2024
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA
18.3 Thứ Hai trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Đn 13:1-9,15-17,19-30,33-62; Tv 23:1-3,3-4,5,6; Ga 8:1-11; Ga 8:12-20; Ga 13:41-62
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay diễn ra trong khung cảnh Lễ Lều. Khi nói đến Lễ Lều, là nhắc lại cho dân về hành trình trong Samạc suốt bốn mươi năm trường. Đây cũng gọi là lễ tạ ơn sau mùa gặt. Lễ này được dành cho mọi người không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị trong xã hội. Vì thế, không ai bị loại trừ, cho nên người ta gọi lễ này là lễ của Vui Mừng.
Vì là lễ hội vui mừng nhất của người Dothái, nên người ta hứng khởi và vui tươi khi về dự lễ. Vì vậy, nó cũng cuốn hút lượng người có lẽ là đông nhất trong các dịp lễ của năm. Đây cũng là cơ hội để họ hẹn hò, tâm sự, chia sẻ…
Nhân có hội này, các Kinh Sư và Pharisêu cố tìm ra cho được một lời tố cáo Đức Giêsu nhằm hạ uy tín của Ngài, bởi vì đây là dịp đông người, hơn nữa, nếu thắng thế, họ có đủ lý do thuận tiện để giết Ngài.
Và cơ hội ngàn năm một thủa đã đến khi họ bắt được quả tang một người phụ nữ đang ngoại tình, và họ dẫn nàng đến với Đức Giêsu.
Họ dẫn đến để xin Ngài xét xử. Họ nói: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môisê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”.
Tuy nhiên, vì biết rõ lòng họ độc, nên Đức Giêsu phản ứng bằng việc bình tĩnh lấy tay viết trên đất! Hành động này của Đức Giêsu khiến cho họ sinh thêm bực bội và nóng lòng sốt ruột.
Họ sốt ruột là vì cái bẫy đã giăng, chỉ chờ Đức Giêsu mắc phải là ra tay đối với Ngài! Thật thế, nếu Đức Giêsu tuyên bố tha thì Ngài rơi vào bẫy chống luật Môsê, còn nếu tuyên án tử cho chị phụ nữ thì sẽ bị mất uy tín và đi ngược lại đường lối của Thiên Chúa cũng như những lời rao giảng của Ngài.
Sự thinh lặng và viết trên đất là cách thế Đức Giêsu thức tỉnh lương tâm những người Pharisêu khi chuyển phiên tòa dành cho chị phụ nữ, rồi đến Đức Giêsu, giờ đây sang phiên tòa lương tâm của chính họ khi nói: “Ai trong các ông không có tội, hãy ném đá chị này trước“. Bị bại lộ ý đồ và xấu hổ vì thấy mình tội lỗi, nên họ đã dần dần bỏ đi.
Cuối cùng, Đức Giêsu lên tiếng với chị phụ nữ: “Không ai lên án chị sao?”; “tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Ngày nay cũng không thiếu gì những con người có lòng bỉ ổi, hẹp hòi, tàn nhẫn, nên đã đẩy anh chị em mình vào chỗ chết như vậy.
Điều đau buồn hơn cả là nhiều khi lại nhân danh Thiên Chúa để hạ uy tín anh chị em mình. Không phải vì tình yêu, cũng chẳng phải lòng tốt, càng không phải vì sự công chính hay phẫn nộ tội lỗi, mà là do ghen tỵ mà tìm dịp thuận tiện để gài bẫy và đẩy đưa anh chị em chúng ta đến chỗ chết. Những người này thuộc hạng: “Miệng tụng lời nam mô nhưng bụng chứa đầy bồ dao găm”.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình. Ngài không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn.
“Ta không kết tội “. Khi nghe những lời trên, làm sao chúng ta không cảm nghiệm được một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Sao không nhìn thấy nơi đó một “Tin Vui” cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong chờ khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ.
Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đại diện cho tất cả chúng ta, những tội nhân. Cách nào đó, chúng ta cũng là những người ngoại tình trước mặt Thiên Chúa, là những kẻ phản bội lòng trung tín của Ngài. Thiên Chúa không kết án chúng ta nhưng cứu độ chúng ta nhờ Ðức Giê-su. Ngài đã lấy ngón tay viết trên đất, trên cái bụi mà từ đó con người được tạo dựng nên (x. St 2,7). Phán quyết của Thiên Chúa là: ‘Ta không muốn con phải chết, nhưng muốn con được sống”. Chúa không cứ tội ta mà trách phạt, cũng chẳng đồng nhất ta với những lỗi lầm trót phạm. Chúa muốn giải thoát chúng ta.
Trong Thông điệp “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Đối với nhân loại ngày nay, không còn niềm hy vọng được cứu rỗi nào khác, ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa.” Và cũng từ niềm xác tín mãnh liệt vào mầu nhiệm này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai mở Năm Thánh Lòng Thương Xót (x. Tông sắc Dung nhan Lòng Thương Xót, số 11).
Phần chúng ta, chúng ta là con cái của ảnh sáng, được mời gọi làm chứng cho sự thật trong gia đình, trong giáo xứ và trong môi trường xã hội mà mình được Chúa sai đến. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để trong chay tịnh, cầu nguyện và làm việc bác ái, chúng ta nhận ra một điều là: “Sự thật sẽ giải thoát chúng ta”, và khi nhận ra chúng ta được Thiên Chúa thương xót và giải thoát chúng ta bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy làm chứng và rao truyền về lòng thương xót của Chúa bằng trọn cuộc sống hằng ngày của chúng ta
2024
Ðón Nhận Sự Thật
16.3 Thứ Bảy trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Gr 11:18-20; Tv 7:2-3,9-10,11-12; Ga 7:40-53
Ðón Nhận Sự Thật
Không phải hôm qua họ đã chia rẽ vì Đức Giê-su. Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy họ chia rẽ nhau. HoÏ đã chia rẽ ở thời đức Giê-su, họ vẫn còn chia rẽ nhau cho đến ngày nay. Một ngày nào đó, chỉ cần đến Đền thờ Mộ Thánh ở Giê-ru-sa-lcm, thì thấy rõ sự chia rẽ đó. Tất cả đều nói về Đức Ki-tô, nhưng lại tranh luận xem những phần nền nhà này, bến đậu kia là đất thuộc về tôn giáo nào ! Xin Người mau chóng lập lại trật tự đi.
Hẳn đó không phải là điều Đức Ki-tô đến dạy chúng ta. Nhưng đó là sự kiện thật như Đức Ki-tô đã nói : “Tôi mang gươm giáo đến, ai thuận với Tôi và ai chống lại Tôi”. Không có chuyện nửa vời. Thuận với Người thì phải từ bỏ những lý lẽ của lý trí, ít ai chịu bỏ. Muốn nhận biết Người cần phải trở nên bé nhỏ và khiêm nhường mới hợp với giáo lý và những đòi hỏi của sứ điệp Đức Giê-su và đi sâu hơn vào mầu nhiệm của Người. Bản văn thánh Gioan cho chúng ta thấy những ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề Đức Giê-su, còn xa mới đi tới nhất trí.
Kết cục, chính các vệ binh có nhiệm vụ giữ an ninh trật tự công cộng, tuy ít học, nhưng đã có những suy nghĩ rất chính xác và rất rõ nét : “Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy, Câu nói ngây ngô trước những ông biệt phái, đã xúc phạm nặng nề đến các ông nhưng nhận xét của những kẻ mà các ông coi là dân đen lại thật sáng suốt và có lương tri rất tốt.
Các ông trách họ tàn tệ : “Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao ? Trong hàng thủ lãnh và giới tri thức biệt phái có ai tin vào tên ấy đâu ? Chỉ có bọn hạ lưu cặn bã như các anh mới phạm sai lầm xét đoán như thế thôi”. Các ông biệt phái luôn luôn có thái độ kiêu ngạo, khinh bỉ quá khích đối với những người đã khâm phục sự khôn ngoan của Đức GSiê -su .
