2023
THƯA LỜI XIN VÂNG NHƯ MẸ
21.11 Lễ Đức Mẹ dâng mình và Đền Thánh
2 Mcb 6:18-31; Tv 3:2-3,4-5,6-8; Lc 19:1-10
THƯA LỜI XIN VÂNG NHƯ MẸ
Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh là Dân riêng mới. Dân riêng mới được quy tụ không theo tiêu chuẩn huyết thống, nhưng theo tiêu chuẩn tin và thi hành ý muốn Chúa Cha.
Lễ Đức Mẹ dâng mình và Đền Thánh phát xuất từ Đông Phương, miền truyền giáo của thánh Gioan tông đồ và có thể là nơi xuất phát lòng tôn sùng Đức Mẹ sâu sắc hơn cả. Dĩ nhiên, câu truyện Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ không được viết trong Thánh Kinh. Phải đọc nó trong các sách bình dân không có phép của giáo quyền. Nghĩa là không có gì chắc chắn Đức Maria đã dâng mình vào đền thờ khi lên ba. Nhưng cuộc đời của Đức Mẹ là cả một lễ dâng mình kéo dài mà đỉnh cao như chúng ta sẽ nói là ở đồi Sọ, gần thập giá Đức Giêsu.
Maria sinh ra được giáo dục trong lòng đạo đức của Dân được tuyển chọn. Lớn lên, một trong những câu truyện đầu tiên cô được nghe và phải thuộc lòng, chính là câu truyện về cuộc đời của Abraham tổ phụ dân Chúa. Và Thánh Kinh kể Abraham là con người có đức tin, tin một mình Đức Chúa, tin hoàn toàn vào Lời Hứa và sự dẫn dắt của Người.
Vì Đức Chúa, để gắn bó với Người, ông bỏ quê hương, bỏ gia tộc, bỏ mọi sự, đi theo Chúa. Không phải ông không mơ ước điều nọ điều kia. Ông đi theo Chúa vì Chúa hứa cho ông một giang sơn, một dòng dõi, một đời sống hạnh phúc bất tận. Dần dần ông thấy mình được những điều đó. Đặc biệt đến tuổi 100, ông đã được Chúa ban đứa con nối dòng là Isaac. Chúng ta cứ thử nghĩ xem Isaac đối với ông quí như thế nào. Đó là sự sống của ông, sự sống sẽ được nối dài trong bao ngàn thế hệ… Thế mà Chúa lại đòi ông đi sát tế Isaac. Lòng đau như cắt, ông xin vâng, dẫn Isaac lên tế đàn…
Việc Đức Mẹ dâng mình vào Đền Thờ cũng là một vấn đề còn nhiều tranh luận. Đúng hơn, chúng ta phải hiểu chính Đức Maria là Đền Thờ sống động của Thiên Chúa. Qua tiếng thưa vâng để đáp lại ơn gọi, Đức Maria trở thành Đền Thờ của Thiên Chúa, là thành Giêrusalem viên mãn và là mẫu mực của Hội thánh Chúa Kitô.
Mẹ Maria đã thực hiện tập tục, truyền thống của người Do Thái là dâng hiến tuổi thơ mình cho Thiên Chúa Giavê trong đền thánh. Đây là tục lệ của người Do Thái là bất cứ trẻ nhỏ nào cũng được dâng vào đền thánh để được thánh hiến và sau đó sẽ ở lại đền thờ một thời gian để giúp việc và phục vụ các vị chủ tế. Mẹ Maria đã tuân theo truyền thống của người Do Thái.
Ðức Giêsu không bao giờ coi nhẹ tình cảm gia đình, Ngài càng không hề lãnh đạm với mẹ và anh em của Ngài. Tuy nhiên, Ngài luôn đề cao mối liên hệ thiêng liêng trong niềm tin và lòng yêu mến theo Tin Mừng.
Cho nên, Ngài khẳng định: “Ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy”, cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.
Khi khẳng định, mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết. Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ, khi đáp trả: “Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô: Lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Mẹ luôn suy gẫm trong lòng các biến cố cuộc đời Đấng Cứu Thế, đặc biệt, dưới chân thập tự, Mẹ sống đức tin vào Thiên Chúa mãnh liệt nhất. Cho nên, trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.
