2023
Nhiệt thành loan báo Tin Mừng
30.11 Thánh Andrê, Tông Đồ
St 6:12-283; Lc 21:20-28
Nhiệt thành loan báo Tin Mừng
Hôm nay Giáo Hội cử hành Lễ kính Thánh Anrê tông đồ, chúng ta cùng suy niệm về ơn gọi của người tông đồ, và áp dụng vào sứ mạng tông đồ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại : bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi làm tông đồ đang khi các ông làm nghề chài lưới, tại bờ biển Galilêa, đó là hai anh em ông Simon Phêrô và Anrê, và hai anh em ông Giacôbê và Gioan.
Trước hết, là được Chúa kêu gọi : Ơn gọi làm tông đồ là một ơn gọi đặc biệt đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã chọn gọi những kẻ người muốn (Mc 3, 13). Chúa Giêsu yêu thương họ, yêu thương mãnh liệt, yêu thương đến độ gọi họ được trở thành bạn hữu của Chúa (Ga 15, 15), sống gần gũi với Chúa, chia sẻ công việc của Chúa.
Kế đến, là phài đi theo Chúa và được Chúa huấn luyện. 12 tông đồ đi theo Chúa Giêsu và làm môn đệ của Ngài. Các ông đến và ở với Chúa (Mc 3,14). Các ông được Chúa huấn luyện để trở thành người tông đồ, nghĩa là trở thành những sứ giả phổ biến Tin Mừng cứu độ của Chúa cho muôn dân.
Đồng thời, là sự từ bỏ : Tin Mừng thuật lại rằng : “Các ông bỏ lưới mà đi theo Người” (Mt 4,22). Cũng vậy, những ai muốn đi theo Chúa Giêsu và làm môn đệ của Ngài, đều phải sẵn sàng từ bỏ tất cả : bản thân, gia đình, của cải vật chất và những quyến rũ của thế gian thì mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa. Hơn nữa, các tông đồ còn phải chấp nhận những thử thách trong vai trò người tông đồ, chấp nhận sự khinh chế, ruồng rẫy của người đời, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chịu chết để làm chứng cho Chúa. Có biết từ bỏ mới trở nên giống như Thầy mình. Điều này là một thách đố cho những ai đang trên con đường theo Chúa.
Cuối cùng, những ai làm tông đồ của Chúa Giêsu đều được Chúa tín nhiệm trao phó công việc của Chúa, sẵn sàng được Chúa sai đi Loan báo Tin Mừng (Mc 3,14). Các tông đồ luôn mang nơi bản thân mình sứ điệp quan trọng, đó là “làm cho muôn dân trở nên “môn đệ” của Người” (Mt 28,19).
Thánh Anrê đã lắng nghe tiếng Chúa và trở nên môn đệ của Người. Thánh nhân đã sống trọn vẹn ơn gọi được lãnh nhận. Và giờ đây, Ngài đang hưởng vinh phúc Nước Trời. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi nên thánh bằng chính ơn gọi của mình.
Thánh Anrê tông đồ là môn đệ của Chúa Giêsu, hăng say nhiệt tâm truyền giáo, và sẵn sàng chết tử vì đạo để làm chứng cho Tin Mừng. Gương của Thánh Anrê tông đồ tỏa sáng trong Giáo Hội hôm nay. Cụ thế, việc phục vụ cho công cuộc Loan báo Tin Mừng vẫn tiếp tục trong Giáo Hội của Đức Kitô và trở thành “bản chất” của Giáo Hội. Giáo Hội luôn là Giáo Hội truyền giáo.
Việc Loan Báo Tin Mừng ngày nay trong Giáo Hội được nhắc nhiều đến vai trò của các gia đình.
