2024
Đấng Thiên Sai khẳng định thiên tính
22.3 Thứ Sáu trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Gr 20:10-13; Tv 18:2-3,3-4,5-6,7; Ga 10:31-42
Đấng Thiên Sai khẳng định thiên tính
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy công cuộc loan báo Nước Thiên Chúa của Chúa Giêsu đã gần đến hồi kết thúc.
Ba năm say sưa miệt mài với mọi cách thức giảng dạy, Chúa Giêsu dùng những dụ ngôn thiết thực, những lời nói cao siêu hay đơn sơ dễ hiểu. Nhất là Người đã dùng đến quyền phép của Thiên Chúa mà làm những phép lạ để ban ơn giáng phúc cho người Do Thái, dân riêng của Người. Hầu cho họ nhận ra Thiên Chúa quyền phép tạo dựng yêu thương, là cha của họ cùng toàn thể nhân loại. Đặc biệt là muốn cho họ nhận ra Đấng Thiên Chúa yêu thương ấy cũng chính là Đức Giêsu đã đang ở với họ mà dạy dỗ, mà cứu chuộc, cho họ được sống muôn đời. Vậy mà công ơn của Người với họ như là vô hiệu. Từ việc bới móc, chê bai bất tuân lời Chúa dạy, đến hôm nay sự thù ghét đã gần đến đỉnh điểm: “Họ lượm đã ném Đức Giêsu” và họ còn “tìm cách bắt Người” nữa..
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng thánh thiện tốt lành đến với trần gian u mê tội lỗi, như ánh sáng đến với bóng đêm mà Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (Ga 3,19-20).
Đến ngày phán xét, nhiều dân tộc có thể họ bào chữa cho mình rằng: Vì tôi chưa được nghe giảng Tin Mừng. Nhưng với người Do Thái họ không những được nghe, còn được nài nỉ van xin, chỉ vẽ để cho họ dù không nghe lời dạy, thì ít ra cũng tin yêu những việc kỳ diệu của Đấng Thiên Sai đã làm.
Họ tỏ ra tôn kính Thiên Chúa: “Chúng tôi ném đá ông… vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”. Nhưng không nhận những việc thiện hảo bởi quyền phép Thiên Chúa. Họ nại đến Thiên Chúa mà giết người tin kính Thiên Chúa, điều mà Chúa Giêsu đã nói: “Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường, hơn nữa sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” (Ga 16,2). Tâm hồn họ mù tối ích kỷ, kiêu căng ghen ghét, không muốn nhìn nhận một điều gì tốt lành nơi người khác. Họ như những con mắt bệnh tật không muốn tiếp nhận ánh sáng chói lọi là lời Chúa Giêsu đem đến cho họ: “Ta là Con Thiên Chúa… Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha”.
Lòng dạ mù tối ác độc đã dẫn họ đến phạm tội ác tầy đình có một không hai trong lịch sử nhân loại: Giết Chúa Cứu Thế. Một tội ác, một vết nhơ, họ đã bị nhân loại nguyền rủa hai nghìn năm qua. Nhưng công đồng Vaticano II (1965) đã nhắc nhở mọi người: “Mặc dầu chính quyền Do Thái và thuộc hạ đã đưa đến cái chết của Chúa KiTô, nhưng không thể quy trách một cách hàm hồ những tội ác đã phạm trong khi Người bị khổ nạn cho hết mọi người Do Thái thời đó… cũng như thời nay.”).
Thật vậy, Tin Mừng hôm nay kể dù “nhiều kẻ tìm cách bắt Người”… Nhưng cũng “… có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: Gioan đã không làm một phép lạ nào, nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả”.
Tin Mừng hôm nay: “Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”. Người Do Thái thời ấy tôn thờ Thiên Chúa là bậc Chí Tôn uy quyền ở trên cao vời vợi, và con người là kẻ bé mọn, các Thượng tế, Biệt phái không thể chấp nhận được điều Chúa Giêsu nói với họ: “vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa?”, dù họ đã biết khi Chúa Giêsu đi rao giảng mời gọi mọi người đón nhận Tin Mừng, Người không chỉ nói lý thuyết mà luôn có hành động của Lòng Chúa Thương Xót là cứu chữa các bệnh nhân.