Đức Ki-tô sẽ không bao giờ đạt tới kết quả là quy tụ được tất cả loài người. Xin đừng ngạc nhiên vì Người đã tiên báo về chính Người : “Tôi sẽ là dấu chỉ gây ra sự mâu thuẫn”.
Những người chống đối Chúa Giêsu kiên quyết bảo vệ lập trường sai lầm của mình. Họ tự hào rằng mình am hiểu Kinh Thánh, rằng mình thông thạo lề luật, và họ khư khư căn cứ vào sự hiểu biết của họ để mô tả hình ảnh của một Chúa Kitô theo trí tưởng tượng của họ và kết quả là họ đã không gặp được Ngài.
Nhóm người tán thành Chúa Giêsu thì ứng xử theo lối khác. Họ lắng nghe những lời Chúa Giêsu nói, quan sát những việc Chúa Giêsu làm. Họ thấy cả những lời nói và việc làm này có một sự thật, một tình thương, một sức giải phóng tâm hồn. Thế là họ tin vào Người, họ không lý luận bằng chữ nghĩa, họ chỉ nghe ngóng với con tim. Lời lẽ của họ thật là đơn sơ: “Ông này là vị ngôn sứ. Ông này là Ðấng Kitô”. Người ta có thể nói rằng hãy nhắm mắt lại để thấy, hãy bịt tai lại để nghe. Quả thật, có nhiều điều chúng ta chỉ có thể thấy được, nghe được, hiểu được bằng cách vượt lên khỏi lối nhìn, lối nghe và lối hiểu thông thường dựa vào hình tướng bên ngoài.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một vị Thiên Chúa đã bị hiểu lầm trước sự tự do của con người. Biết được Ngài, đón nhận Ngài là hai vấn đề khó khăn. Chúa Giêsu là đá tảng, người cũng có thể là đá vấp ngã nữa (Rm 9,33; 1Pr 2,6). Cái đó tùy ở mỗi người, tùy thái độ chúng ta trước Thiên Chúa.
Xưa kia trong Cựu ước, Thiên Chúa đã trao sứ mệnh cho Isaia: “ngươi hãy đi bảo dân này: các ngươi có nghe cũng không hiểu, có nhìn cũng chẳn thấy. Hãy làm cho lòng dân này chai đá, hãy làm cho chúng nặng tai, bịt mắt chúng lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, lòng hiểu được mà chúng trở lại Chúa được chữa lành chăng” (Is 6,9t. cf. Mt 13,13. Sđcv 28,35t).
Thật ra, đây là câu tiên báo sự cứng lòng hoàn toàn và không cưỡng bức ai. Chúa muốn nói lên sự cứng lòng không hoán cải và đó là hình phạt. Dù sao, sự cứng lòng đó cũng nói lên sự kiên nhẫn của Chúa (Rm 10,20. Is 65,2 Os 11,1) và lòng từ bi cuối cùng của Ngài. Chúng ta cầu xin được hưởng lòng từ bi đó trong mùa chay này.
Sự hiểu biết mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có về Ngài không phải là một hiểu biết trên lý thuyết hoặc chỉ là lời tuyên xưng trên môi miệng, mà phải là vác thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và Ngài đề ra như một mệnh lệnh :” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập giá và đi theo ta” . Danh hiệu kitô gắn liền với Thập giá. Không thể tuyên xưng Chúa kitô mà lại chối bỏ Thập giá của Ngài, không thể tự cho mình biết Chúa Kitô mà không liên kết với Ngài trong cuộc tử nạn Thánh Phaolô đã nói lên kinh nghiệm của ngài : ” phần tôi chỉ biết có mỗi Đức Kitô chịu đóng đinh”. Biết theo nghĩa kinh thánh là một sự kết hợp thâm. Biết do đó phải là một cam kết. Biết Đức Kitô như thánh Phaolô diễn tả chính là nên một với Chúa Kitô trong mầu nhiệm tử nạn. Biết Đức Kitô chịu đóng đinh chính là bổ túc nơi mình những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Ngài. Biết Đức Kitô chịu đòng đinh chính là đón nhận cuộc sống khổ đau từng ngày với niềm hiệp thông vào cuộc Tử nạn của Ngài.
