2024
“TIN VÀ GIỮ LỜI TA THÌ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI”
13.3 Thứ Tư trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Is 49:8-15; Tv 145:8-9,13-14,17-18; Ga 5:17-30
“TIN VÀ GIỮ LỜI TA THÌ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI”
Tin Mừng hôm qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu chữa người bệnh bại liệt ba mươi tám năm. Sau khi chữa anh được khỏi, Đức Giêsu truyền cho anh vác chõng mà về. Điều đáng chú ý là khi trên đường về, những người không ưa Đức Giêsu đã chặn anh lại và hỏi nguyên cớ làm sao mà anh được khỏi bệnh, ai là người đã chữa anh?
Hỏi như thế, không phải để chia vui với anh, cũng không phải cùng anh tạ ơn Chúa! Nhưng hỏi như vậy là để tìm cho rõ xem ai dám cả gan chữa bệnh ngày Sabát?
Tin Mừng hôm nay cho thấy giữa Đức Giêsu và người Dothái trở nên gây cấn hơn khi Ngài tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Nói như thế, Ngài minh định rằng: Thiên Chúa không nghỉ ngày Sabát thì Ngài không có lý do gì nghỉ và không làm việc thiện trong ngày này cả! Nhưng điều quan trọng hơn là Ngài mặc khải cho biết: Ngài đến để thực thi thánh ý của Cha Ngài. Cuối cùng, điều làm cho người Dothái chói tai, khiếm họ không chịu nổi, khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”.
Người Do thái không tha thứ cho Đức Giê-su về sự vi phạm ngày Sa-bát khi Người chữa kẻ tê liệt. Người còn nói cho họ nghe Người làm như Cha Người hằng làm việc. Nên Người cũng không nghỉ làm việc dù là ngày Sabát.
Lời quả quyết đó càng làm họ tức giận hơn. Làm sao Đức Giêsu dám tự cho mình là Thiên Chúa nếu như Thiên Chúa không phải là Cha mình. HoÏ càng không ngớt nổi giận vì Đức Ki-tô nói thêm rằng : “Cha Tôi và Tôi cũng nhất tâm làm tất cả và ai không tôn vinh Con thì không tôn vinh Cha”. Người còn chủ trương rằng lời Người có sức mạnh ban sự sống đời đời cho những ai nghe theo, như thế là tột bậc rồi.
Thật là một chủ trương đầy phấn khởi và hào hùng ! Tuy nhiên, lời Đức Giê-su không chỉ là lời Thiên Chúa, mà còn là lời nhập thể hoàn toàn. Lời Người nói với chúng ta như anh em, như bạn tri kỷ, như sư phụ hoàn toàn biết rõ thân phận con người xác thịt của chúng ta. Người còn phối hiệp toàn diện với xác thân này ngay từ khi xuống thế. Do đó lời Người nắm bắt được mọi tâm tư nguyện vọng của chúng ta và thấy được tiếng lòng rung động kỳ diệu của con tim, khối óc của những ai nghe lời Người. Người cũng biết rõ những hoàn cảnh của mọi người nam nữ chúng ta trở lại với cái gì.
Chúa Giêsu đã trả lời cho những người biệt phái cách Ngài chữa lành cho người đang làm việc gần bên giếng nước rằng: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”. Thiên Chúa Cha nhân từ luôn luôn trao ban điều tốt cho con người mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Giờ đây đến phiên mình xuống trần để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng muốn liên lỉ làm việc, làm điều tốt cho con người, bất luận đó là ngày Sabát hay không. Ngày Sabát là cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabát.
Cũng trong dịp này Chúa Giêsu mạc khải cho những kẻ chống đối Ngài mối tương quan giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Chúa Con thực hiện cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã mạc khải chân tính tình yêu đời đời đó và mời gọi con người hãy đáp trả, hãy cộng tác với chương trình yêu thương này để được sống đời đời: “Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì được sống đời đời, khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống”.
Hãy nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, ta sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác: “Cha Ta làm việc liên lỉ và Ta cũng làm việc như vậy”. Chúa Giêsu đã không bao giờ ngừng yêu thương con người, cả khi con người chống đối Ngài.