Thật vậy, môi trường đầu tiên cho việc tông đồ chính là gia đình. Người chồng Loan Báo Tin Mừng cho vợ, vợ cho chồng, cha mẹ cho con cái, anh chị em Loan Báo Tin Mừng cho nhau. Thánh Phaolô dạy rằng : “Chồng ngoài đạo được thánh hóa nhờ người vợ, và vợ ngoài đạo được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1Cr 7,14). Nhiều cặp vợ chồng đã giúp nhau nên thánh và thánh hóa gia đình: như cha mẹ của Thánh trẻ Têrêsa, mẹ của thánh Don Bosco, mẹ của thánh Augustinô.…
Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi bước theo Chúa Giêsu. Nhưng tâm thế của người môn đệ đích thực không chỉ là bước theo Chúa như những người đồng hành, mà còn là gắn bó mật thiết và chung phần chia sẻ sứ vụ với Người. Mỗi người chúng ta đều là “ngư phủ” bằng cách trở nên là chứng tá, là người loan báo Tin Mừng, là người an ủi, chữa lành những tổn thương nơi tha nhân, là khí cụ mang tình yêu Chúa đến cho người khác, nhất là những anh chị em đang gặp đau khổ, bất hạnh.
Làm sao cho gia đình của chúng ta và yêu thương phục vụ nhau, cùng nhau thăng tiến đời sống gia đình theo gương sống của Thánh Gia Thất. Làm sao cho gia đình đình của chúng ta trở nên gia đình đức tin, gia đình thánh thiện và đạo đức. Muốn được như thế, gia đình chúng ta đừng quên việc đọc Lời Chúa, cầu nguyện tối sớm. Đó cũng là cách giáo dục con cái cầu nguyện, sống Tin Mừng của Chúa.
Các gia đình không chỉ nhắm đến việc nên thánh, đạo đức và yêu thương, mà còn phải làm chứng tá cho Tin Mừng bằng cuộc sống gia đình mình nữa. Là những gia đình đã được đón nhận đức tin trước hay có đức tin vững vàng hơn, mỗi gia đình Công giáo với tư cách là gia đình, hãy góp phần thánh hóa các gia đình khác, bằng việc chia sẻ, giúp đỡ và giới thiệu Chúa cho các gia đình xung quanh.
2023
Kiên trì với Chúa
29.11 Thứ Tư trong tuần thứ Ba Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
St 5:1-6,13-14,16-17,23-283; Lc 21:12-19
Kiên trì với Chúa
Tin Mừng hôm nay là một đoạn ngắn trong diễn từ về ngày tận thế. Có một câu chúng ta cần lưu ý, trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con sẽ bị người ta bắt bớ, ngược đãi, nộp cho Hội đường, và điệu đến trước nhà cầm quyền, vì Danh Thầy. Ðó là cơ hội để các con làm chứng về Thầy”. Thật lạ lùng: bị bắt bớ, ngược đãi, tống ngục là chuyện đau khổ, nhục nhã, thất bại, thế mà Chúa Giêsu lại cho là hân hoan, là cơ hội tốt để làm chứng.
Trong thực tế, các môn đệ đã sống và thực hành điều đó. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị Do thái, các ngài chẳng những không buồn phiền, lo sợ, mà còn hân hoan, vui vẻ, vì nhờ đó có dịp để nói về Chúa Giêsu cho người khác. Phaolô bị bắt và bị xét xử, ngài cũng mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho các nhân vật cỡ lớn, như Tổng trấn Felix, Festo, và cả Hoàng đế Herode Agrippa nữa.
Nhưng cái gì đã tạo ra sự biến đổi nơi các môn đệ, cũng là bắt bớ, bách hại mà có người cho là thất bại, người khác lại cho là cơ may? Thánh Augustinô giải thích: cuộc sống con người là sự xung đột giữa hai tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa. Nếu tội là yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa thì dĩ nhiên tôi sẽ bám vào những gì tôi cho là sung sướng ở trần gian, như tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, và khi bị bắt bớ, tôi bị mất tất cả, lúc đó, bắt bớ bị coi là thất bại. Nhưng nếu tôi yêu Chúa đến độ coi thường bản thân, thì có bị bắt bớ vì Chúa, cũng chẳng mất mát gì; người ta có thể lấy tiền bạc, danh vọng, địa vị của tôi, chứ không thể lấy mất Chúa của tôi được, và đó còn là dịp để tôi rao giảng về Chúa cho họ là khác. Do đó, chẳng sợ gì hết, chỉ sợ tội mà thôi; cái căn bản là tình yêu đối với Chúa, nó làm thay đổi cuộc đời.