Chúng ta cùng ý thức mình thực sự là anh chị em với Chúa, khi sống: Xin vâng theo thánh ý Chúa (Lc 1,38)
Mừng Lễ Ðức Mẹ dâng mình vào đền thánh, không gì chúng ta có thể làm đẹp lòng Mẹ hơn là học cùng Mẹ để bập bẹ thưa: “Xin vâng!”.
2023
NIỀM TIN CỦA ANH MÙ – NIỀM TIN CỦA CHÚNG TA
20.11
Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
1 Mcb 1:10-15,41-43,54-57,62-63; Tv 119:53,61,134,150,155,158; Lc 18:35-43
NIỀM TIN CỦA ANH MÙ – NIỀM TIN CỦA CHÚNG TA
Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa lành một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Việc chữa lành cho người mù được thánh Luca thuật lại một cách rất ngắn gọn và nhanh chóng. Anh mù xin Đức Giêsu chữa lành cho mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Và Đức Giêsu không chút ngập ngừng, lập tức chữa lành cho anh: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Thế nhưng việc anh mù được chữa lành dường như ngay lập tức lại là cả một hành trình của đức tin.
Tin Mừng hôm nay thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu đến Giê-ri-khô, có ba đối tượng mà thánh sử quan tâm trong trình thuật đó là anh mù, đám đông và Chúa Giêsu.
Trước hết là về anh mù. Đôi mắt của anh tuy không nhìn thấy, nhưng đôi tai anh vẫn nghe rõ, miệng vẫn nói được, và lòng trí anh vẫn có thể phân định rất tốt. Anh ta biết nhìn nhận hoàn cảnh ngặt nghèo của bản thân, anh ta can đảm đối diện với sự thật éo le ấy và khao khát cho mình nên hoàn hảo, ít là về mặt thể lý. Anh mù đã biết dùng những phần tốt, phần hoàn thiện còn lại của mình để tìm con đường hoàn hảo cho bản thân. Anh dùng tai để nghe về Đấng quyền năng đang đi ngang qua, anh dùng niềm tin để xác tín rằng Đấng ấy có thể chữa cho anh được sáng mắt, và anh dùng miệng để khẩn nài lòng thương xót vô biên của “Con vua Đa-vít”.
Anh này tuy mù đôi mắt, nhưng lại có lòng khiêm tốn và thành khẩn khát mong bàn tay uy quyền nào đó sẽ chữa lành cho anh. Anh mù đôi mắt, nhưng anh lại biết rõ mình, biết người và biết Chúa. Anh biết mình chưa hoàn thiện ở góc độ nào; anh biết những người khác hoàn thiện hơn mình và khiêm tốn xin họ giúp đỡ; và anh cũng nghe biết về lòng thương xót vô biên của Chúa, anh khao khát gặp Ngài và anh tha thiết nài xin Ngài cứu chữa.
Đối tượng thứ hai thánh Luca muốn đề cập là đám đông. Một số người khi anh mù hỏi đã trả lời cho anh rằng Chúa Giêsu đang đi ngang qua. Và khi Chúa đi qua anh đã kêu lớn tiếng để được Chúa cứu chữa, nhưng có một số người khác lại quát mắng kêu anh ta im. Tuy nhiên, cũng trong đám đông đó thì thánh sử Mác-cô cho biết thêm chi tiết có người đã khuyến khích anh: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”
Phải chăng hình ảnh đám đông đối xử với anh mù cũng phản ánh đời sống của chúng ta hôm nay. Trước tình trạng yếu đuối và khiếm khuyết của anh chị em đồng loại, đôi khi chúng ta cũng có thái độ như một số người nơi đám đông ấy. Chúng ta đã không giúp đỡ mà còn cản trở không cho họ đến gần Thiên Chúa, không cho họ được chạm vào bàn tay xót thương và chữa lành của Ngài. Tất nhiên, thái độ của một số người cho anh mù biết về quyền năng Thiên Chúa là một thái độ mà mỗi người chúng ta cần phải có.