Lời hằng sống đã được công bố trong bài giảng trên núi chứa đựng toàn bộ kế hoạch của Phúc âm về sự gắn bó của chúng ta vào Đức Kitô và được làm thành bản hiến chương nước-Thiên Chúa. Lời hằng sống đầy thương xót tha thứ làm sáng lên niềm hy vọng và tình yêu cho mọi người và được thốt ra từ miệng lưỡi của Đức Giê-su trước người đàn bà ngoại tình làm cho Ma-đa-lê-na thống hối, phụ nữ Sa-ma-ri bị chinh phục, ông Gia-kêu thấp bé hoán cải và người trộm lành ăn năn trở về. Cũng như Phê-rô khóc lóc vì chối Thầy. Lời hằng sống chứa đựng trong những dụ ngôn đầy hình ảnh tiêu biểu giáo huấn soi sáng, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa.
Lời hằng sống loan báo những đau khổ để chuẩn bị các môn đệ và mọi người biết can đảm mạnh mẽ theo Đức Ki-tô qua mọi thời đại, sẵn sàng chịu vác thập giá khổ nạn như là nguồn hy vọng được sống lại vinh quang. Lời hằng sống nhất là đã trở thành lời hứa hấp dẫn của tế lễ Thánh Thể đưa lại sự hiện diện và tình yêu của Đức Ki-tô tồn tại mãi mãi.
Mùa chay là mùa của thanh luyện, của hoán cải, Giáo hội mời gọi chúng ta trở về : trở về với Chúa, với anh em, với bản thân. Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh em, đánh mất bản thân. Qua những việc làm của Mùa chay, như cầu nguyện, sám hối, hãm mình, thực thi bác ái, Giáo hội muốn chúng ta tìm lại được chính bản thân như Thiên Chúa mong muốn. Bản thân ấy chúng ta chỉ có thể nhân ra khi nhìn ngắm Chúa Giêsu.
Mùa chay thường gợi lại một thực hành có tính truyền thống trong Giáo hội, đó là hãm đẹp thân xác, tức là tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu từng ngày qua những hy sinh, quên mình, để cũng được chia phần vinh quang phục sinh của Ngài, nghĩa là mỗi ngày một biến đổi để trở thành con người mới cho đến khi đạt được tầm quan mức viên mãn của Ngài. Đó là bức chân dung mà mỗi Kitô hữu đều mang trong mình và mỗi ngày họ cố gắng hoạ lại bằng cả cuộc sống của họ. Cùng với Chúa Kitô, Đấng đã nên một với Chúa Cha trong tất cả mọi sự cho đến chết, xin cho từng giây phút cuộc sống chúng ta luôn là một thể hiện thánh ý của Ngài.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết hướng tới sự sống đời đời. Khi hướng về sự sống đời đời, mọi việc chúng ta làm hay nói đều được tình yêu chi phối chứ không chỉ vì luật mà làm cho chúng ta xa rời tình yêu!
2024
“ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA”
12.3 Thứ Ba trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Ed 47:1-9,12; Tv 46:2-3,5-6,8-9; Ga 5:1-3,5-16
“ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA”
(Ga 5, 114)
Đức Giêsu chữa người bất toại ở bờ hồ Bếtsaiđa. Nếu chúng ta đặt mình vào vai bệnh nhân 38 năm, chúng ta mới thấy những người hạch hỏi anh thật độc ác. Tại sao họ không cảm thông với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm trong tình trạng khốn nạn. Đáng lý ra họ cùng phải với anh tôn vinh, tạ ơn Vị đã cứu giúp anh mới phải. Tại sao họ lại bắt bẻ Ngài ? Ngài và họ, ai là người thương yêu đích thực ? Ngài và họ, ai là người đi trong đường lối của Thiên Chúa ?
Đức Giêsu đã đề cao tinh thần sống đạo hơn là việc giữ đạo. Những việc làm bề ngoài chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được tình yêu từ bên trong tâm hồn thúc bách. Bằng không, nó chỉ là một sự phù phiếm, giả tạo mà thôi. Đức Giêsu đã vì tình yêu, vượt lên trên lề luật để cứu chữa một người đau bệnh đã ba mươi tám năm. Tuy nhiên, chính trong hành động yêu thương này mà Đức Giêsu bị những người Do Thái không ưa Ngài tìm cách chống đối. Họ cho rằng Đức Giêsu đã không tuân giữ lề luật nên họ tìm đủ cách để hãm hại Ngài.