Trong thực tế, muốn biết chúng ta có yêu Chúa hay không, cứ nhìn vào cuộc sống hàng ngày xem chúng ta có dám vì Chúa mà can đảm khước từ những đam mê bất chính, những tham vọng không hợp ý Chúa, những thú vui không đẹp lòng Chúa, cho dẫu có vì thế chúng ta phải nghèo túng, phải vất vả hay không? Nếu trong cuộc sống, chúng ta dám hy sinh tất cả vì Chúa, lúc đó chúng ta mới có thể coi trường hợp bị bắt bớ vì Chúa là cơ hội để làm chứng cho Chúa.
Có một câu làm chúng ta lưu ý. Trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “các con sẽ bị người ta bắt bớ, ngược đãi, nộp cho Hội đường, và điệu đến trước nhà cầm quyền vì Danh Thầy. Đó là cơ hội để các con làm chứng về Thầy”. Thật lạ lùng: bị bắt bớ, ngược đãi, tống ngục là chuyện đau khổ, nhục nhã, thất bại, thế mà Chúa Giêsu lại cho là hân hoan, là cơ hội tốt để làm chứng cho Chúa. Tại sao thế? Bởi vì đó chính là con đường mà người môn đệ phải đi: “Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34); và đó cũng chính là hạnh phúc thật của người môn đệ Chúa “Phúc cho ai bị bắt bớ vì công chính” (Mt 5,10)
Lịch sử của Giáo Hội từ đầu và cho đến bây giờ vẫn vậy: luôn bị bắt bớ, không chỗ nầy thì chỗ khác. Trừ Gioan, tất cả các Tông đồ đều bị tử đạo; những Kitô hữu đầu tiên cũng chịu bắt bớ và chạy tán loạn trốn tránh khắp nơi. Cuốn phim Quo vadis đã diễn tả lại Giáo Hội thời Thánh Phêrô bị bắt bớ khủng khiếp như thế nào, họ phải sống chui rúc trong các hang toại đạo, như lũ chuột trong đường hầm dưới nghĩa trang. Rồi kể từ đó, suốt chiều dài của lịch sứ, Giáo Hội luôn luôn bị bắt bớ. Hiện nay ở nhiều nước châu Phi như Soudan; ở Âu châu như Inđônêsia, các cộng đồng Kitô hữu đang bị khủng bố khắp nơi. Trên đất Việt đã có hơn 130 ngàn tử đạo và còn nhiều nữa những vị mà hôm qua cũng như hôm nay mà người ta không biết tới.
Dẫu bị bắt bớ, bị bách hại nhưng các Thánh vẫn kiên trì giữ lòng tin với Chúa.
Kiên trì là một ơn phúc Chúa dành cho những ai phó thác và tin tưởng nơi Ngài. “Kiên trì” là “không từ bỏ hy vọng” ngay cả trong đau khổ, hay khi ta thấy dường như chỉ có một mình ta trong bóng tối, trong sự chê ghét của mọi người. “Kiên trì” là đón nhận Thập Giá Chúa gửi đến, và sống cùng Thập Giá ấy cho đến khi công trình cứu độ Chúa làm cho từng linh hồn được nên trọn. Và trong thời gian ấy, chúng ta được mời gọi nhìn về phần thưởng trong tương lai là Triều Thiên mà Thiên Chúa dành tặng cho mỗi người ở cuối con đường, hơn là những gì xảy ra trong khoảng thời gian được thử thách. Vì lẽ ấy, các thánh tử đạo đã kiên trung tới giây phút cuối cùng dù đau khổ tột cùng nơi thân xác; các thánh hiển tu luôn cố gắng sống thánh thiện từng giây phút dẫu có lúc mọi ánh sáng đều bị lấy mất đi.
Hôm nay, chúng ta cùng lưu tâm và sống đức tính kiên nhẫn. Rất cần xin ơn Kiên Nhẫn với Thiên Chúa, với chính mình và tha nhân. Để rồi trong đau khổ, cô đơn và tăm tối, ta nghĩ về Thiên Chúa đang đợi ta cuối con đường và sẵn sàng ban tặng triều thiên của Ngài cho ta. Có kiên trì mới giữ được mạng sống mình.
