2024
Tinh Thần Phục Vụ
28.2Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mùa Chay
Gr 18:18-20; Tv 31:5-6,14,15-16; Mt 20:17-28
Tinh Thần Phục Vụ
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là việc Chúa tiên báo về cái chết hy sinh chuộc tội của Chúa. Đây là lần thứ ba Chúa nói về nơi chết là Giêrusalem – cách chết: bị nộp cho lương dân, bị đòn vọt và đóng đinh – sau chết: Phục sinh. Hãy thử tưởng tượng như nếu chúng ta biết trước mình sẽ trải qua những khổ nhục và phải chết tất tưởi như thế liệu chúng ta có đủ bình tĩnh mà làm được việc gì nữa không. Có khi còn chạy trốn. Còn Chúa Giêsu, Ngài vẫn bình tĩnh lập các bí tích cũng như giảng dạy như thường việc gì tới sẽ tới. Ngài đương đầu với tử thần và Ngài đã chiến thắng chính sự chết bằng việc phục sinh.
Người ta tự hỏi chứ tại sao Chúa không phán một lời đủ để cứu chuộc nhân loại cần gì phải chết đau thương nhục nhã như thế. Phải rồi đối với Thiên Chúa toàn năng Ngài làm được mọi sự, còn việc chịu chết đóng đinh đây là ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn như thế. Một lãnh tụ mà không chịu lăn lưng khổ nhục, không chịu đồng lao cộng khổ mà chỉ đứng chỉ tay năm ngón thì chẳng ai theo. Chúa Giêsu biết tâm lý ấy của nhân loại, cho nên Ngài chấp nhận cái chết đau thương. Cái chết đối với chúng ta là một chuyện bắt buộc, là hậu quả của tội tổ tông. Nhưng đối với Chúa, đó là một thứ tự do ưng thuận, là ý muốn của Thiên Chúa, chứ không là bắt buộc.
Dựa vào mạc khải chúng ta biết rằng bằng lòng chết như thế là vì tình yêu quá lớn lao của Ngài đối với loài người. “Không còn tình yêu nào to lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống cho kẻ mình yêu” (Gio 15,13), “Một Thiên Chúa thương nhân loại quá đỗi đến nỗi ban Con Một Mình cho nhân loại” để họ giết đi làm của ăn hằng sống. Đó là Thiên Chúa yêu thương đến cùng, đến giọt máu yêu thương cuối cùng (Gio 13,1).
Ngoài ra việc Chúa chết như thế là để đền tội đầy tràn của nhân loại: “Ở đâu tội lỗi đầy tràn, ở đấy ơn lộc chứa chan” (Rm 5,20). Một trái đất chúng ta chỉ là một hành tinh bé nhỏ so với vũ trụ và những hành tinh khác. Trái đất bé hạt tiêu, trái đất nhỏ bé nhất nhưng cũng là nơi nhiều tội lỗi nhất. Từ dòng máu của Abel cho tới Gioan tiền hô, Chúa Giêsu và… tới đâu nữa, cho tận cùng phán xét.
Sau khi Chúa Giêsu tiên báo lần thứ ba về cuộc thương khó của Người, giữa nhóm mười hai đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận. Càng gần tới thành Giêrusalem, cuộc tranh luận càng sôi nổi hơn. Họ bàn tán xôn xao: Thầy sắp thực hiện kế hoạch mà Thầy đã ôm ấp bấy lâu. Kế hoạch này xem ra khó hiểu đối với họ, nhưng thôi, đó là công việc của Thầy, hãy để Thầy lo liệu, và họ bàn luận với nhau về tương lai của họ sau khi Thầy được đăng quang. Họ phân chia nhau ngôi thứ, ai lớn ai nhỏ như thế nào đây. Ai là người có công nhiều, ai là người có công ít hơn. Và cuộc tranh luận này không chỉ gói gọn giữa nhóm Mười Hai, mà còn mở rộng ra đến cả người nhà của họ nữa. Hai ông Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê, đưa mẹ đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Thấy mẹ con bà Dêbêđê hành xử như vậy, mười môn đệ kia tức tối ra mặt. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu dạy cho các ông bài học về tinh thần phục vụ mà các môn sinh của Chúa phải có.