Tin mừng cho biết khi Đức Giêsu đến bờ hồ Bếtsaiđa, thì đã có rất nhiều bệnh nhân nằm la liệt cùng với thân nhân của họ chờ chực sẵn bên hồ. Giữa đám đông bệnh nhân ấy, Chúa nhận ra một người đau khổ cô độc nhất, anh bị tàn tật, bất toại hay tê liệt như lời anh thưa với Chúa: “Không có ai khiêng tôi xuống nước cả”. Anh đã nằm ở đây 38 năm rồi, thời gian quá dài. Bao nhiêu người đã đi qua, kể cả những vị lãnh đạo dân Do thái, không ai màng tới.
Nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy, động lòng thương và đã chữa lành anh. Không những Chúa chữa bệnh nơi thân xác mà Ngài còn muốn tiến xa hơn, khi kêu gọi người được chữa lành hãy nghĩ đến phần hồn của anh với lời nhắn nhủ: “Anh đừng phạm tội nữa”.
Đức Giêsu cho anh bại liệt lành bệnh và bước đi trong an vui trong ngày sabat – ngày của niềm vui. Trong lúc người biệt phái ngăn cản anh vác chõng lại hạch hỏi anh thật độc ác, chỉ vì ngày sabat, ngày nghỉ với họ cũng có nghĩa là không được vác chõng. Họ không thông cảm với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm dài, họ vẫn cứ muốn trói buộc anh trong căn bệnh bại liệt chỉ vì câu nệ lề luật. Họ mang hình ảnh nhân loại không biết cảm thông nỗi khổ của nhau, đối xử với nhau từ ích kỷ đến tàn ác chỉ biết bắt bẻ và kết án.
Đức Giêsu đã thực hiện một dấu lạ để mời gọi con người mở mắt nhìn Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế nhưng, không ai đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Riêng những người Do thái, những vị lãnh đạo tôn giáo Do thái đang có mặt ở đó lại dựa vào đó, để bắt bẻ Chúa đã lỗi ngày hưu lễ. Đối với Chúa, Ngài đến làm ơn cho người ta, mạng sống con người quí trọng hơn hết.
Hôm nay, Đức Giêsu đã vì tình yêu, mà Ngài vượt lên trên lề luật để cứu chữa một người ốm đã ba mươi tám năm.
Tuy nhiên, chính trong hành động yêu thương này mà Đức Giêsu bị những người Dothái không ưa chống đối. Họ cho rằng Đức Giêsu đã không tuân giữ lề luật và thường xuyên vi phạm ngày Sabát.
Đối với Đức Giêsu, luật vì con người chứ không phải con người vì luật. Hơn nữa, khi Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh thì đồng thời Ngài cũng chữa anh khỏi những hệ lụy của nó mà người ta thường gán cho là tội. Không dừng lại ở đó, Ngài còn nhắc cho anh biết là hãy vác chõng mà về và đừng phạm tội nữa.
Vác chõng là việc anh phải làm để chu toàn bổn phận của chính mình. Đừng phạm tội là lời nhắc cho anh về việc từ nay anh đã được giải thoát khỏi tội và anh đã được thuộc về Chúa. Ngài đã tẩy rửa tâm hồn và thân xác anh sạch thì anh phải lo giữ nó, kẻo trở thành khốn khổ khi bệnh tình tái phát. Tội ở đây có ý muốn nói đến ảnh hưởng của sự dữ, thuộc về Ma Quỷ.
Mùa Chay là cơ hội để chúng ta quay trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ, đồng thời cũng là dịp thuận tiện để ta hối cải, từ bỏ con đường cũ để làm lại cuộc đời.
Chúa không chấp nhận chúng ta ù lỳ trong tội, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: “Hãy đứng dậy vác chõng mà ra đi”, đó là dứt khoát với con đường tội lỗi của mình, nếu không, chúng ta có thể sẽ khốn khổ hơn khi phạm tội.
Nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta thấy căn bệnh vô cảm, thờ ơ trước những nỗi đau của đồng loại vẫn hiện diện khắp nơi, người ta sống vị kỷ, chỉ lo vinh thân cho gia đình mình, con cháu mình còn trước những khó khăn, đau khổ của kẻ khác thì họ bưng tai bịt mắt. Thánh Phao-lô khuyên: “ Vui với ai cùng vui, khóc với ai đang khổ sau” lối sống đó mới thể hiện chúng ta là những con người sống có trái tim yêu thương của Chúa.