2023
Chuẩn bị ngày cánh chung
28.11
Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
St 2:31-453; Lc 21:5-11
Chuẩn bị ngày cánh chung
Ðối với người Do thái, Ðền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho niềm vui và hãnh diện, và là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, là nơi hằng năm muôn dân tuôn về đó để mừng lễ. Ðền thờ được xây bằng đá quí, sừng sững trên ngọn đồi này vẫn được xem là nơi nương tựa vững chắc có thể đương đầu với thời gian. Thế mà Chúa Giêsu lại tuyên bố sẽ có ngày nó bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.
Về thời điểm các sự việc đó xảy ra, dưới ngòi bút của thánh Luca, câu trả lời của Chúa Giêsu không chỉ riêng cho Giêrusalem mà còn bao gồm cả chiều kích lịch sử cứu độ: cũng như Ðền thờ Giêrusalem, thế giới này dù có vững vàng đến đâu, thì một ngày nào đó cũng sẽ tàn lụi. Trong khoảng thời gian trước ngày Chúa trở lại sẽ có nhiều tai ương khốn khó.
Lời Chúa hôm nay trong tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về những vấn đề cuối cùng của đời người : chết, phán xét, số phận đời đời trong ngày Đức Kitô quang lâm.
Mọi công trình con người xây dựng, dù cho có kiên cố và quí giá đến đâu đi nữa, kể cả đền thờ Giêrusalem tất cả sẽ có ngày sụp đổ tan tành.
Thật vậy, đối với người Do Thái đền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho niềm vui và hãnh diện, một công trình mất đến 40 năm mới hoàn tất.
Đền thờ Giêrusalem còn là nơi Thiên Chúa ngự và là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, là nơi hàng năm muôn dân tuôn về đó để mừng lễ. Đền thờ được xây dựng bằng đá quí, sừng sững trên ngọn đồi này, vẫn được xem là nơi nương tựa vững chắc có thể đương đầu với thời gian.
Thế mà Chúa Giêsu lại tuyên bố sẽ có ngày nó bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.
Về thời điểm các sự việc đó xảy ra, dưới ngòi bút của Thánh Luca, câu trả lời của Chúa Giêsu không chỉ riêng cho Giêrusalem mà còn bao gồm cả chiều kích lịch sử cứu độ. Cũng như đền thờ Giêrusalem, thế giới này dù có vững vàng đến đâu, thì một ngày nào đó cũng sẽ tàn lụi.
Nói đến ngày tận thế, xem ra là vấn đề mơ hồ và xa xôi, đưa đến bi quan, nhưng lại là điều có thật. Tuy nhiên, khi nói đến ngày kết thúc cuộc đời mình thì đó là điều chắc chắn và thiết thân. Mỗi người phải lo cho số phận mình, không ai có thể thay thế được. Một lúc nào đó, ngay cả con người chúng ta dù muốn hay không, cái chết cũng đến với chúng ta. Chúng ta sẽ ra đi như chúng ta đã vào đời. Từ trong bóng tối đi ra, chúng ta cũng trở về với bóng tối. Đã một thời không có chúng ta, và cũng sẽ đến thời không ai còn nhắc đến chúng ta nữa. Mỗi ngày có trên 200.000 người chết, mỗi giờ có 10.000 người chết. Hôm nay, ngày mai hay bất cứ lúc nào, tôi cũng sẽ được đếm trong số những người phải ra đi ấy.
Hình ảnh các biến cố thiên nhiên, như động đất, hạn hán, mất mùa, ôn dịch; những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ trên trời, hay hình ảnh chiến tranh, loạn lạc, là những yếu tố trong lối hành văn được các Tiên tri sử dụng để báo trước về ngày chung thẩm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các biến cố đó không phải chỉ là những hình ảnh, mà là sự thật; chúng cũng tác dụng như một nhắc nhở con người ý thức bản chất thụ tạo yếu đuối và mỏng dòn của mình, đồng thời soi sáng cho con người biết chiều kích về ơn gọi siêu việt của mình là sống như con cái Thiên Chúa và trung thành thực hiện ơn gọi đó, trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến.