Mùa chay là mùa của thanh luyện, chúng ta được mời gọi để sống một cách ý thức hơn bản sắc đích thực của người kitô hữu, đó là để Đức Kitô chiếm hữu và sống bằng chính sức sống của Ngài. Điều đó cũng có nghĩa là người kitô hữu không chỉ mang danh hiệu của Đức Kitô, lời tuyên xưng của họ không chỉ đọng lại trên môi miệng, mà phải là một cuộc sống kể hiệp với Ngài, với những cố gắng không ngừng của từ bỏ, quảng đại, yêu thương và phó thác.
2024
HỌ TÌM CÁCH BẮT CHÚA GIÊSU
15.3 Thứ Sáu trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Kn 2:1,12-22; Tv 34:17-18,19-20,21,23; Ga 7:1-2,10,25-30
HỌ TÌM CÁCH BẮT CHÚA GIÊSU
Hôm nay, Đức Giêsu trở lại Galilê vào một dịp Lễ Lều của người Dothái.
Lễ Lều là một trong những lễ mà người Dothái coi trọng, vì thế nó đã trở thành luật buộc đối với họ. Mục đích của Lễ Lều là tạ ơn Chúa sau vụ mùa, nhất là sau mùa hái nho. Tạ ơn Chúa vì Chúa cho vụ mùa bội thu. Hai là dịp nhắc cho con cháu nhớ lại những năm tháng ngược xuôi dòng rã trong sa mạc trước khi vào đất hứa. Họ thường mang những hoa màu ruộng đất do công khó của mình làm nên để tạ ơn và cầu xin cho vụ mùa tiếp theo được mưa thuận gió hòa.
Chúa Giêsu trở lại Galilê vào một dịp lễ Lều trại của người Do thái. Lễ lều trại là một trong những lễ mừng lớn nhất của họ (như Quốc khánh). Ban đầu, đó là ngày lễ tạ ơn sau vụ mùa, nhất là sau mùa hái nho, người ta thường mừng trong tám ngày liền từ 15 –21 Tischri (tháng 7-8) (Lev 25,34). Mục đích của họ gồm hai phần: một là tạ ơn Thiên Chúa cho vụ mùa thành đạt (Xac 33,16), hai là để tưởng nhớ đến những tháng năm ròng rã ở sa mạc sau thời gian thoát ách Ai cập (Lev 23,42). Dịp lễ lớn này, mọi người buộc phải trở lại đền thờ Giêrusalem dâng của lễ như hoa quả để cầu khấn xin mưa thuận gió hòa.
Chúa Giêsu đã đi lẻn vào một số khách lên đền này. Ngài đi trong âm thầm lặng lẽ, nhưng chẳng bao lâu người ta cũng biết, vì Người bắt đầu giảng dạy ngay tại đền thờ. Do đó cuộc tranh luận với Ngài sôi nổi hơn. Một mặt, các quan quyền trong dân lại đi tìm cách hại Ngài (c.25). Họ muốn hủy tiêu Ngài vì họ thấy Ngài quá nổi nang, họ chỉ biết Ngài là con bác thợ mộc mà không theo họ. Họ không chấp nhận bản tính thần linh của Chúa. Dù bao nhiêu chứng cớ cho vai trò Thiên Chúa đó như: Gioan tiền hô, Thiên Chúa Cha, Kinh thánh, chính lời Chúa nói và việc Chúa làm cũng không đánh động những tâm hồn chai đá đó. Họ quyết tâm từ chối thì đó là quyền tự do của mỗi người, Thiên Chúa cũng kính trọng sự tự do đó.