Ngày hôm nay Đức Giê-su cũng đang chất vấn mỗi người chúng ta qua câu hỏi: “Anh có muốn lành sạch không?” và khi chúng ta muốn cho Ngài chữa lành thì chúng ta phải thi hành lệnh truyền của Ngài; Đó là: “Hãy trỗi dậy vác chõng mà đi”. Chỗi dậy vác chõng mà đi ở đây là phải biết dũ bỏ cái ích kỷ, cái vô tâm hờ hững trước những nỗi đau của tha nhân, biết mặc vào mình tâm tình của Đấng luôn cạnh lòng thương và biết ăn năn sám hối trước những lỗi lầm của mình.
2024
XIN TIN
11.3 Thứ Hai trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Is 65:17-21; Tv 30:2,4,5-6,11-13; Ga 4:43-54
XIN TIN
Thánh sử Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay việc Chúa Giêsu rời bỏ Nazarét là quê hương của mình, vì dân làng đã không tin vào quyền năng của Chúa khi họ được thấy rất nhiều các phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Họ đã đóng khung Ngài lại bằng định kiến có sẵn của mình. Họ biết bản lý lịch rất bình thường của Ngài: Sinh ở Nagiaret, nghề nghiệp của cha là thợ mộc, anh em họ hàng là dân chài lưới, làng xóm láng giềng không phải là những người hùng vĩ đại, nguyên quán của Ngài không phải là vùng đất của danh nhân hào kiệt…
Chính vì những lẽ đó, Ngài đã bỏ họ để đi đến vùng Galilê. Sự cứng lòng tin, mờ tối trước các biến cố Chúa gởi đến, đã tạo khoảng cách giữa những người đồng hương với Chúa Giêsu. Khoảng cách ấy đã làm họ rời xa Chúa.
Điểm đẹp nhất mà ta thấy trong Tin Mừng hôm nay là lấp đầy khoảng cách giữa con người và Thiên Chúa đó chính là lấp đầy khoảng cách của niềm tin. Viên sĩ quan trong Tin Mừng đã tuyên xưng mạnh mẽ vào quyền năng chữa lành của Chúa. Ông đã đi một đoạn đường từ Caphácnaum đến Galilê để nài xin Chúa đến nhà ông, chữa lành cho con trai ông đang lâm bệnh nặng sắp chết : “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất! ” Đáp lại lời nài xin này. Chúa đã thử thách đức tin của ông khi Ngài nói : “Ông cứ về đi, con ông sống.” Thánh sử Gioan tiếp lời : “Ông tin vào lời Chúa Giêsu nói với mình, và ra về”. Ông và con ông đã được chữa lành.
Ông đã vượt qua được sự thách đố của niềm tin như đã vượt qua quãng đường từ nhà ông đến với Thiên Chúa. Từ đây khoảng cách của không gian địa lý không còn nữa mà thay vào đó chính là sự hiện diện của Chúa ngay trong nhà của ông. Ngài đã ban cho ông điều ông cầu xin là con trai ông được lành, và hơn nữa “ông và cả nhà đều tin”, ông và mọi thành viên trong gia đình, đều nhận ra quyền năng của Ngài. Người dân trong vùng đã vượt qua thách đố của niềm tin, khi mở lòng ra với Chúa. Họ nhìn ra được gương mặt của Chúa hiện diện khi họ cảm nghiệm và chứng kiến các phép lạ Chúa làm.
Thái độ khẩn khoản của ông trước Chúa Giêsu chứng tỏ tình thương đối với đứa con mà ông đang từng giây từng phút giành lấy từ tay tử thần. Ông đã không để ý đến lời khiển trách của Chúa Giêsu nhưng một mực tin vào quyền năng và tình thương của Chúa: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất” (câu 49). Ông vui mừng khi Chúa Giêsu nhận lời: “Ông cứ về đi, con ông sống”(câu 50) và vội vã trở về nhà. Ông ta mong ước Chúa Giêsu có mặt lúc này để cứu sống con ông, nhưng Chúa Giêsu đã làm điều mà chính ông ta cũng không ngờ, Ngài dùng Lời quyền năng để phán và phép lạ đã xảy ra. Chúa Giêsu sẵn có sự sống Thiên Chúa nơi mình nên Ngài chỉ phán có một lời, đứa trẻ đã được lành mạnh. Kết quả là viên sĩ quan và cả gia đình của ông đã nhận được sự sống thần thiêng và ơn cứu độ.
