2024
“TRỞ VỀ”
8.3Thứ Sáu trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Hs 14:2-10; Tv 81:6-8,8-9,10-11,14,17; Mc 12:28-34
“TRỞ VỀ”
Tin Mừng hôm nay trình thuật câu chuyện đối thoại giữa Đức Giêsu và một Kinh Sư. Khởi đi bằng một câu hỏi của ông này về việc: điều nào là quan trọng trong toàn bộ luật. Thấy vậy, Đức Giêsu đã tóm cho ông toàn bộ nội dung và mục đích của luật trong câu: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn”; và: “Phải yêu người thân cận như chính mình”.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng là làm sao? Thưa! Là thờ lạy, quy phục, là giữ và thực thi Lời Chúa, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để tin và theo Chúa, dù có phải khổ đau, hoạn nạn, thử thách và cuối cùng sẵn sàng chết cho Thiên Chúa là Đấng chúng ta tôn thờ, yêu mến.
Còn yêu người như chính mình thì như thế nào? Thưa! Là yêu hết mọi người, không phân biệt bạn hay thù, thánh thiện hay tội lỗi, giàu hay nghèo, quý tộc hay thường dân, người già hay trẻ nhỏ, phụ nữ hay đàn ông, màu da hay chủng tộc…
Yêu như thế là chúng ta đi vào tình yêu của chính Thiên Chúa, bởi vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu mà tình yêu của Ngài là hướng tha, là thực tế, không trừu tượng.
Muốn yêu được như thế, chúng ta phải chấp nhận cho đi, thiệt thòi, chịu liên lụy và đôi khi đành mất chính mình.
Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta cho đi theo kiểu: “Hòn đất ném đi, hòn trì ném lại”; hay “bỏ con tép, bắt con tôm”; hoặc “ông bỏ nắm xôi, bà thò nậm rượu…”.
Hãy trở về với Đức Chúa (Hs 14,2-3). Đây là lời mời gọi tha thiết dành cho nhà Is-ra-el. Is-ra-el được mời gọi “trở về”. Vậy, “trở về” nghĩa là gì?
“Trở về” ở đây không dừng lại ở ý nghĩa thể lý, nghĩa là một ai đó đi xa nhà và nay người ấy trở về; một ai đó đi lạc đường và nay trở về. “Trở về” còn mang một ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc. Đó là sự trở về của nội tâm, của trái tim. Dưới lăng kính của ngôn sứ Hô-sê, “trở về” là dứt bỏ tội lỗi và đặc biệt là dứt bỏ việc sùng bái ngẫu tượng. “Trờ về” nghĩa là tìm sự lành chứ không phải sự dữ, phải chê ghét sự dữ và yêu mến sự lành. Nói cách khác, “trở về” là chỉnh đốn hạnh kiểm và thực thi nghiêm chỉnh sự công chính. Đối với Hô-sê, những việc hoán cải giả tạo bên ngoài không thể mang lại kết quả nào. Thế nên, “trở về” đích thực là “trở về” của con tim được cảm hứng bởi tình yêu và sự nhận biết Thiên Chúa. Chỉ có sự “trở về” như thế mới có thể được Thiên Chúa dủ lòng thương xót. Có như thế, Thiên Chúa mới ban lại ân huệ của Ngài và sẽ nguôi giận.
Hôm nay, lời mời gọi “trở về” lại vang lên nơi tâm hồn chúng ta. Đây là lời mời gọi khẩn thiết dành cho chúng ta, đặc biệt trong mùa Chay này. Tại sao chúng ta cần “trở về”? Chúng ta trở về vì chúng ta sống xa Chúa; chúng ta đã nhiều lần bước vào con đường tội lỗi và nay chúng ta từ bỏ con đường ấy để trở về. Và trên hết, Chúng ta trở về vì Thiên Chúa là tình yêu. Chính nơi Người, chúng ta tìm được lòng thương cảm.