Cuối cùng là về Chúa Giêsu. Ngài đã dừng lại khi nghe tiếng nài van thành khẩn của anh mù. Ngài hiểu nhu cầu của anh, Ngài cũng hiểu lòng thành của anh. Sứ mạng của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng, nhưng đồng thời Ngài cũng có sứ mạng loan truyền lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài đã chữa cho anh không chỉ đôi mắt bị mù, nhưng còn chữa cho anh về lòng tin, và cho đám đông nhận biết ân sủng cứu độ của Ngài.
Ba đối tượng mà thánh Luca muốn nêu bật trong Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhìn vào chính bản thân mình. Có thể tình trạng thể lý của mỗi người chúng ta không mù lòa, nhưng lại mù lòa về đức tin. Anh thanh niên trong Tin Mừng hôm nay mù về thể lý nhưng lại sáng về tinh thần, anh biết mình, biết người và biết Chúa.
Sự mù lòa thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù lòa: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được”, anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng như thánh Luca ghi lại: “Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.” Anh mù đã sống đúng lý tưởng của người môn đệ Chúa: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời.”
Hành trình của đức tin của anh mù được bắt đầu bằng việc anh ước muốn được thoát ra cảnh mù lòa của mình và anh tin Đức Giêsu có thể thỏa mãn ước muốn của anh. Vì thế, anh khao khát được gặp Đức Giêsu để Người chữa lành anh. Thế rồi thời khắc khỏa lấp niềm khao khát đã đến, anh nghe biết Đức Giêsu đang đi qua. Anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi. Hành trình của đức tin của anh mù lúc này gặp thử thách. Thế nhưng những khó khăn thử thách không những không làm cho niềm tin của anh yếu đi mà lại càng làm cho anh xác tin hơn. Anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Với niềm tin mạnh mẽ vào Đức Giêsu – Đấng sẽ chữa lành cho anh – anh gặp được Người và anh được chữa khỏi.
Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta từng cầu xin Chúa, thậm chí hơn cả số lần mà anh mù xứ Giêrikhô van xin trong Tin mừng hôm nay. Nhưng nhiều khi chúng ta chẳng nhận được điều mình muốn xin. Vì sao thế! Trước tiên, đức tin của chúng ta còn yếu kém hơn anh mù. Quả thật, dù anh chỉ được nghe kể về Chúa và khi cơ hội được gặp Chúa đã đến và cho dù bị đám đông ngăn cản, anh vẫn can đảm vượt qua mọi rào cản để có thể gặp Chúa dù là đức tin. Chính Chúa khẳng định: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Đồng thời, thay vì điều mà chúng ta xin nên thật đơn sơ và thực tế như anh mù: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được”, chúng ta lại thường tham lam khi cầu xin nhiều thứ hơn điều chúng ta tối thiểu đang cần. Chúa Giêsu dạy rằng: “xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
2023
CẦU NGUYỆN LÀ SỰ SỐNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
18.11
Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mươi-Hai Mùa Quanh Năm
Kn 18:14-16; Tv 105:2-3,36-37,42-43; Lc 18:1-8
CẦU NGUYỆN LÀ SỰ SỐNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
Bất kể một tôn giáo nào, cầu nguyện là yếu tố sống còn của mình. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công Giáo, chính là thể hiện niềm tin, phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu một lần nữa nhắc lại cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện, đồng thời Ngài dạy mỗi chúng ta hãy kiên trì, trung thành khi cầu nguyện qua dụ ngôn vị thẩm phán bất lương và bà góa nghèo.
Nếu cá cần nước để sống; cây cối cần ánh sáng mặt trời để quang hợp và sinh trưởng, thì cầu nguyện cũng cần cho đời sống của người Kitô hữu như vậy. Cầu nguyện chính là nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa để xin Ngài ban ơn, nâng đỡ. Cầu nguyện còn nói lên một sự thật là ta thuộc về Chúa; Chúa thuộc về ta. Tuy nhiên, vẫn là khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài luôn thúc đẩy tâm hồn chúng ta khao khát Ngài: “Như nai rừng mong mỏi, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa”. Hay nói như thánh Âu Tinh: “Lạy Chúa, tâm hồn con vẫn bồn chồn xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”.