Lòng yêu thương con người từ Chúa Cha và Chúa Con đã thực hiện điều ấy thay Chúa Cha. Chúa Giêsu muốn tỏ bày cho dân Chúa biết Người là Con Thiên Chúa và cũng muốn nhân loại biết về Chúa Cha, nhưng những nhà lãnh đạo Do Thái tỏ thái độ chống đối, có thể là do xuất thân của Chúa Giêsu là con của gia đình lao động, quá tầm thường. Ông bà xưa có câu : “Miệng nhà giàu nói đâu ra đấy” hay thành ngữ có câu “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” thật chẳng sai. Trong đời sống xã hội từ thời xưa đã có sự phân biệt người quyền thế, giàu có, người có tiền, thì luôn dễ dàng chiếm lĩnh ưu thế.
Bài học cho chúng ta là những vị Mục Tử tại các giáo phận, giáo xứ là những vị đại diện cho Giáo Hội với trọng trách chăm sóc linh hồn của giáo dân, thực thi sứ vụ truyền giáo tại các địa phương rất cần sự hợp tác, đón nhận của người Kitô hữu. Theo thánh Augustino chia sẻ: “Nếu mặc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu xuống thế gian để cứu rỗi và nâng con người lên làm con cái Chúa Cha, để cùng hưởng hạnh phúc với Chúa Cha. Hành trình trở thành con cái Chúa là sự tự nguyện của mỗi người, Lời Chúa giúp chúng ta biến đổi từ bên trong và thể hiện ra bên ngoài với mọi người chung quanh từ cách giao tiếp, cư xử… làm đời sống Kitô hữu ngày một nên thánh thiện. Ngày nay, khi nghe Giáo Hội giảng dạy Lời Chúa, cũng có những Kitô hữu không chấp nhận mà còn có hành động như: coi thường Lời Chúa, vi phạm luật công bình, bác ái, phản đối luật lệ Hội Thánh, chống đối chủ chăn…
Ngày nay, Tuy rằng Thiên Chúa không còn trực tiếp để nói với nhân loại về Ngài nữa: Song, qua Kinh Thánh, qua Giáo hội và qua những dấu chỉ của thời đại Chúa vẫn tiếp tục mạc khải về Ngài, về tình yêu thương và công trình cứu độ của Ngai . Điều quan trọng nằm ở phía con người có biết mở đôi mắt, mở đôi tai và mở tấm lòng ra đón nhận Thiên Chúa hay không?
Thiên Chúa đã tôn trọng và ban cho mọi người được quyền tự do để tùy đó lựa chọn cho mình sự sống hay cái chết. Vì vậy. Chúng ta hãy nên khôn ngoan biết dùng chính cái quyền được tự do ấy mà đón nhận Thiên Chúa bằng việc mang Lời Ngài ra thực hành trong cuộc sống, có như thế chúng ta mới hy vọng sẽ được sống đời đời bên Chúa sau cuộc lữ hành trần gian này.
2024
XIN CHÚA MỞ CON MẮT ĐỨC TIN
21.3 Thứ Năm trong tuần thứ Năm Mùa Chay
St 17:3-9; Tv 105:4-5,6-7,8-9; Ga 8:51-59
XIN CHÚA MỞ CON MẮT ĐỨC TIN
Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong bài trích Phúc Âm này, Ngài nói hơi xa xôi: Khi người Do Thái hỏi “Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng tôi là Abraham sao ?”, Ngài đáp “Khi Abraham chưa sinh thì đã có Ta rồi. Ý Ngài muốn họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.
Hôm nay vẫn tiếp tục cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người Do thái về thân thế của Ngài. Đức Giêsu khẳng định: “Ai giữ lời Ta thì không bao giờ phải chết”. Với những lời giáo huấn của Đức Giêsu, người Do thái không chấp nhận, và họ đã lượm đá ném Ngài.