Khác với cách thức cai trị của vua quan trần thế là những người đã dùng uy quyền để ổn định dân nước, những người lãnh đạo trong Nước Trời phải dùng quyền hạn mà Thiên Chúa ủy thác cho để phục vụ lợi ích của tha nhân. Ðịa vị càng cao càng phải hạ mình để phục vụ người khác nhiều hơn: “Ai muốn làm đầu các con thì phải làm đầy tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.”
Lời dạy của Chúa Giêsu thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta xét mình. Chúng ta tự hào mình là người có công, là những người cộng tác vào công cuộc mở mang Nước Chúa ở trần gian. Ðôi lúc chúng ta cũng bỏ công sức, thời giờ, tiền của vào các việc tông đồ truyền giáo. Chúng ta có nhiệt tình, chúng ta lao tâm khổ tứ, chúng ta ăn ngủ không yên, nhưng thử hỏi, chúng ta dấn thân như vậy vì Chúa, vì phục vụ anh em hay vì một cái gì khác. Mỗi người chúng ta hạ cố tự vấn lương tâm mình trong mùa Chay này.
Cho đi để được cho lại, đó là tính toán thường tình của con người. Người ta làm ơn làm phúc để được đền đáp, người ta hy sinh phục vụ đã tên tuổi của mình được nhắc đến. Tiền tài, quyền bính, danh vọng là ẩn số luôn ẩn núp sau những công việc mà con người gọi là phục vụ. Tựu trung, điều con người tìm kiếm trong mọi phục vụ vẫn là cái tôi của mình. Chúa Giêsu đã mang lại cho hai chữ “phục vụ” ý nghĩa đích thực của nó : phục vụ như Chúa Giêsu đã sống là sống như một người tôi tớ. Người tôi tớ trong thời phong kiến chỉ có một hiện hữu duy nhất, đó là sống cho và sống vì người khác. Như vậy, phục vụ đích thực chính là sống trọn vẹn cho tha nhân, vì tha nhân, chứ không vì bất cứ một tính toán lợi lộc nào. Phục vụ như thế cũng đồng nghĩa với quên mình và quên mình cho đến chết. Xét cho cùng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu, phục vụ cũng đồng nghĩa với chết đi. Đó là bài học mà Chúa Giêsu đã muốn lặp lại khi cho chúng ta lắng nghe trong Tin mừng hôm nay.
Những dân chài Galilê đã bỏ mọi sự theo Chúa Giêsu, nhưng các ông từ bỏ mọi sự với một tính toán, đó là trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc tương lai của Ngài. Các ông cũng không thoát khỏi cái lý luận thường tình của con người : “Tôi cho đi để được lấy lại”, “tôi từ bỏ mọi sự để được giầu sang hơn”, “tôi phục vụ để được phục vụ lại”. Quyền binh, danh vọng vẫn luôn là cám dỗ đối với Giáo Hội qua mọi thời đại. Dưới lớp áo thâm chùng của từ bỏ vẫn còn ẩn núp những tham sân si. Đội lốt tôn giáo, lời tố cáo ấy xem xét ra không phải là quá đáng, bất công đối với không biết bao nhiêu thành phần được gọi là người của Giáo hội.
Gồm những con người yếu hèn, tội lỗi, Giáo hội Chúa Kitô luôn cần được thanh luyện trong ý tưởng, cũng như trong thể hiện của mình. Trong cuộc trở về chung của toàn Giáo Hội,mọi kitô hữu đều được mời gọi để không ngừng hoán cải. Hoán cải là quay về với Chúa, là chỉ tìm kiếm và yêu mến một mình Ngài, là tham dự vào cuộc Tử nạn của Chúa Kitô bằng những hy sinh và từ bỏ chính mình mỗi ngày.
Ước gì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá mà chúng ta suy niệm trong Mùa chay này luôn nhắc nhở chúng ta về ơn gọi của người môn đệ, đó là phục vụ, quên mình, và ý thức mình chỉ là đầy tớ vô dụng, chỉ làm những gì phải làm mà thôi.
2024
KHIÊM NHƯỜNG
27.2Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mùa Chay
Is 1:10,16-20; Tv 50:8-9,16-17,21,23; Mt 23:1-12
KHIÊM NHƯỜNG
Nói đến việc giữ chay, có lẽ bên Công Giáo giữ chay tương đối ít! Các tôn giáo khác họ giữ chay nhiều khi cả tháng, hay có người giữ chay cả cuộc đời!