Trở về với Chúa là trở về với gia đình Giáo hội. Nơi đây chúng ta luôn tìm thấy con đường sự sống theo ơn gọi của Thiên Chúa. Sự sống triển nở trong tình yêu. Bởi lẽ, Đạo của chúng ta là đạo yêu thương: “mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính mình” (x. Mc 30-31). Giáo hội là ngôi nhà yêu thương. Do vậy, “trở về” không phải là trở về một không gian khép kín với bốn bức tường. Đúng hơn, hành trình “trở về” là hành trình tái khám phá tình yêu thương và cũng là hành trình loan báo tình Chúa yêu ta. “Trở về” là loan báo tin vui, Tin mừng yêu thương. Ước gì nhờ cuộc “trở về” tận căn của chúng ta, Tin mừng yêu thương có thể chạm đến những trái tim trai đá nguội lạnh. “Hãy trở về với Đức Chúa, mang theo lời cầu nguyện. Hãy thưa với Người: ‘Xin thư tha mọi gian ác, xin vui nhận lời ngợi khen chúng con dâng lên Ngài làm lễ vật thay thế bò tơ’” (Hs 14,3).
Mến một chúa duy nhất, có nghĩa là không được tôn thờ và gắn bó với bất cứ thụ tạo nào ngoài Thiên Chúa, vì chỉ có mình Thiên Chúa là đáng tôn thờ mà thôi. Vậy những ai tôn thờ và gắn bó với một thụ tạo nào khác, kể cả bản thân mình ngoài Thiên Chúa, thì đó là con đường sai lầm, không dẫn vào Nước Trời.
Con đường của tình yêu theo Tin Mừng không phải là con đường tam giác, nhưng là con đường hiệp nhất.Nó đem tha nhân và chính mình vào trong một mối tình duy nhất, bất diệt, vô biện và phổ quát của Thiên Chúa.
Hãy yêu thương tha nhân: Tha nhân theo giáo huấn hôm nay, không chỉ là người láng giềng hay người bạn thân, không chỉ là công dân cùng một tổ quốc, người đồng chí cùng một đoàn thể hay một con người dễ mến. Nhưng chính là tất cả mọi người.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu vạch ra cho ta con đường vào Nước Trời: đó là mến Chúa và yêu người. Và đó cũng là điều gồm tóm Mười điều răn của Chúa.
2024
ĐỨNG VỀ “PHE” CỦA CHÚA GIÊ-SU
7.3Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Gr 7:23-28; Tv 95:1-2,6-7,8-9; Lc 11:14-23
ĐỨNG VỀ “PHE” CỦA CHÚA GIÊ-SU
Khởi đầu sứ vụ rao giảng, Chúa Giê-su đã được Chúa Thánh Thần dẫn vào trong sa mạc để chịu quỷ cám dỗ và sau khi đã tìm mọi cách cám dỗ Người, quỷ đã bỏ đi và chờ đợi thời cơ khác (x. Lc 4,1-13). Cuộc chiến giữa Chúa Giê-su và Sa-tan nơi sa mạc vẫn tiếp tục xảy ra trong cuộc đời rao giảng của Chúa và cụ thể trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã trừ một tên quỷ câm.
Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã dùng chính ngón tay Thiên Chúa để trừ một tên quỷ câm, đồng thời Ngài cũng tỏ cho con người biết “Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa họ” (x.c.20).
Thế nhưng, những người lãnh đạo Do thái đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa đang ẩn hiện nơi con người Đức Giêsu. Họ đã đồng hoá Ngài với quỷ vương Bêendêbun. Bởi lẽ lòng chai dạ đá của họ đã ngăn cản không cho họ nhận biết Thiên Chúa và sức mạnh vô song của Ngài.
Có lẽ trong mỗi chúng ta cũng đã hơn một lần lãnh đạm trước tình yêu Thiên Chúa; khô khan cứng lòng trước quyền năng Ngài đang hoạt động trong chúng ta và trên thế giới. Tâm hồn chúng ta khi đó đầy dẫy những vướng bận của trần thế, của lo toan và những bon chen muôn mặt . . . Rồi những tên quỷ câm vô hình đã thừa cơ hội để tấn công và chiếm đoạt chúng ta.