Chúa Giêsu đã đánh thức lương tâm họ, nhất là nhóm biệt phái, là những người học hỏi về Cựu ước, tinh thông lề luật mà không có lòng khiêm nhường thì thật là nguy hại biết bao nhiêu cho mình và cho người khác. Cổ nhân đã từng nói: “Có học mà không hạnh là kẻ ác”, “Có hạnh có đức mà không có học là đần”. Cho nên, ở đời này còn gì quí hơn “có tài, có đức, có hạnh”. Nơi Chúa Giêsu gồm đủ mọi sự khôn ngoan thông thái và đức độ. Nhưng quả chín thì thường bị nhiều con chim mổ lắm.
Với bao nhiêu lời giáo huấn và phép lạ kèm theo, Chúa mạc khải về Thiên Chúa Cha mà người Do thái không biết hoặc chưa biết cho đủ hay chưa biết như phải biết (Gio 5,37). Chúa Giêsu quả quyết Thiên Chúa Cha là người sai Ngài xuống trần gian để cứu chuộc họ (Gio 5,37. 7,33. 6,19. 20,21). Chúa Giêsu đã từng dùng dụ ngôn những người làm vườn nho hung ác để nói lên việc Thiên Chúa Cha sai Ngài xuống trần gian và bị đem giết đi (Mt 21,33-46). Phúc âm theo Gioan có hơn 25 lanà quả quyết Thiên Chúa Cha sai Ngôi Con xuống trần gian.
Nhưng khi nghe những nhân chứng và những lời chứng của Chúa Giêsu thì người Do thái cho là Chúa nói lộng ngôn phạm thượng… Nhưng thực ra họ cho là phạm thượng đối với chính họ. Từ đó, nhất là sau phép lạ ở Betsaida cho người bất toại vác chõng ra về (Gio 5,17), họ tìm cách hạ cho bằng được Chúa. Hại Ngài không phải Ngài lỗi luật ngày Sabat, nhưng vì Ngài vẫn theo họ nghĩ nguy hại cho họ, làm họ mất hết uy thế, mất miếng ăn chăng ? Họ tra tay bắt Ngài. nhưng giờ của Chúa chưa đến (c.30).
Nhân dịp này, Đức Giêsu xuất hiện, và chẳng mấy chốc, Ngài đã lên tiếng giảng dạy trong đền thờ. Sự kiện Ngài xuất hiện đã làm cho dân chúng không khỏi ngạc nhiên và bàn tán xôn sao vì đã trở thành cái gai trong mắt những nhà lãnh đạo.
Tại sao biết bao nhiêu lời chứng mà Đức Giêsu đã trưng dẫn cho họ về Ngài mà họ cũng không tin? Nào là Gioan tiền hô; Thiên Chúa Cha; Kinh Thánh… Rồi đến ngay cả những việc Ngài làm minh định điều đó mà họ vẫn không tin.
Thưa! Đơn giản vì cái tôi của họ quá lớn. Họ tự tôn là thành phần đặc quyền đặc lợi, ưu tuyển, nên không thể chấp nhận được giáo huấn cũng như bản tính thần linh của Đức Giêsu. Ngược lại, họ đã kết tội Đức Giêsu, cái tội mà chắc chắn sẽ chết, đó là nói lộng ngôn, phạm thượng. Là kẻ phản loạn, không giữ luật ngày Sabát… Chính vì tâm trí họ ra mù quáng mà sự hiện diện và lời dạy của Đức Giêsu không hề thức tỉnh lương tâm của họ.
Sự cứng lòng của những người Do Thái không tin đã nhốt kín họ trong những định kiến mê muội đối với những hành động khẳng khái của Chúa Giêsu. Thay vì khách quan đặt lại vấn đề để tìm ra nguyên do nào đã thúc đẩy Chúa hành động bất chấp nguy hiểm như thế, họ chỉ một mực bưng tai bịt mắt khư khư giữ lấy lập trường riêng của mình. Họ đem lòng dạ quanh co xấu xa của họ ra xét đoán tha nhân và những sự việc xảy ra chung quanh. Họ không nhận ra được sự thật mà Chúa Giêsu đã mang đến; cũng không nhìn thấy hình ảnh của Ðấng Thiên Sai nơi Chúa Giêsu. Thật ra, đó chỉ là những hình ảnh thô thiển do cái nhìn chủ quan của họ tạo ra. Còn Ðấng Cứu Thế đích thực đang đứng trước mặt họ thì họ lại khước từ.