Sống trong những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội nhắc nhớ chúng ta về ngày chung cục bằng những bài đọc nói đến sự tận cùng của thế giới – Không phải để làm cho chúng ta lo âu, nhưng là để chúng ta ý thức sự chóng qua của vũ trụ vật chất mà biết xây dựng cho mình một đền thờ tâm linh vững chắc trường tồn trong Đức Ki-tô Giê-su.
Mặt khác, đoạn Tin mừng cũng nhắc nhớ chúng ta về ngày chung cục của đời mình. Thế giới qua đi! Cuộc đời của chúng ta cũng sẽ qua đi! Sự khôn ngoan mách bảo chúng ta phải biết tìm cho mình những giá trị vĩnh cửu hơn là bám vào đời sống tạm bợ này; phải biết dùng những phương tiện chóng hư nát để tích lũy những giá trị, của cải không bao giờ hư nát là sự sống hạnh phúc bất diệt đời sau.
Hơn bao giờ hết, chúng ta đang chứng kiến về sự rữa nát của thế giới, của con người: Cuộc chạy đua vào nhà Trắng đã khiến đông đảo quần chúng thế giới lo lắng không ít; những tranh chấp ở Biển đông cũng đe dọa bùng phát một cuộc chiến đáng sợ; các tai ương lụt lội, đói kém; ngày càng xuất hiện nhiều những căn bệnh lạ… đã gây nên những căng thẳng và hoang mang cho con người.
Ý thức được bổn phận của mình, người Ki-tô hữu phải là chứng nhân sống động của Đức Ki-tô trong cuộc sống xây dựng một thế giới ngày càng tốt đẹp hơn trong những nghĩa cử yêu thương hằng ngày, trong những bổn phận và trách nhiệm cùng chung tay cộng tác xây dựng Giáo hội và xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp và thăng tiến con người trong phẩm giá của mình, trong những ước vọng và hành động đóng góp xây dựng hòa bình và công lý….
Vững tin vào tình thương và lòng thương xót Chúa, chúng ta hãy khẩn nài trong lời cầu nguyện tha thiết xin cho ‘Nước Cha trị đến’ để bóng tối được đẩy lui và vương quốc tình yêu của Cha được xây dựng.
2023
Cho Ði Tất Cả
27.11Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
St 1:1-6,8-203; Lc 21:1-4
Cho Ði Tất Cả
Vào thời xưa cũng như thời này, có những giai tần bị loại ra bên lề. Họ có thể là những người mắc bệnh không có thuốc chữa, họ có thể là những người nghèo không một xu dính túi. Trong số những người nghèo bị gạt ra bên lề xã hội, có các bà góa; nhất là trong hệ thống tổ chức xã hội xưa kia tại Israel, phụ nữ khi kết hôn phải cắt đứt giây liên hệ với gia đình ruột thịt, và từ lúc chồng chết cũng là lúc mọi tiếp tế vật chất từ nhà chồng bị đình chỉ.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay có thể nói là một người nghèo tuyệt đối. Qua nghĩa cử đơn sơ của bà, Chúa Giêsu đã khám phá ra sự quảng đại cao cả và lòng cậy trông phó thác tuyệt đối của bà vào Thiên Chúa. Mặc dù chỉ đóng góp hai đồng tiền nhỏ có giá trị 1/4 xu, nhưng bà đã cho đi tất cả những gì mình có để nuôi sống; vì thế bà xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi. Tuy nhiên sự kiện và lời khen ngợi này có thể nêu lên hai vấn nạn: thứ nhất, liệu chúng ta phải nghèo về vật chất để được thuộc về Nước Thiên Chúa chăng? thứ hai, liệu người nghèo phải cho đi tất cả, kể cả những nhu yếu phẩm nếu họ muốn được Chúa khen ngợi chăng?
Ðã hẳn trong Tin Mừng, người nghèo được chúc phúc, trong khi theo cách diễn tả của Chúa Giêsu người giầu có khó vào được Nước Trời. Thật ra, người nghèo được gọi là có phúc, không phải vì họ nghèo, cũng như Tin Mừng không bao giờ đề cao sự nghèo khổ, vì sự nghèo túng tự nó không làm cho ai nên thánh, có chăng chỉ những người nghèo biết chấp nhận thân phận của mình để chờ đợi từ người khác và cậy trông phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nói khác đi, cái nghèo vật chất không phải tự nó biến sự túng thiếu thành nguồn ơn phúc, nhưng chính tinh thần nghèo khó, chính ý thức sự lệ thuộc của mình vào người khác, nhất là đặt trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa, mới làm cho những người nghèo trở nên giầu tình người và đậm đà tình Chúa.
