Chính trong ý nghĩa đó mà Chúa Giêsu mạnh dạn tuyên bố trước Philatô:“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đó cũng là một lời mời gọi xoáy vào tận tâm não của những ai còn chút lương tri, để họ kịp nhận ra chân lý làm người. Thực tế, không mấy ai dám đứng về phía sự thật, vì sợ bị liên lụy, có khi mất cả thanh danh, sự nghiệp. Chính vì sợ như thế mà Philatô đã giao Chúa Giêsu cho binh lính hành hình, và cuối cùng giao cho người Do Thái để tử hình. Quả thật, sự dối trá đưa đến chỗ hủy diệt người công chính.
Đức Giêsu là vua vũ trụ, Đức Giêsu là vua tình yêu, lời công bố như thế chỉ có ý nghĩa, khi người ta hiểu vua vũ trụ, vua tình yêu, khác xa vua chúa quan quyền ở trần thế này. Nếu công thành danh toại là mơ ước tự nhiên của con người, hẳn sự thật mất lòng, sẽ là sự tinh tế vừa khôn vừa khéo, cha ông ta cảnh giác con cháu trong cư xử. Biết rút kinh nghiệm, nhớ được lời răn dạy: khôn ngoan đối đáp người ngoài, sẽ thích hợp hơn trong phạm vi chính trị, ngoai giao. Đức Giêsu hỏi Philatô, và còn tiếp tục hỏi chúng ta: “Quan tự ý biết tôi là vua, hay có ai khác nói với quan về tôi” ? Căn bản của thành công, phải là nói hay, làm giỏi, lý lẽ khiến người ta cúi đầu, không phản kháng, phải rõ ràng, chặt chẽ, như xã hội vẫn nói phải là tâm phục khẩu phục.
Con đường đến thành công, con đường tới hạnh phúc, dài, ngắn, sẽ chẳng ai cân đo xuể, nhưng phải bắt đầu từ bước chân của mình, từ nỗ lực bản thân, cùng với trái tim biết rung động. Đức Giêsu thành công trong việc kêu gọi nhóm 12, không phải bằng uy quyền, nhưng là bằng sức mạnh tình yêu. Đức Giêsu ở bên Philatô không phải để cầu cạnh, phân bua, đấu tranh tư tưởng về quyền lực vật chất và tinh thần. Qua cuộc đối thoại của Philatô, dám chắc mọi người đều được Đức Giêsu khai lòng mở trí, hầu biết thế giới vạn vật này, luôn có Vị Vua tình yêu hiện diện, thôi thúc mọi người đạt tới hạnh phúc thật. Tục ngữ ca dao nói rằng: không ai yêu con bằng cha, không ai yêu con bằng mẹ; mẹ yêu con bằng dòng sữa ngọt, cha yêu con bằng giọt mặn mồ hôi. Đức Giêsu nói với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Cũng có nghĩa, Nước Chúa là có thật, là sự thật, là vương quốc yêu thương.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau.Vợchồng chân thành với nhau trong nghĩa tình thuỷ chung. Người trong một đoàn thể, một xứ đạo sống chân thành với nhau hầu loại trừ bệnh thành tích khoe trương. Nhất là trong cuộc sống hằng ngày cần lấy chữ tín làm đầu, luôn sống chân thành trong lời nói , việc làm luôn theo chân lý và sự thật.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay.
2023
NIỀM TIN ĐỜI SAU
25.11 Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
1 Mcb 6:1-13; Tv 9:2-3,4,6,16,19; Lc 20:27-40
NIỀM TIN ĐỜI SAU
Dù cho con người ta không tin có Thiên Chúa, không tin có sự sống đời sau nhưng một sự thật vẫn hiển nhiên, bất biến. Đó là: Con người khác con vật, có linh hồn mà linh hồn thì vô hình nhưng bất tử; Điều này, Tin Mừng hôm nay chính Đức Giê-su đã xác nhận để cho mọi người được biết: “ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lc 20, 34). Chính Đức Giê-su đã minh chứng lời Người nói đó bằng biến cố chịu tử nạn và ba ngày sau thì Người đã sống lại. Như vậy chính Đức Giê-su đã làm chứng về sự sống lại và chứng cứ của Người thì rất đáng cậy tin!
Câu Chúa nói: “Những ai xét là đáng hưởng phúc đời sau” khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, bởi lẽ, chỉ những người ăn ngay ở lành, sống thi hành những điều Chúa răn dạy thì những người ấy mới là những kẻ được Chúa xét là đáng được hưởng phúc đời sau mà thôi! Còn những ai sống bông thả, chạy theo đam mê xác thịt… kẻ ấy không được dự phần vào phần thưởng sự sống đời sau. Mà sự sống đời sau là thánh thiêng, giống như các thiên thần chứ không như cuộc sống tạm bợ ở trên trần gian này! Nên không có chuyện cưới vợ gả chồng nữa!