Dựa vào định kiến có sẵn của mình, những người dân Nagiaret không mở ra với Chúa Giêsu qua tình yêu và cuộc sống của Ngài dành cho họ. Sống trong ân sủng của Chúa, chúng ta chỉ việc tin vào tình yêu quan phòng của Chúa, gạt bỏ định kiến có sẵn để mở ra với Chúa và với anh chị em. Việc cứng lòng tin đã làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, tạo một khoảng trống vắng trong lòng chúng ta. Và chính bởi lòng tin nơi Thiên Chúa, kêu xin Ngài, Ngài sẽ giúp chúng ta phá đổ khoảng cách giữa ta với Chúa, gắn kết đời sống chúng ta với sự hiện diện của Người. Đức tin làm nên phép lạ. Đức tin gắn kết Thiên Chúa và con người. Đức tin có sức màu biến đổi.
Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã thực hiện những việc tương tự và được rất nhiều người tin theo. Phép lạ ấy vẫn có thể xảy ra trong thời đại chúng ta. Chúng ta không dùng lời để phán nhưng dùng đôi chân để đi đến với những người bất hạnh, dùng đôi tay để nâng đỡ những người túng thiếu chung quanh chúng ta. Chúng ta có dư khả năng để làm phép lạ khi chúng ta bớt những khoản chi tiêu trong gia đình để chia sẻ cho các trại nuôi trẻ mồ côi, người tàn tật, các cụ già yếu neo đơn. Những người này không chìa tay xin chúng ta đâu, nhưng trong tinh thần bác ái Kitô giáo, Giáo Hội mời gọi chúng ta tự nguyện sống khắc khổ để chia cơm sẻ bánh cho họ, không phân biệt lương giáo.
Và rồi ta có thể cứu sống một đứa trẻ lâm bệnh không có tiền chữa trị, chúng ta có thể giúp nuôi dưỡng một trẻ em nghèo có điều kiện đến trường, một người tàn tật có công ăn việc làm nhờ vào những khoản tiết kiệm của chúng ta…và còn biết bao việc mà chúng ta có thể làm để thăng tiến đời sống của những người cùng khổ. Đó là những phép lạ mà chúng ta có thể làm trong thời đại hôm nay.
Định kiến đã đóng cánh cửa tâm hồn, tạo ra khoảng cách của niềm tin, làm cho con người không còn đón nhận Thiên Chúa trong cuộc đời mình nữa. Thiết nghĩ đó là khoảng ngăn cách đáng ghê sợ hơn cả vì nó tách chúng ta xa rời Thiên Chúa. Một khi xa rời Thiên Chúa con người chỉ toàn thấy trống vắng, tuyệt vọng. Bệnh tật và chết chóc hậu quả của tội lỗi, là một dấu hiệu cho thấy con người xa rời Thiên Chúa.
Mở lòng ra, nhìn ngắm và cảm nghiệm về Thiên Chúa là tiến trình khai mở đức tin. Đóng lòng lại, suy nghĩ bằng định kiến, cố chấp trong suy nghĩ và lối sống cũ là bước ngăn cả đức tin.
Người Kitô hữu hôm nay được mời gọi tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu là đem Tin Mừng đến với con người thời đại. Chúng ta không đi con đường nào ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Muốn được như thế, trước tiên, bản thân chúng ta phải là những người tin. Tin thì không cần có điều kiện, tin là nhắm mắt bước đi theo sự chỉ đường của Thiên Chúa. Con đường ấy không bao giờ phù hợp tâm thức của con người. Đó là con đường hy sinh, cầu nguyện; con đường canh tân, hoà giải; con đường bác ái, sẻ chia mà Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy thực hành trong Mùa Chay thánh.