Câu chuyện người đàn bà góa nghèo nàn đoạn Tin Mừng của thánh Luca thuật lại hôm nay, gây nhiều ấn tượng cho nhiều người. Vì đồng xu nhỏ bà góa bỏ vào hòm tiền trong nhà thờ là tất cả sản nghiệp của bà. Đó là số tiền bà dành dụm để nuôi sống chính bản thân mình. Bà bỏ vào hòm tiền dâng cúng hoàn toàn khác với những đồng tiền của những người giàu dâng cúng đồng tiền dư thừa, còn bà góa bỏ vào hòm tiền đồng tiền nhỏ nhoi ít ỏi.
Chúa quan sát việc người ta dâng cúng vào thùng tiền trong đền thờ, Ngài thấy một bà góa túng thiếu bỏ hai đồng tiền kẽm như mọi người, Chúa liền gọi các môn đệ đến chỉ cho họ thấy người đàn bà góa ấy, đã bỏ vào thùng tiền đền thờ nhiều hơn tất cả mọi người. Bà đã cho đi không phải bằng phần dư dả, nhưng đã cho đi tất cả phần sống để nuôi thân. Khi dâng cúng hai đồng cuối cùng, bà đã không nghĩ đến bữa ăn tối hôm nay sẽ ra sao. Việc làm của bà hôm nay đã được Thiên Chúa chúc phúc. Ngài đã nhận thấy nơi bà góa một tấm lòng hảo tâm tuyệt đối, cho đi nhưng không và đặt niềm tin tưởng, với lòng thành phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay chỉ có hai đồng tiền nhỏ để sinh sống, nhưng bà đã dâng cúng trọn vẹn cho Chúa. Có lẽ bà có được hai đồng tiền đó là do lòng hảo tâm của người khác và bà muốn biểu lộ sự tín thác của mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa qua việc cho đi tất cả.
Vấn đề đáng suy nghĩ là liệu hành động của bà góa nghèo này có giá trị trong xã hội ngày nay, nếu không phải là tạo thêm sự nghi kỵ trong xã hội? Sống trong một xã hội cạnh tranh như hiện nay, còn có một mô thức của xã hội nơi bài giảng trên núi của Chúa Giêsu được đem ra thực hành, để không ai còn bị tiền tài, danh vọng, quyền lực chi phối, nhưng mọi người đều thực hành tình liên đới, yêu thương, chia sẻ. Với lời khen ngợi hành động của bà góa nghèo, Chúa Giêsu một lần nữa muốn đảo lộn trật tự xã hội, vì Ngài không những kêu gọi sự thay đổi của từng cá nhân, nhưng còn muốn đẩy mạnh tiến trình đổi mới xã hội, nơi mọi người đóng góp tất cả những gì mình có để xây dựng và phục vụ xã hội.
Với câu chuyện của bà góa hôm nay Đức Ki-tô muốn nhắc nhở ta điều gì? Đó là lòng quảng đại. Nếu giúp đỡ ai, hãy giúp một cách thành tâm, sống hết lòng, hãy dâng theo khả năng của mình. Chúa luôn yêu quý, đánh giá cao khi con người biết dâng lên Thiên Chúa với tấm lòng thành. Dù chỉ những sự đơn sơ, mộc mạc nhỏ bé dưới mắt người đời, nhưng đối với Thiên Chúa đã được ghi nhận trên trời.
Mỗi người chúng ta cũng hãy tự chất vấn lòng mình : Tôi có tinh thần nghèo khó để ý thức sự lệ thuộc của tôi vào người khác và vào Thiên Chúa không? Tôi đã và đang làm gì để góp phần xây dựng một xã hội mới. Ước gì mẫu gương của bà góa nghèo phản ánh tình yêu Thiên Chúa, Ðấng trao ban tất cả cho con người, giúp chúng ta mạnh tiến trên con đường xây dựng Nước Chúa giữa lòng xã hội.