Đức Ki-tô nhắc nhở chứng ta không phải chỉ biết Người theo phạm vi loài người mà chính là theo phạm vi Thiên Chúa. Như chúng ta, không phải chỉ sống theo khía cạnh là người này phải làm lụng vất vả để kiếm bánh ăn mỗi ngày : bánh cho xác, bánh cho con tim, cho trí óc mà còn cần thứ khác siêu việt hơn. Thứ khác đó thuộc phạm vi đức tin mà chúng ta phải khám phá. Thứ khác đó chính là Đức Ki-tô, Người đang sống trong chúng ta. Chính là ơn thánh, chân lý mầu nhiệm mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, Người an ủi chúng ta, không vượt xa mà hoàn toàn ở trong chính chúng ta.
Mùa Chay, mùa của hoán cải, chúng ta được mời gọi thay đổi trước tiên cái nhìn của chúng ta. Tin nhận Chúa Giêsu là con Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận Ngài, là đi vào cái nhìn của Ngài, là đánh giá mọi sự bằng chính cái nhìn của Ngài. Mùa Chay là mùa quay trở lại với anh em. Ước gì cái nhìn của chúng ta đối với anh em không dừng lại theo những tiêu chuẩn thông thường của người đời, nhưng được mặc lấy ánh mắt tôn trọng, cảm thông, bao dung, tha thứ của Chúa. Ước gì cái nhìn của chúng ta về cuộc sống không đóng khung trong những phán đoán thông thường của người đời, nhưng được hướng dẫn bởi những tâm tình tin tưởng, phó thác, lạc quan của chính Chúa.
2024
ĐỪNG THỰC DỤNG
14.3 Thứ Năm trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Xh 32:7-14; Tv 106:19-20,21-22,23; Ga 5:31-47
ĐỪNG THỰC DỤNG
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói về việc làm chứng. Chúa Giêsu đã nêu lên nguyên tắc : “Mình làm chứng cho mình thì chứng đó không xác thực”.
Người Do Thái thời Chúa Giêsu không tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, cho dù đã Gioan Tiền Hô, có Thiên Chúa Cha, có sách Thánh và nhất là có những công việc Thiên Chúa Cha giao cho Ngài mà Ngài đã hoàn thành, làm chứng .
Như vậy thái độ không tin ấy là thái độ của những người cố chấp, không muốn nhìn nhận một sự thực.
Nhưng không phải chỉ có những người Do Thái thời Chúa Giêsu đã cố chấp như thế đâu, mà cho đến nay, trong nhân loại chúng ta cũng không thiếu gì những người vẫn cố chấp như thế. Sau 20 thế kỷ, Chúa Giêsu vẫn bị một số người coi như là một nhà cách mạng, một nhà hiền triết mà thôi.
Chúa Giêsu muốn minh chứng mình là Đấng cứu thế. Chúa chứng nhận rõ ràng về điều này. Nhưng vì Đấng cứu thế không hợp với quan niệm trần gian của người Do thái cho nên họ không tin.
Lời Chúa nói “Mình làm chứng cho mình thì không xác thực” (c.31). Đó là nguyên tắc tổng quát cho mọi người, khi chưa biết, chưa quen nhau thì không ai tự làm chứng cho mình được. Vì thế mà người ta thường dựa vào nhân chứng. Ngay từ thời Cựu ước cũng đã có luật làm chứng người xa lạ. Còn khi đã quen thuộc thì còn gì thành thật hơn chính đương sự nói ra. Tuy nhiên nếu chính đương sự nói ra và có những nhân chứng nữa, thì sự thực ấy càng xác thực. Chúa Giêsu đã làm như thế.