Luật của chúng ta chỉ buộc giữ chay có hai ngày: Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng biết bao người đã so đo, tính toán thiệt hơn, coi việc giữ chay là chuyện nặng nề, mệt nhọc… Sống đạo như vậy là hình thức, là cái vỏ, còn trong thực tế không có gì cả! Chúng ta trung thành từng chi tiết nhỏ của luật, nhưng không hề có chút tâm tình hay có hồn trong đó!
Vì thế, nhiều người tham gia rất nhiều đoàn thể, lễ hội, nhưng điều quan trọng là sống bác ái, yêu thương, nhân hậu và công bằng thì họ lại không hề mảy may quan tâm!
Trong cuộc sống hàng ngày, người Ki-tô hữu thường xuyên bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa một cách hình thức, giả tạo còn trong lòng trí thì ở xa Ngài; các tín hữu còn bị cám dỗ bằng lòng với việc giữ đạo cách tối thiểu chỉ để lương tâm cảm thấy yên ổn…
Chúa Giê-su nói về những người biệt phái và luật sĩ. Họ nói nhiều nhưng làm ít hoặc chẳng làm gì hết; họ nói những lời tốt lành nhưng lại làm những điều xấu xa; họ lo chăm chút dáng vẻ bề ngoài cho người ta thấy mình đạo đức mẫu mực nhưng lòng họ thì hám danh, thích phô trương và tham lam.
Chúa Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Ngài: Những gì họ nói, đều là nói lời Thánh kinh, nên hãy nghe theo. Nhưng những việc họ làm thì mâu thuẫn với những lời họ dạy, cho nên đừng bắt chước những việc họ làm.
Qua đó, Chúa Giê-su nhắn nhủ những ai có trách nhiệm dạy bảo người khác phải sống và thực hành giống như những điều mình nói, với thái độ khiêm tốn và tận tình phục vụ (x. Mt. 23,11-12).
Chúa Giêsu vạch mặt chỉ tên những người Pharisêu giả hình. Họ thuộc hạng phô trương, hình thức, khoe mẽ. Họ giữ luật từng chi tiết, nhưng đời sống của họ thì không hề có chút tình thương nào cả! Ngài nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào; họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. Và Đức Giêsu cảnh báo: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
Chúa cảnh cáo là tội ích kỷ tự cao, chỉ sống cho mình, mình là hơn hết. Cái tôi lúc nào cũng to tướng kềnh càng. Khi cầu nguyện đứng phơi ra phố xá (Mt 6,1-6.16-18), ăn chay thì rầu rĩ làm bộ đói lòng, mặc áo xúng xính tua rua. Đi tiệc ngồi chỗ nhất (c.1-12), ở hội đường, ngồi vào ghế danh dự. Tất cả tố cáo một tâm hồn tự cao quá mức.
Nói tới tự cao hay kiêu ngạo, có lẽ trong lòng chúng ta cho rằng: cái này thì có lẽ mình không có, hay nếu có thì cũng chỉ sơ sơ chút ít vậy. Ước chi lời đó đúng sự thật. Nhưng biết đâu, chính sự không nhận biết mình kiêu ngạo lại là dấu mình kiêu ngạo. Kiêu ngạo là yêu mình quá độ, thích coi mình hơn kẻ khác. Kiêu ngạo là phóng đại sự quan trọng của mình và coi mình nhưj một thứ trung tâm, là rốn vũ trụ, là thước đo cho mọi người phải kính nể tuân phục.
Nguyên chất kiêu ngạo là thế nhưng nó mặc nhiều hiểu áo khác nhau. Chẳng hạn xét đoán xấu cho ai gọi là lỗi điều răn thứ VIII hay V về công bằng bác ái, nhưng đầu mối cũng là kiêu ngạo, vì thực ra xét đoán ai là tự đặt mình lên trên kẻ bị xét đoán, tự đặt mình lên trên họ. Rồi chẳng hạn khinh dể, nói hành, rỉ tai, bắn xấu, bới xấu kẻ khác… vì khi làm như thế là ta muốn họ phải sút kém, phải gặp cảnh bèo hết nước cúi lạy mà cắn cỏ xin thua. Có thể nói hầu hết các tội và các nết xấu đều phát sinh bởi kiêu ngạo hay ít ra có liên hiệp với kiêu ngạo.