Khi nói đến sự cần thiết của cầu nguyện, Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khuyên các môn đệ của mình hãy cầu nguyện, và, chính Ngài cũng luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Thật vậy, Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển. Đặc biệt, nơi các giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta thấy toát lên tâm tình cầu nguyện. Khi dạy các Tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Rồi khi dạy các ông về sự tín thác, Ngài nói: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5). Qua câu nói này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy sức mạnh vô song của lời cầu nguyện, cũng như quyền năng của Thiên Chúa trên mọi sự.
Tin mừng Lu-ca kể ra dụ ngôn của Đức Giê-su về bà góa và ông quan tòa nhằm dạy các môn đệ: “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Một người bất lương như ông quan tòa mà còn phải chịu thua lòng kiên trì nài xin của bà góa nghèo. Phương chi Thiên Chúa là Cha nhân lành lại không mau chóng bênh vực những kẻ hằng kêu xin Người đêm ngày hay sao? Tuy nhiên có nhiều kẻ vì thiếu kiên trì khi gặp phải gian nan thử thách nên đã sớm bị mất đức tin. Vì thế Đức Giê-su đã phải thốt lên lời than phiền như sau: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”.
Bà góa mà Đức Giêsu nói đến hôm nay chính là một trong những thành phần bị xã hội khinh khi, bỏ rơi; là thành phần thấp cổ bé họng trong xã hội, không có tiếng nói và ít được ai quan tâm. Sở dĩ có sự kỳ thị này là do thói quen, văn hóa và truyền thống của một số nước niềm Cận Đông thời bấy giờ. Thành phần bà góa là một trong ba thành phần không cần quan tâm (quả phụ, cô nhi và di dân). Họ cũng không có quyền đòi xã hội phải công bằng với mình. Chính vì thế, việc ông thẩm phán dửng dưng và không thèm quan tâm tới bà là lẽ đương nhiên, không có gì lạ. Ý thức được điều đó, nên bà đã trai lỳ và hoàn toàn phó thác trong tay vị thẩm phán bất công.
Nói lên tính kiên trì của bà góa này, tưởng cũng nên nhắc lại khuôn mặt của vị thẩm phán trong dụ ngôn hôm nay để thấy được lòng kiên định, trung thành của người đàn bà.
Vị thẩm phán chính là một người bất lương, tham nhũng, bóc lột. Cuộc đời của ông là tiền và quyền chứ không có ân nghĩa gì hết. Vì thế, ông ta “không có kiêng nể ai” và, cũng “chẳng coi Thiên Chúa ra gì”. Cán cân công lý của ông chính là tiền. Tuy nhiên, ông đã chịu thua bà góa nghèo. Bà này có một thứ vũ khí thần kỳ, khiến vị thẩm phán cứng lòng, vô cảm đến đâu cũng phải khuất phục, đó là: kiên trì để ngồi lỳ, kỳ nèo, năn nỉ. Quả thật, ông thẩm phán này không thể chịu nổi sự phiền hà của bà góa. Cuối cùng, ông ta đã phải mở phiên tòa để minh oan cho bà. Điều mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự kiên trì của bà góa. Và, đi xa hơn một bước nữa, Đức Giêsu muốn nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa qua hình ảnh vị quan tòa.
Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương bà goá bị oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông thẩm phán minh oan (Bài Tin Mừng). Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
Điều làm cho Chúa đau lòng là nhiều người đã bị mất đức tin, trong đó có thể có cả chúng con nữa. Nhiều lúc chúng con đã không tin vào hiệu lực của lời cầu xin: Khi gặp khổ đau hoạn nạn, chúng con thường than thân trách phận, mà không cầu xin Chúa ban ơn nâng đỡ. Cũng có những lúc chúng con chỉ biết dựa vào sức riêng của mình, dựa vào thế lực của tiền bạc hay những kẻ quyền cao chức trọng… mà không biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp. Nhiều lúc chúng con tỏ ra chán nản thất vọng vì cầu xin mãi mà không được Chúa ban theo ý chúng con.