Đức Giêsu ngày càng uy tín trước mặt dân chúng vì những việc tốt đẹp và lời dạy khôn ngoan của Ngài, khiến dân chúng tôn vinh Ngài là một tiên tri vĩ đại. Vì thế, những Luật Sĩ và Phairisêu bối rối, hoang mang và sinh lòng ghen tuông, tức tối đối với Ngài.
Họ đã dùng đến trò thâm hiểm nhất để bêu rếu và mục đích nhằm hạ gục Đức Giêsu khi nói là Ngài “nhờ tướng quỷ để mà trừ quỷ”.
Khi gán cho Đức Giêsu như thế, họ muốn nói với dân rằng: Đức Giêsu là người thuộc về thế giới của ma quỷ. Khi Ngài đã thuộc về ma quỷ, thì lẽ đương nhiên không nên tin vào con người này cũng như những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
Đây là một phương pháp triệt hạ đối phương bằng cách đánh vào uy tín.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đặt ngược lại vấn nạn với hai câu hỏi để lật tẩy trò đê hèn của chúng, Ngài hỏi:
“Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”; và: “Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ?”!
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu một mặt cho thấy lý chứng của những Luật Sĩ và Pharisêu tự mâu thuẫn, khập khiễng, không ăn khớp với nhau, bởi vì cứ theo lập luận của họ, thì phải chăng một nước mạnh lại dùng chính kẻ mạnh để tiêu diệt kẻ yếu cùng đồng minh với mình hay sao? Hay nếu Quỷ Vương cho mượn quyền lực của hắn để tiêu diệt tay chân của hắn thì nước đó đã đến thời mạt vận?
Trong đời sống của chúng ta hôm nay nhiều khi rơi vào tình trạng của những Luật Sĩ và Pharisêu khi sử dụng những chiêu thức bỉ ổi là nói hành, nói xấu để bôi nhọ thanh danh tiếng tốt của anh chị em mình.
Giúp con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế lực sự dữ và ban cho họ đời sống mới là sứ mạng của Chúa Giê-su nơi trần gian. Sa-tan đã chiến thắng tất cả mọi người khi đã cám cám dỗ thành công con người đầu tiên là A-đam. Và từ thời điểm này, Sa-tan trở thành “một người mạnh được vũ trang đầy đủ” để canh giữ của cải – là những linh hồn đã bị nó chiếm hữu. Nhưng Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, giờ đây là “người mạnh thế hơn” đã đến trần gian để chiến thắng Sa-tan và tước bỏ mọi vũ khí của nó. Với cái chết và sự phục sinh của Người, sự dữ đã bị đánh bại hoàn toàn và con người được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, phục hồi phẩm giá đã bị mất xưa kia và được ban ân huệ để bước vào Vương Quốc dành cho những người con của Thiên Chúa.
Cho đến ngày Đức Giê-su Ki-tô trở lại trong vinh quang, cuộc chiến đấu với Sa-tan còn tiếp diễn khi mà con người vẫn đang gặp phải những cám dỗ và lôi cuốn để làm sự dữ. Nhưng bây giờ Sa-tan chỉ có thể bủa vây xung quanh mà không có khả năng làm hại tới những người đã thuộc về Đức Ki-tô cách trọn vẹn. Vì thế mỗi người chúng ta được mời gọi đứng hoàn toàn về phía của Chúa. Giữa Sa-tan và Chúa, chúng ta chỉ được chọn một như lời Người đã khẳng định: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (c. 23). Ước gì, trong mùa Chay thánh này, mỗi chúng ta hãy nhìn nhận những lầm lỗi, thiếu sót của mình và thân thưa với Chúa rằng: “Xin cứu con thoát khỏi địch thù, lạy Chúa, bên Ngài con trú ẩn” (Tv 143,9).