Kiêu ngạo không những có một phạm vi rộng lớn trong các tội mà nó còn có một đặc điểm riêng mà chỉ mình nó mới có. Đó là nó dám lẻn vào cả những việc lành phúc đức. Đi nhà thờ, rước lễ, bố thí… là những việc lành. Nhưng không khéo những việc ấy trở nên vô ích. Ở đảo Bahur người ta tìm được viên hồng ngọc to và chiếu sáng tuyệt trần. Cả dân làng chài đó vui mừng. Nhưng rồi một hôm đến xem chỉ còn một khối bụi vì một con sâu đã đục khoét làm hư hỏng hết. Con sâu kiêu ngạo. Biết bao việc lành bác ái truyền giáo đã bị hư hỏng vì Kiêu ngạo.
Khiêm nhường để hiểu rằng phẩm trật và quyền bính chỉ là khí cụ để phục vụ anh chị em mình tốt hơn, là cách thế để trở nên giống Đức Kitô hơn.
Khiêm nhường chính là nhân tố kiến tạo sự hiệp nhất trong Giáo hội – nhiệm thể Chúa Kitô – giúp mọi người thoát khỏi cám dỗ về chia rẽ, cám dỗ về tranh chấp quyền lợi, cám dỗ về danh vọng quyền lực, và luôn coi trọng người khác hơn mình…(x. Pl 2,1-5)
Khiêm nhường là biết chấp nhận sự thật. Cho dù chấp nhận sự thật là điều rất khó thực hiện. Vì sự thật đòi hỏi mỗi người phải suy xét lại cách sống của mình, và đòi hỏi lựa chọn một cách sống mới, tích cực hơn cho bản thân người biết khiêm nhường.
Chúng ta đang sống trong những tuần đầu của Mùa Chay, mỗi người Kitô hữu được mời gọi hãy hoán cải để nhận ra sự kiêu ngạo, khoe khoang, hình thức bấy lâu nay. Từ đó, hãy lo sám hối và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đồng thời biết khiêm tốn để Lời Chúa được thấm nhập vào trong tâm hồn của mình, ngõ hầu chúng ta sẽ trở thành người có Chúa và loan truyền Chúa cho anh chị em mình bằng chính đời sống khiêm tốn, phục vụ.
Khiêm nhường giúp mỗi người thành thật hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa, và trước mặt anh chị em mình là hình ảnh Thiên Chúa; hoặc đang là người đại diện Thiên Chúa…để từ đó biết tôn trọng người khác hơn chính bản thân mình.
Hiện nay, có nhiều người mắc hội chứng sao, hội chứng nổi tiếng. Họ không ngại dùng bất cứ chiêu trò nào, kể cả những việc gây sốc, tạo xì-căng-đan để gây chú ý, để được nổi trội, để được nổi tiếng…
Còn lối sống của người Kitô hữu thì sao ? Có dám đi ngược lại lối sống như hiện nay không ? Có dám sống như Chúa Giêsu dạy: Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai sống khiêm hạ thì sẽ được tôn vinh hay không ?
Chúa Giêsu đã đưa ra lối sống đẹp mà chính Người là mẫu gương cho chúng ta qua chính cuộc sống của Ngài: sống khiêm nhường và hiền hậu (Mt 11,29); nêu gương tự hạ mình trong mầu nhiệm nhập thể, chấp nhận sống như phàm nhân, và chết tủi nhục (Pl 2,6-8)…
Đối lập với xã hội hôm nay, người ta mải lo thâu tóm của cải và quyền lực để khẳng định mình quan trọng và tìm cách cai trị người khác; thì Đức Giêsu đang mời gọi chúng ta làm chứng nhân cho Ngài bằng đời sống thánh thiện, vui tươi và tinh thần khiêm tốn phục vụ âm thầm như muối, như men giữa lòng đời.