Xin giúp chúng con kiên trì cầu nguyện và đừng bao giờ nản chí buông xuôi. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Những ai tin cậy vào Chúa, sẽ không bao giờ phải thất vọng hổ ngươi” (Tv 34,6).
2023
Hy sinh
17.11
Thánh Elizabeth nước Hung Gia Lợi, Tu Sĩ
Kn 13:1-9; Tv 19:2-3,4-5; Lc 17:26-37
Hy sinh
Tuy cuộc đời của Thánh Elizabeth thật ngắn ngủi, nhưng lòng thương yêu ngài dành cho người nghèo và người đau khổ thật lớn lao, đến nỗi ngài được Giáo Hội đặt làm quan thầy của các tổ chức bác ái Công Giáo, và của Dòng Ba Phanxicô. Là con gái của vua Hung Gia Lợi, thay vì chọn một đời sống xa hoa nhàn hạ, Thánh Elizabeth đã đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình. Quyết định đó, đã để lại trong tâm khảm của bao người dân Âu Châu niềm cảm mến sâu xa.
Khi lên 14 tuổi, ngài kết hôn với ông Louis ở Thuringia (một quận chúa của Ðức), là người mà ngài rất yêu mến, và có được ba mặt con. Dưới sự linh hướng của các tu sĩ Phanxicô, ngài sống đời cầu nguyện, hy sinh và phục vụ người nghèo cũng như người đau yếu. Không những thế, ngài còn muốn trở nên một người nghèo thực sự qua cách ăn mặc thật đơn sơ. Mỗi ngày, ngài phân phát thực phẩm cho hàng trăm người nghèo trong vùng, mà lúc nào cũng đầy nghẹt trước cửa nhà.
Sau sáu năm thành hôn, ngài thật đau khổ khi nghe tin chồng tử trận trong cuộc Thập Tự Chinh. Buồn hơn nữa, gia đình nhà chồng lại coi ngài là người hoang phí tiền bạc của hoàng gia, nên đã đối xử với ngài thật thậm tệ, và sau cùng họ đã tống ngài ra khỏi hoàng cung. Nhưng sau cuộc thập tự chinh, những người thân thuộc bên chồng trở về đã phục hồi quyền lợi cho ngài, vì con trai của ngài là người thừa kế chính thức.
Vào năm 1229, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một bệnh viện, mà ngài đã thiết lập để vinh danh Thánh Phanxicô. Sức khỏe của ngài ngày càng sa sút, và sau cùng ngài đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày sinh nhật thứ 24, năm 1231. Vì sự nổi tiếng về nhân đức của ngài, nên chỉ bốn năm sau ngài đã được phong Thánh.
Thánh Elizabeth hiểu rất rõ bài học của Ðức Kitô, khi Người rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: người Kitô phải là người phục vụ những nhu cầu cần thiết của tha nhân, dù người phục vụ có địa vị cao trọng. Là một người trong hoàng tộc, Thánh Elizabeth đã có thể sai khiến người dân, nhưng ngài đã phục vụ họ với một tâm hồn thật đại lượng, đến nỗi trong cuộc đời ngắn ngủi ấy ngài đã được sự quý mến của rất nhiều người. Thánh Elizabeth còn là gương mẫu cho chúng ta về sự tuân phục vị linh hướng. Thăng tiến đời sống tâm linh là một tiến trình thật khó khăn. Chúng ta rất dễ tương nhượng, nếu không có ai khích lệ hay chia sẻ những kinh nghiệm để giúp chúng ta tránh được các cạm bẫy.
Trong những ngày cuối năm phụng vụ Giáo hội cho chúng ta lắng nghe những bản Tin Mừng nhấn mạnh chủ đề cánh chung để hướng tâm tư chúng ta về ngày của Con Người đến phán xét, ngày cánh chung. Ngày ấy có thể là ngày từ giã cõi đời của mỗi người chúng ta. Ngày ấy có thể là ngày tận thế khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang.