Tin Mừng hôm nay thuật lại một số người thuộc nhóm Xa Đốc đến gặp Đức Giêsu để hỏi về vấn đề kẻ chết sống lại. Nhóm Xa Đốc xuất thân từ giai cấp tư tế. Nhóm này được xếp vào hạng người bảo thủ bởi vì trong bộ Kinh Thánh họ chỉ nhìn nhận bộ Ngũ thư gồm: sách Sáng Thế, sách Xuất Hành, sách Lê Vi, sách Dân Số và sách Đệ Nhị Luật. Còn những sách về sau thì nhóm Xa Đốc không chấp nhận. Nhóm Xa Đốc không tin về kẻ chết sống lại, vì họ nghĩ rằng trong bộ Ngũ thư không nói về kẻ chết sống lại, cho nên khi nói về giáo lý người chết sống lại, người Xa Đốc cho rằng đó là ý niệm mơ hồ.
Nhóm luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại, còn nhóm Sađốc thì không. Mặc dầu nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như ở đời này. Nhưng Đức Giêsu đã mạc khải cho họ có sự sống lại và cách thức sống cuộc sống đời sau. Ngài cho thấy cuộc sống ấy không còn giống như ở đời này, không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Trái lại, cuộc sống của người công chính khi phục sinh sẽ được thần thiêng hoá như đời sống của các thiên thần.
Hôm nay, nhóm Sađốc đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hại Đức Giêsu. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại. Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giêsu và yêu cầu Ngài trả lời: theo luật Maisen, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dõi. Vậy cả 7 anh em nhà kia lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết. Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?
Để trả lời cho họ, Đức Giêsu trưng dẫn sách Ngũ kinh như ông Maisen đã gọi: “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống. Ngài ban và duy trì sự sống ngay cả sau khi chết.
Đức Giêsu luôn luôn từ chối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng người đứng trên phương diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sađốc đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau” và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được sống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa.
Xã hội tiến bộ ngày hôm nay cũng lôi kéo rất nhiều tầng lớp người, sống trên trần gian nhưng không nghĩ đến chuyện tương lai cho sự sống mình. Cuộc sống chỉ biết hưởng thụ, tìm khoái lạc, tranh chấp, bóc lột, thù hận. Những người này luôn sống trên mặt đất nhưng không nhìn trời cao, nhìn cuộc sống không phải là tạm bợ nhưng là thời gian sống để hưởng thụ, nhìn kiếp đời chỉ tồn tại trên mặt đất nhưng không nghĩ đến sự sống vĩnh cửu mãi mãi. Vì thế, không gì ngạc nhiên khi người thuộc nhóm Xa Đốc của thời đại hôm nay, họ có những suy nghĩ, lời nói và hành động theo lề thói của thế gian, nhưng không chọn mẫu gương sống của Chúa Giêsu là hành trang cho sự sống tạm bợ tại trần gian.
Đạo Công Giáo dạy ta rằng: Có Thiên Chúa là Đấng toàn năng, hằng hữu. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và nên con người. Chúa cho ta cuộc sống trần gian này để ta “sự đầu tư” cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Do vậy chúng ta phải kiên trì, nỗ lực làm sao để có thể chiếm cứ được sự sống đó bằng cách sống sao cho đẹp lòng Chúa; sống yêu thương, bác ái phục vụ anh em và luôn tôn thờ Chúa hết dạ hết tình. Dù rằng cuộc sống ở đời này có biết bao cám dỗ và cạm bẫy, nhưng ta phải luôn biết bám vào Chúa, vì chính từ Người sẽ phát suốt ra sức mạnh để nhờ đó chúng ta sẽ chiến thắng và đạt được sự sống đời sau.
Mỗi khi suy ngẫm cái chết, chính là dịp để mỗi người sống tỉnh thức để khỏi phải lo lắng hoang mang. Suy ngẫm về cái chết sẽ giúp cho cá nhân mỗi người sống có ích hơn cho đời, sống tích cực hơn cho chính bản thân mình.
2023
DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA GIÊ-SU
24.11 Thánh Andrê Dũng-Lạc, Lm, và các bạn tử đạo Việt Nam
1 Mcb 4:36-37,52-59; 1 Sb 29:10,11,11-12,12; Lc 19:45-48
DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA GIÊ-SU
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
T ình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.
Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
2023
Than khóc Giêrusalem
23.11 Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
1 Mcb 2:15-29; Tv 50:1-2,5-6,14-15; Lc 19:41-44
Than khóc Giêrusalem
Cuộc hành trình đi Giêrusalem được kết thúc bằng một cuộc khải hoàn long trọng tiến vào thành. Nhưng khi đến gần, nhìn thấy thành Giêrusalem, Chúa thấy trước thành này sẽ bị tàn phá, cũng là báo trước cuộc phán xét trong ngày cánh chung, nên Chúa thốt lên những lời than tiếc cho thành Giêrusalem. Họ có lỗi bởi vì Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, nhưng họ đã từ chối tình thương của Thiên Chúa, từ chối ơn cứu độ và sự bình an Người mang đến cho họ. Và vì không đón nhận nên họ phải đau khổ.
Trên đường tiến về Giêrusalem, vừa thấy thành, Đức Giêsu đã khóc thương nó, vì thấy trước viễn cảnh sụp đổ bình địa của thành, vì dân thành đã không tin vào Người. Đức Giêsu đã khóc, vì dường như bất lực trước sự cứng lòng của dân Do thái thành Giêrusalem. Người làm được mọi sự, nhưng đối với sự cứng lòng của người Do thái, Người không thể làm gì trước tự do của họ. Có thể nói, Thiên Chúa dường như bất lực trước sự tự do mà Người đã ban cho con người. Người Do thái là dân Chúa chọn nên họ đáng hưởng nhiều đặc ân, nhưng thực tế họ không được gì. Bởi Chúa đã giáng sinh nơi quê hương họ để cứu chuộc họ, nhưng họ đã không đón nhận.
Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”
Thành Giêrusalem tượng trưng cho dân do thái và cho tất cả những người được Thiên Chúa ưu ái nhưng đã phụ lòng Ngài nên cuối cùng phải gánh lấy số phận bi thảm.
Lỗi của nó là gì ? Là không “nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi” (câu 41); “không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (câu 44). Ơn Chúa ban cho nó rất nhiều, nhất là ơn “bình an” và “viếng thăm”. Nhưng nó đã coi như không, nên không nhận biết để cám ơn, không nhận biết để xử dụng, không nhận biết để hiểu xem ý Chúa muốn nó làm gì khi ban ơn cho nó.
“Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi”. Lời Chúa Giêsu rất giống với lời Thánh Vịnh đầu tiên chúng ta đọc mỗi sáng “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa” (Tv 94). Lời này mỗi ngày nhắc nhở chúng ta “nhận biết” tiếng Chúa nói với chúng ta suốt ngày, và chúng ta đừng cứng lòng như thành Giêrusalem xưa.
Đức Giêsu đã khóc vì đau buồn trước viễn cảnh thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá bình địa: “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”. Đền thờ là nơi Ngài thường đến hành hương từng năm, nơi đầy ắp kỷ niệm thời thơ ấu, nhà của Cha Ngài, nơi linh thiêng của cả dân tộc. Vậy mà Đền thờ ấy sẽ phải bị tàn phá. Quả thật, năm 70, nhân cuộc nổi dậy của người Do thái, tướng Titô đã tàn phá bình địa thành đô, và cho cày một luống dài giữa Đền thờ, để cho thấy từ nay nơi đây đã trở thành hoang phế. Cùng với Đền thờ là biết bao người dân, trong đó có cả những trẻ thơ vô tội, bị tàn sát dưới lưỡi gươm của lính Rôma. Thế mà giờ đây, Đức Giêsu đến đem bình an cho dân thành; Ngài là Thiên Chúa đến thăm dân Ngài. Vậy mà, tiếc thay, dân thành đã dửng dưng, không đón nhận
Lời Chúa hôm nay cho thấy Đức Giêsu khóc thương Giêrusalem, bởi thành đã không nhận ra Chúa là nguồn bình an. Đức Giêsu khóc thương thành, Người cũng khóc thương những người Do thái đương thời. Họ không nhận ra Thiên Chúa đang biểu lộ tình thương giữa họ.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta chạy theo những thứ bình an giả tạo, mà quên tìm kiếm bình an đích thực; chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và đặt của cải, danh vọng, địa vị làm mục đích cuộc đời. Khi ấy, chúng ta cảm thấy bất an và mệt mỏi. Ngược lại, lúc chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa và bước đi trong ánh sáng của Người, chúng ta mới có bình an đích thực.
Ngày nay người do thái vẫn còn đến bên bức tường đổ nát của cổ thành Giêrusalem để than khóc cho số phận của đất nước và tiếp tục chờ mong Đấng Messia “của họ”. Nhưng trớ trêu thay lúc Đấng Messia thật đến viếng thăm họ thì họ đã chối từ và xử tử! Tại vì họ đã “không nhận biết”. Xin giúp con tỉnh táo “nhận biết” những thời giờ Chúa đến viếng thăm con.