Một lần nữa, Chúa còn làm cho chúng ta ý thức về sự thật tỏ tường mà chúng ta đã từ chối. Nếu chúng ta liệng bỏ đời sống do Thiên Chúa ban, thì chính chúng ta lên án chính mình. Đức Ki-tô sẵn lòng hiện diện và luôn hoạt động, dù Người không cần gì phải bảo vệ.
Tất cả sứ điệp của Đức Ki-tô tóm lại trong hai thái độ nền tảng và bất khả phân ly này là : đức tin và tình yêu. Hoặc là chúng ta đón nhận cả hai hoặc là không. Đó là điều căn bản. Đừng lấy làm lạ khi người ta thấy khó theo Đức Ki-tô. Thật đáng buồn khi bị Ngài từ chối do những thái độ sống nửa vời, sống khô khan, hòa hoãn bủn xỉn, hẹp hòi.
Đức tin đặt nền tảng trên sự thật vào Đấng chúng ta tin, vào Đức Ki-tô của Chúa Cha : “Lời Ngài làm chứng về Tôi là lời chứng thật”.
Đức tin đặt nền tảng trên công việc mà Đức Ki-tô đã hoàn tất nhân danh Chúa Cha : “Chính những việc Tôi làm đó làm chứng cho Tôi rằng Chúa Cha đã sai Tôi”.
Đức tin đặt nền tảng trên Kinh thánh, chúng ta biết rằng Thánh kinh đã được linh ứng bởi Thiên Chúa : “Chính Kinh thánh lại làm chứng về Tôi”.
Chúng ta có đức tin không ? Làm sao chúng ta có thể nói : “Tôi tin”, nếu chúng ta không sống theo Đức Ki-tô, mà giáo huấn của Người từ Chúa Cha đến với chúng ta ? Chúng ta không tin Thiên Chúa nếu không tin Đức Giêsu Ki-tô. Tórn lại, đức Giê-su đã nói với chúng ta rằng: “Các ông không tin Chúa Cha vì các ông không tin Đấng Chúa Cha sai đến”.
Chúng ta nghe lời cảnh cáo của Đức Ki-tô, lời bày tỏ một lòng thương xót lớn lao đối với những người là anh em bạn hữu của Người. Và những lời này chắc chần cũng nói với các bạn và tôi nữa. Chúng ta hãy nghe lời Đức Ki-tô sắp kêu lên một lời than thở dường như tuyệt vọng : “Quả thật, Tôi biết rõ các anh, tình yêu Thiên Chúa không ở trong các anh”.
Và Người nói tiếp : “Không, các anh không tin Tôi, nhưng lại tin kẻ lường gạt đến đầu tiên”. Có phải Người đã chết vì điều đó chăng ? Đức Ki-tô đã nói với chúng ta rằng : “Phải, Tôi chết vì chúng trò dại dột của các bạn, vì những mê tín dị đoan của các bạn, để các bạn có ánh sáng. Thật khó khăn tin vào Tôi, Tôi rõ ràng hiển nhiên như thế đó. Tôi chết đi để cho các bạn có thể được gặp Cha chúng ta, ước mong các bạn là tín hữu trung thành”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mình, đó là được trở nên con cái Thiên Chúa, được Đức Giêsu đổ máu để cứu chuộc, thì chúng ta phải sống sao cho xứng đáng đặc ân cao quý này.
Đừng bao giờ đọc Kinh Thánh với thái độ khép kín hay biến Kinh Thánh để làm luận cứ để hậu thuẫn cho những lập trường bảo thủ của mình thay vì lòng yêu mến và mong được biến đổi nhờ Lời Chúa.
Không chỉ quở trách người Do thái cố chấp không tin, hôm nay Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống “thực dụng” của mình mang những dấu ấn không tin một cách thực tiễn, khi chúng ta khước từ Thiên Chúa để chạy theo vật chất, những danh vọng, những đam mê trên thế gian làm chúng ta xa dần Thiên Chúa – hạnh phúc đích thực.