Suy nghĩ về sự chết hay khi nhớ đến những người quá cố, là tư thế tỉnh thức tích cực chờ đợi của ngày giờ Thiên Chúa đến xét xử, thời điểm mà chúng ta không biết rõ thời gian, không gian của ngày phán xét, nhưng luôn hy vọng trong niềm tin chờ đợi vào ngày cánh chung như: Thời ông Noe, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng mà không màng đến lời cảnh cáo của ông, đến khi đại nạn hồng thủy đến thì đã quá muộn. Cho nên, để được cứu cần phải sống trong tinh thần chờ đợi và chuẩn bị sẵn sàng như Ngài dạy: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42).
Sau khi nói về ngày khai mạc và kết thúc Nước trời ở trần gian, Đức Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, tức là ngày tận thế. Trong đoạn Tin mừng hôm qua, Đức Giêsu đã bảo đừng mất công tìm hiểu khi nào và dấu nào cho biết ngày ấy đến. Điều quan trọng là phải sẵn sàng. Lời cảnh cáo của Đức Giêsu cho thấy đó là ngày đáng sợ, không ai có thể thoát. Nhưng đó là ngày hân hoan hạnh phúc cho những ai ở đời này đã sống hết mình với Chúa, với tha nhân: dám hy sinh tất cả dù phải mất mạng sống mình. Mọi người tín hữu phải có thái độ sẵn sàng chờ đợi ngày ấy trong từng giây phút hiện tại của mình.
Các môn đệ khi nghe Đức Giêsu nói đến việc Ngài lại đến, đã tò mò muốn biết lúc nào, tại đâu và như thế nào ? Nhưng trong cách trả lời của Chúa, chúng ta nhận thấy điều quan trọng đáng quan tâm không phải là biết thời giờ và ở đâu, mà là thái độ sẵn sàng của mỗi người. Người Kitô hữu cần ý thức rằng cách tốt nhất để chuẩn bị đón Chúa đến, là không thụ động ngồi chờ, nhưng tích cực hướng về Chúa và dấn thân phục vụ.
Tin Mừng hôm nay tiếp liền đoạn hôm qua về “Ngày của Con Người” tức là ngày quang lâm. Trong đoạn hôm qua, Chúa Giêsu đã bảo đừng mất công tìm hiểu xem khi nào và dấu nào cho biết Ngày ấy đến. Điều quan trọng phải làm là luôn sẵn sàng. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh để giải thích rõ hơn điều đó:
Trước hết Ngài dùng 2 chuyện Cựu Ước về ông Nôê và ông Lót để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (“ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, “ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất”). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng đã nói ở trên là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi Ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.
Tiếp theo là một số hình ảnh giúp dễ hiểu: a/ Người đang ở trên sân thượng thì đừng xuống nhà để lấy đồ đạc; người đang ở ngoài ruộng cũng đừng trở về nhà (để lấy đồ đạc): vì khi đó của cải vật chất không còn quan trọng nữa. Cái quan trọng lúc đó là “sự sống”. Trong câu này chữ “sự sống” có 2 nghĩa: sự sống dựa trên “đồ đạc” chỉ là một giá trị phù du, không đáng tiếc rẻ; sự sống đáng trân trọng chính là sự sống với Chúa. Kẻ khôn ngoan là kẻ đám bỏ sự sống phù du kia để đổi lấy sự sống vĩnh cửu. b/ Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người nằm chung một giường, hai người đàn bà cùng xay một cối bột, hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).
Kết thúc bài nói chuyện là một câu hỏi ngớ ngẩn của các môn đệ: “Thưa Thầy, ở đâu vậy ?” Các ông vẫn còn lẩn quẩn trong những thắc mắc về thời gian và nơi chốn! Do đó Chúa Giêsu trả lời như thể không trả lời “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó”: Nghĩa là khỏi cần thắc mắc, vô ích. Hãy lo lúc nào cũng sẵn sàng.
Ý nghĩ về sự chết gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người và hướng con người tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống theo những giá trị vĩnh cửu của nước Trời mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Cho nên, tỉnh thức không những để chờ đợi Chúa đến vào ngày sau hết, nhưng là ngày hôm nay trong từng khoảnh khắc của cuộc sống.