2024
KHIÊM TỐN THẬT THÌ MỚI ĐƯỢC THA THỨ
9.3Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Hs 6:1-6; Tv 51:3-4,18-19,20-21; Lc 18:9-14
KHIÊM TỐN THẬT THÌ MỚI ĐƯỢC THA THỨ
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật lại cho chúng ta Dụ ngôn về một người Pha-ri-sêu và một người thu thuế, cả hai cùng lên Đền Thờ cầu nguyện, nhưng một người thì được trở nên công chính, người còn lại thì không.
Nếu ta đặt ra câu hỏi tại sao cả hai cùng lên Đền Thờ cầu nguyện, nhưng một người được Thiên Chúa nhận lời và ban cho nhiều ơn lành hồn xác còn người Pha-ri-sêu không được gì cả, trái lại còn bị lên án nữa, mặc dù xem ra ông này sống rất đàng hoàng, tử tế, không trộm cướp, không ngoại tình, bất chính.
Mấu chốt của vấn đề nằm ở tấm lòng, ở thái độ. Người thu thuế biết ăn năn sám hối, biết thân, biết phận mình là kẻ tội lỗi nên với lòng khiêm tốn đó, ông chỉ trông cậy vào lòng Thiên Chúa xót thương, xin Thiên Chúa thứ tha mọi tội lỗi cho mình mà thôi. Ngược lại, người Pha-ri-sêu thì tự coi mình có nhiều công trạng, tự cao tự đại cậy mình là người tốt lành, không những thế ông ta còn tỏ thái độ coi thường và phán xét người khác: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: trộm cướp, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18, 11).
Trước Thánh Nhan Chúa chúng ta chỉ là một tạo vật yếu đuối, tội lỗi thấp hèn, rất cần đến lòng thương xót, bao dung của Thiên Chúa, chúng ta có cái gì mà dám tự phụ khoe khoang công trạng của mình? Nếu chúng ta có làm được gì thì cũng chỉ là do Thiên Chúa trợ lực ban ơn mà thôi. Lại nữa, khi chúng ta có được may mắn, có cuộc sống tốt đẹp, tử tế, không sa ngã vào những tệ nạn này kia thì chúng ta phải biết yêu thương, tôn trọng và nâng đỡ những người anh em khác không được may mắn như chúng ta, chứ đừng bao giờ vướng thói xấu xa; đó là nói xấu người khác để làm cho mình được tôn lên.
Những ai sống hiền hậu và khiêm nhường thì chắc hẳn sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì khi xưa khi đi rao giảng Tin Mừng Đức Giê-su đã từng làm gương và kêu gọi những ai muốn bước đi theo Ngài thì : “Hãy học cùng tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29). Thánh Gia-cô-bê đã khẳng định trong thư gửi cho mười hai chi tộc Do Thái rằng: “ Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường”. (Gc 4, 6)
Khi sống hiền hậu và khiên nhương chúng ta không những được Thiên Chúa yêu thương, ban ơn mà ngay cả khi ở đời này còn được những người sống chung quanh yêu thương, kính trọng nữa.
Ngẫm lại trong cuộc đờim nhiều lần nhiều úc tôi cũng đầy tâm thức giống y như người pha-ri-sêu: Tôi tự phụ, tôi sống ảo tưởng mình được phước hơn những Ki-tô hữu khác vì mình được tháp nhập vào Dòng, được học hỏi, được cơ hội hiểu biết hơn những người chỉ là “giáo dân”, còn tôi được diễm phúc là “giáo dân Đa Minh”. Thật khốn nạn cho tôi !
Mùa Chay là mùa thuận tiện để tôi canh tân đời sống. Có thể nói được rằng: điều kiện cần để canh tân đời sống chính là cầu nguyện.
Mùa Chay còn là mùa cầu nguyện. Cầu nguyện để thanh luyện thái độ tôi mỗi ngày, lời cầu nguyện đích thực đẹp lòng Chúa chính là thật lòng ăn năn, sám hối, khóc tội của mình. Cầu nguyện để tôi thêm lòng trông cậy, tín thác vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi mặc cảm tội lỗi và mang lại cho tôi tự do đích thực của con cái Chúa. Cầu nguyện giúp tâm trí tôi nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu. Cầu nguyện để giúp tôi vững lòng trông cậy vào lòng thương xót Chúa. Cầu nguyện là phương thế chay tịnh hãm dẹp những dục vọng thân xác để nuôi dưỡng tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.
Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.