Lời Chúa hôm nay đang mời gọi và thức tỉnh chúng ta, hãy mạnh dạn và can đảm dứt khoát với những quyền lực của sự dữ, để cải hoán con người và biến đổi cuộc sống. Thiên Chúa tình yêu đang mở rộng vòng tay yêu thương từ ái để đón nhận chúng ta trở về với Ngài. Chúng ta đáp lại tiếng yêu của Ngài thế nào đây?
Vâng, mùa chay cũng chính là thời gian của triều đại Thiên Chúa, là thời gian của cầu nguyện, chay tịnh và sám hối, giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn cứu độ qua cuộc tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô.
Chúng ta cần cầu nguyện để có đủ ơn Chúa Thánh Thần mà nhận ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Cầu nguyện để khám phá ra thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời. Cầu nguyện để lắng nghe và đáp lại lời mời gọi của Chúa, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Nhờ thế, nhiều con chiên đang tản mác muôn phương được quy tụ về mái nhà Cha để được chung chia niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
2024
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT
6.3Thứ Tư trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Đnl 4:1,5-9; Tv 147:12-13,15-16,19-20; Mt 5:17-19
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định Ngài đến không phải để bãi bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn. Không có tài liệu nào cho thấy Chúa Giê-su ngồi để chỉnh sửa văn bản luật, vậy phải hiểu sự kiện toàn lề luật của Ngài cách nào? Trước tiên, Chúa Giê-su đến để làm cho tất cả những gì mà lề luật và lời các ngôn sứ loan báo về Ngài được trở nên ứng nghiệm, nghĩa là được kiện toàn ở nơi chính đời sống của Ngài. Tiếp đến, Chúa Giê-su không hoàn thiện lề luật theo nghĩa văn bản, nhưng hoàn thiện về tinh thần, làm cho luật thấm nhuần tình bác ái yêu thương – luật luôn khởi đi từ con tim. Như thế, Chúa Giê-su vừa kiện toàn, vừa là gương mẫu, vừa chỉ cho các môn đệ của Ngài phương thế để sống và chu toàn lề luật.
Thánh Gioan Bosco nói với các môn sinh của ngài rằng: “Hãy trung thành giữ luật, luật sẽ gìn giữ con”.
Thật vậy, lề luật nó như cái bản lề để giúp cho cánh cửa cuộc đời được đứng vững.
Chính Đức Giêsu đã trung thành giữ luật cách yêu mến và trung thành. Chỉ khi nào luật không làm cho con người ta tốt hơn, mà ngược lại, nó đè bẹp con người, thì lúc đó Ngài lên tiếng chống đối.
Hai lối hiểu và hai cách giữ luật khác nhau, nên những nhà lãnh đạo Dothái và Đức Giêsu có sự đối kháng kích liệt. Họ cho rằng Đức Giêsu đến để bãi bỏ lề luật, còn Đức Giêsu thì khẳng định: “Các người đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ các lề luật hay các tiên tri. Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Nói cách khác, Đức Giêsu vẫn rất tôn trọng luật Cựu Ước, mà cụ thể là trong Ngũ Kinh, vì ở đó chứa đựng ý muốn và lệnh truyền của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, vì họ đã giữ luật theo kiểu mặt chữ, nên không còn tình thương, lòng mến, và luật đã trở thành phương tiện cho người ta hà hiếp, bóc lột và kết án nhau.
Khi phản đối lối gán ghép tội của các Luật Sĩ và Pharisêu gây ra cho mình, Đức Giêsu khẳng định không những không phá bỏ, mà còn kiện toàn và làm cho luật trở nên nhân nghĩa hơn.
Luật cơ bản nhất, quan trọng nhất trong đời sống con người là luật bác ái. Mọi thể hiện của việc giữ luật không đặt đức bác ái làm nền tảng, thì hành động giữ luật có khi trở nên tàn nhẫn, có khi chỉ là một thứ phương tiện để loại trừ đồng loại quanh mình.
Những người biệt phái, nhất là các luật sĩ, vốn là những người trung thành với lề luật. Họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng phía sau sự trung thành ấy hàm chứa thái độ tự mãn chính mình và soi mói tha nhân.