2024
Hãy sống nhân từ
26.2Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mùa Chay
Đn 9:4-10; Tv 79:8,9,11,13; Lc 6:36-38
Hãy sống nhân từ
Chúa dạy các môn đệ phải có tinh thần từ tâm với anh em. Đòi hỏi này gián tiếp chấp nhận sự thật là trong đời sống chúng có những rạn nứt, phiền hà gây đau khổ cho nhau. Nhưng để làm chứng cho tinh thần khoan dung của Chúa đối với tội nhân, Chúa đòi hỏi con cái Ngài, cũng phải có lòng từ tâm đối với nhau. Vì thế, Đức Giêsu đã giới thiệu lòng nhân từ của Thiên Chúa là Cha, như mẫu gương cho các môn đệ noi theo: như Cha anh em trên trời là Đấng nhân từ.
Chúa Giêsu huấn dụ các môn đệ về tinh thần phải có trong cộng đoàn: có lòng nhân từ, đừng xét đoán và kết án, hãy tha thứ, biết cho đi. Đặc biệt Chúa Giêsu nói rằng tuỳ cách chúng ta đối xử với người khác như thế nào mà ta sẽ được Thiên Chúa đối xử như thế đó.
Hãy ở nhân từ như Cha các ngươi là Đấng nhân từ:
– Đừng xét đoán, đừng kết án thì khỏi bị kết án.
– Hãy tha thứ thì sẽ được tha thứ.
– Hãy cho đi thì sẽ được cho lại.
Sau khi công bố Hiến chương Nước trời, Chúa Giêsu đưa ra những đòi hỏi cụ thể: chúng ta phải thương yêu nhau. Đây là lề luật phải giữ, phải thực hiện. Để đi xa hơn, Chúa Giêsu còn đòi hỏi mỗi môn đệ phải yêu thương mọi người không trừ ai, kể cả kẻ thù của mình và bách hại mình. Chúng ta cũng được kêu gọi hãy tha thứ cho kẻ thù và đừng bao giờ lên án ai, đừng bao giờ dùng bạo lực, tốt nhất là làm cho tha nhân điều mà ta muốn tha nhân làm cho mình.
Lý do của tất cả cách cư xử trên vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”. Cha chúng ta thế nào, chúng ta cũng phải sống như vậy, vì thế chúng ta hãy yêu thương, tha thứ, đừng xét đoán, biết cho đi.
Chúa Giêsu cấm không được xét đoán, vì một đàng, con người thì hữu hạn lại vô thập toàn, nên không thể xét đoán đúng và công bằng được; đàng khác, chỉ có Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên trong, mới có quyền xét đoán. Nhưng Chúa không cấm con người nhận định về nhau, để giúp nhau hoàn thiện và thăng tiến như sửa lỗi cho nhau, khuyên nhủ nhau…
Chúa Cha là Đấng nhân từ, Chúa Giêsu, con Chúa Cha mời gọi chúng ta ở nhân từ như Chúa Cha, đồng thời trở nên dấu chỉ và chứng nhân của lòng nhân từ Chúa giữa thế gian.
Chúa Giêsu bảo: “Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ” ( Lc 6, 37).
“Đứng xét đoán” (Lc 6,37) ở đây không phải là không phê phán ai cho dù người ấy gây gương mù gương xấu. Nếu hiểu chữ xét đoán như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại lên án những kẻ gây gương mù. Chữ “xét đoán” ở đây được hiểu là chỉ trích, phê bình, lên án người khác cách vô trách nhiệm.
Tại sao Chúa dạy người con không được xét đoán và lên án? Thưa là vì con người nhân vô thập toàn không có quyền lên án, cũng không thể xét đoán đúng và công bằng được, chỉ có Chúa là Đấng công mình, cầm quyền sinh tử mới có quyền lên án, kết án con người. Còn câu Chúa nói: “Đừng lên án các người sẽ không bị lên án” (Lc 6, 37). Chúa muốn nói với chúng ta rằng, nếu chúng ta không muốn người khác khắt khe với mình thì trước hết chúng ta đừng đối xứ với họ như vậy, đó là cách xử từ tâm. Chúa bảo chúng ta phải tha thứ. Đơn giản vì chúng ta đã được Thiên Chúa thứ tha.
“Hãy cho…Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Thiên Chúa đã cho chúng ta quá nhiều, chúng ta hãy cho anh em mình theo đúng cách Chúa đã ban thì chúng ta lại tiếp tục nhận lãnh từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Đấng chậm giận, Đấng giàu lòng tình thương. Bởi vì nếu Chúa chấp tội thì ai có thể đứng vững trước nhan Chúa.