Tự mãn: Họ cho rằng, trung thành với lề luật là đương nhiên trở nên người công chính. Và như vậy, chỉ có họ là công chính, là người thuộc về Thiên Chúa, người được Thiên Chúa yêu thương.
Soi mói: Họ nhìn những ai không tuân giữ luật lệ theo kiểu của họ bằng cặp mắt khinh dễ, miệt thị. Và vì mang sẵn một não trạng tự tôn về mình, họ luôn dò xét người bên cạnh, thậm chí lên án và loại trừ anh chị em xung quanh.
Ý nghĩa của lề luật và tinh thần giữ luật mà Chúa Giêsu đòi hỏi phải là con đường dẫn người ta đến tình yêu, đến hiệp thông và đỡ nâng nhau.
Vì thế, sự bất cập trong lề luật mà những luật sĩ trong đạo Do Thái thể hiện, đòi phải được kiện toàn. Chúa Giêsu là Đấng làm cho lề luật được hoàn bị. Người muốn chúng ta hiểu rằng, chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể giữ trọn vẹn lề luật và nên công chính. Chính trong ơn Chúa, mà con người phải yêu thương nhau, phải đón nhận và hy sinh cho nhau. Dù là luật nào đi nữa, họ phải luôn nêu cao tinh thần bác ái.
Chúa Giêsu mặc cho tinh thần giữ luật chiếc áo của tình yêu, để từ nay, ai biết giữ luật, người đó phải biết yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của mọi lề luật.
Trong câu chuyện bên trên, với thái độ điềm tỉnh nhưng cương quyết, vị tu sĩ già đã dạy ông vua hóng hách bài học của sự yêu thương và tôn trọng người đối diện với mình.
Chúng ta cần sống tinh thần luật như thái độ khôn ngoan của vị tu sĩ trong câu truyện, đừng nhìn người khác bằng cặp mắt chỉ thích đánh giá, thích soi mói, khinh thị như các luật sĩ trong Tin Mừng, hay như nhân vật nhà vua trong câu chuyện.
Là người tín hữu tin và bước đi theo Chúa Ki-tô, chúng ta cũng được mời gọi kiện toàn lề luật nơi đời sống mỗi người. Không phải là viết ra những điều luật mới, mà là nội tâm hóa và làm cho những điều luật, nhất là luật yêu thương mà Chúa Giê-su truyền dạy được trở thành lối sống và phương cách ứng xử của chúng ta. Chúa Giê-su đã chỉ ra những cách sống yêu thương hết sức cụ thể như: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, thăm người đau yếu, cầu nguyện cho người ngược đãi, hoặc yêu thương cả kẻ thù… Ngài cũng mời gọi thực hành từ những điều nhỏ nhất, với những người bé nhỏ nhất, như cho họ một ly nước lã cũng làm cho chính Chúa rồi. Lạy Chúa Giê-su, Thánh Phao-lô đã dạy chúng con: “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10), xin giúp chúng con biết cụ thể hoá mọi điều Chúa dạy bằng hành động yêu thương bác ái đối với hết mọi người chúng con gặp gỡ trong đời sống hằng ngày.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: hãy biết giữ luật trong lòng mến. Trung thành yêu mến luật vì nơi đó Thiên Chúa tỏ bày thánh ý của Ngài. Tuy nhiên, giữa việc giữ luật và đời sống phải đi đôi với nhau. Không thể sống theo kiểu “ngôn hành bất nhất” như Luật Sĩ và Pharisêu, vì họ dùng luật của Chúa để triệt hạ nhau khi luật của Chúa đã bị bóp méo.
2024
THA THỨ CHO NGƯỜI KHÁC ĐỂ ĐƯỢC CHÚA THỨ THA
5.3Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Đn 3:25,34-43; Tv 25:4-5,6-7,8-9; Mt 18:21-35
THA THỨ CHO NGƯỜI KHÁC ĐỂ ĐƯỢC CHÚA THỨ THA
Hôm nay Đức Giêsu dạy ta về sự tha thứ. Dụ ngôn về sự tha thứ nhắm tới đời sống cộng đoàn. Quả vậy, trong đời sống chúng ta, vì tính tình xung khắc, nên đã gây ra nhiều điều phiền toái, chia rẽ, đố kỵ, thù oán… Nhưng nhờ sự tha thứ, đời sống chung lấy lại được hoà khí, bình an và hiệp nhất. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta vài khía cạnh quan trọng:
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều. Ta không thể đền tội cho đủ nhưng Chúa vẫn tha vì Ngài “động lòng thương”.
Nhưng chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
Ngoài ra hãy khôn ngoan tha lỗi nhỏ cho anh em để Chúa sẽ tha thứ những lỗi lầm lớn của chúng ta đối với Chúa.
Tha thứ xem ra không phải là điều tự nhiên đối với con người. Phải trải qua một thời gian lâu dài, nhân loại mới nhận ra được ý nghĩa và sự cần thiết của tha thứ. Xã hội nguyên thuỷ không dung tha cho tội phạm của cá nhân.
Sách Khởi nguyên nói đến sự trừng phạt mạnh hơn 70 lần 7 lỗi phạm của con người. Sang đến sách Xuất hành, người ta thấy có một tiến bộ quan trọng khi luật Maisen đã ra luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ít ra ở đây hình phạt cũng tương xứng với lỗi phạm. Sách Lêvi đi xa hơn, tuy không bắt buộc phải tha thứ, nhưng sách này nói đến tình liên đới giữa anh em với nhau và cấm không được nại đến việc tố tụng, để giải quyết những tranh chấp giữa anh em với nhau. Như vậy, ít ra sự tha thứ cũng đã manh nha trong quan hệ ruột thịt
Tin Mừng một lần nữa xác định căn cốt đó khi trình thuật cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và Phêrô. Khởi đi từ câu hỏi của Phêrô: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Tha như thế là tha mãi, tha không giới hạn, không điểm dừng, không so đo tính toán thiệt hơn. Tha như thế là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là tình yêu, và làm toát lên đạo mới, “đạo yêu thương”.
Dụ ngôn về người đầy tớ không biết tha thứ trong bài Tin mừng hôm nay nêu bật tầm quan trọng của sự tha thứ và thương xót trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta. Nó nhắc nhở rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân và cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Do đó, chúng ta nên rộng lòng tha thứ và thương xót người khác.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ không ngừng. Vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.
Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.
Dụ ngôn cũng cảnh báo về hậu quả có thể xảy ra cho hành động không biết tha thứ của chúng ta. Nếu từ chối tha thứ cho anh em, chúng ta có nguy cơ bị như thế trước mặt Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa ích kỷ hay khắc nghiệt. Trái lại, chính việc chúng ta từ chối tha thứ cho người khác đã tạo ra một rào cản giữa chúng ta và Thiên Chúa khiến chúng ta không nhận được sự tha thứ của ngài. Đó là lý do tại sao chúng ta luôn cầu nguyện: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con.”
Cuối cùng, ngụ ngôn về người đầy tớ không biết tha thứ nhắc nhở chúng ta về món quà tha thứ vô cùng lớn lao mà chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa qua Chúa Giê-su Ki-tô. Quả vậy, Thiên Chúa là đấng vô cùng tốt lành và thánh thiện nên bất cứ tội lỗi nào chúng ta phạm cũng đều là sự xúc phạm nghiêm trọng đến Ngài. Bản thân chúng ta, vốn là những tội nhân, sẽ không có khả năng đền bù lại Thiên Chúa vì những xúc phạm ấy. Chỉ mình Chúa Giê-su mới có thể và ngài đã thực hiện điều ấy qua chính cái chết của ngài.
Trong hành trình của Mùa Chay thánh này, chúng ta cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta sống cuộc đời tha thứ và thương xót như Chúa đã tha thứ và thương xót chúng. Để rồi mỗi khi hoán cải và trở về, chúng ta cũng nhận được sự tha thứ và lòng xót thương của Ngài.