Người môn đệ Chúa Giêsu được kêu mời luôn thể hiện dung nhan hiền từ của Chúa cho tha nhân. Theo Chúa Giêsu, sống nhân từ không xét đoán anh em của mình, không kết án tha nhân của mình, biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình, là hoa trái của một cuộc đời biết sống như Chúa. Đây là cách sống luôn có sức hấp dẫn lôi kéo người khác đến với mình. Cuộc sống đó sẽ không cô đơn nhưng bên cạnh luôn có những người bạn thân thiết. Nếu lỡ cuộc sống có những lầm lỗi yếu đuối thì họ sẽ được người khác dễ dàng thông cảm và tha thứ.
Nhân từ còn là món quà trang sức tô điểm xinh tươi cho gia đình. Thử hỏi nếu vợ chồng sống nhân từ với nhau thì tình yêu của họ sẽ như thế nào? Cha mẹ sống nhân từ với con cái thì gia đình đó sẽ ra sao? Nhân từ còn là sức mạnh xây dựng một xã hội vững bền an vui. Thử hỏi nếu giữa người với người sống nhân từ với nhau, giữa tập thể sống nhân từ với một tập thể, giữa quốc gia sống nhân từ với một quốc gia, thì đất nước và thế giới sẽ hạnh phúc biết bao.
Chính vì thế, chúng ta xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta có lòng nhân từ như Cha chúng ta là Đấng nhân từ.
2024
Yêu thương kẻ thù
24.2Thứ Bảy trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Đnl 26:16-19; Tv 119:1-2,4-5,7-8; Mt 5:43-48
Yêu thương kẻ thù
Để sống hoàn thiện theo gương Thiên Chúa là Cha trên trời, Đức Giêsu dạy các môn đệ không những không được báo thù (Mt 5,38-42), mà còn phải yêu thương kẻ thù nữa.
Trong bài Tin mừng Đức Giêsu dạy các môn đệ một cách sống cao hơn: “Các ngươi đã nghe dạy hãy yêu thương thân nhân và hãy thù ghét kẻ thù. Còn Ta, Ta bảo các ngươi hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các ngươi”.
Lý do chúng ta phải yêu thương kẻ thù là: “Các ngươi hãy nên hoàn hảo như Cha các ngươi ngự trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Tác giả sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau: “Bác ái yêu thương là tu đức liên lỉ: tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan. Tất cả con người của con cũng vậy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết lên đó đức tính của người mà con bất bình, con sẽ thấy rằng họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ đâu. Con đừng muốn biết quá khứ của anh em, nhưng hãy chỉ muốn biết hiện tại của anh em, để khuyến khích nâng đỡ nhau. Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn hay chối Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin vào tình yêu và vào Lời Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người ngay trong giây phút này”.
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những “anh em” được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận, thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự huỷ hoại mình.
Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa hận thù. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.
Trong đòi hỏi yêu thương kẻ thù, giai đoạn đầu tiên là yêu thương mọi người, không trừ ai. Giai đoạn thứ hai phát xuất từ giai đoạn một: một khi đã yêu thương mọi người không trừ ai, tất phải yêu thương cả kẻ thù nghịch là những người cố ý hay vô tình làm hại ta. Nếu làm được như thế là đã cố gắng trở thành toàn thiện như Cha trên trời toàn thiện.
Thường tình ai cũng yêu những người gần gũi, thân thuộc với mình, còn kẻ thù thì không yêu được, như vậy là hợp lẽ phải và công bằng. Nhưng Thiên Chúa đòi chúng ta tiến xa hơn. Đức Giêsu đòi ta mở rộng tâm hồn, kéo dài tầm nhìn vượt quá phạm vi bạn hữu, gia đình, thân cận, phe nhóm của ta.
Chúa muốn dạy chúng ta không những phải sống theo lẽ phải mà còn vượt trên lẽ phải. Bình thường chúng ta yêu bạn ghét thù, nhưng Chúa dạy chúng ta yêu bạn yêu thù, tức là Chúa dạy chúng ta đối xử với mọi người không có điều kiện nào cả, dù người đó tốt hay xấu, bạn hay thù. Chúa đưa ra ví dụ mặt trời và mưa rơi làm sáng tỏ vấn đề này.