Điều cốt lõi trong cuộc đời Kitô hữu là kiếm tìm và thực thi Lời Chúa dạy. Hôm nay, chúng ta đã nghe và đón nhận Lời Chúa với thái độ như thế nào? Chúa vẫn đang hướng dẫn chúng ta qua những người có trách nhiệm, những người mà ta được gặp gỡ trong cuộc sống. Chúng ta có khiêm tốn đón nhận hay cũng có thái độ như người Do thái xưa?
Càng đi sâu vào Mùa Chay, cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và những người luật sĩ cũng như người biệt phái ngày càng gây cấn hơn. Nếu như Đức Giêsu càng ngày càng tỏ rõ danh tính của mình là Con Thiên Chúa thì những người Do thái càng ngày lại càng căm thù và muốn giết Ngài. Nhưng người Do thái với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm hẹp hòi của cá nhân như thế, làm sao họ có thể biết được thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám” (Ga 8,52),
Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Đức Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó có cả những thành kiến do những người có đạo tạo nên.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu lại tuyên bố một câu làm cho người ta hiểu sai: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Người Do thái không hiểu nổi mạc khải này, bởi vì theo họ, Abraham và các tiên tri cũng đã chết, mặc dù vẫn tuân giữ Lời Chúa. Do đó, họ lên tiếng phản đối, cho Ngài là bị quỷ ám, và họ lượm đá ném Ngài.
Một người dám sống chứng nhân cho Tin Mừng là người dám đứng về phía sự thật. Có những sự thật chúng ta vì tiếng lương tâm phải nói ra, dẫu cho sự thật ấy có nguy cơ làm cho chúng ta bị trù dập. Như Chúa Giêsu, đã đến giờ Người nói rõ mọi sự về Người, dẫu sự thật này sẽ là nguyên nhân đưa Người đến thập giá chăng nữa.
Từ lâu, Chúa Giêsu bị coi là cái gai trong mắt của những nhà lãnh đạo Do Thái, như là Pharisêu, Tiến sĩ luật, phái Sađốc. Họ muốn loại bỏ Chúa Giêsu, vì lý do Người từng lên án thói đạo đức giả của họ; thêm nữa, họ nhận thấy những lời Chúa Giêsu chứa đầy nghịch lý: chưa được năm mươi tuổi mà xưng mình “có trước Ábraham”; còn bảo ai tuân giữ Lời Chúa thì được sống, thế mà “Ápraham và các tiên tri đã chết”; lại cả gan xưng mình là “Đấng Hằng Hữu”, danh xưng chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, họ bàn cách loại trừ bằng việc ném đá, xô xuống vực hay đóng đinh như một tử tội.
Con người cần nhờ Chúa Giêsu Kitô để đến được với Chúa Cha mà hưởng sự sống vĩnh cửu. Cho nên, những nguy hiểm không làm Chúa Giêsu chùn bước vì sứ mạng Chúa đến để cứu chuộc con người, để mặc khải sự thật. Chính vào lúc Chúa Giêsu bị đối xử như một tử tội, bị cho là ở trong hoàn cảnh bi đát, yếu đuối, bất lực và đầy sự chế nhạo nhất, là lúc Người được Chúa Cha tôn vinh. Người được tôn vinh không phải trên ngai vàng mà là trên thánh giá. Thánh giá mới là nguồn phát sinh ơn sự sống.
Thật ra khi tuyên bố điều đó, Chúa có ý nói về sự sống siêu nhiên, chứ không có ý nói về sự sống thể xác. Vì thế, khi nghe Chúa nói: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết” thì phải hiểu rằng Chúa có ý nói: Ai đặt niềm tin vào Ngài, đón nhận và thực thi giáo huấn của Ngài, thì được thông hiệp vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của thân xác, các môn đệ cũng thế. Nhưng sự thật, các môn đệ của Đức Giêsu và cả chúng ta nữa được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa nếu chúng ta tin vào Ngài.
Đã có nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cố tình từ chối chân lý, sống ngụp lặn trong tội, bỏ ngoài tai tiếng nói lương tâm, lề luật Chúa cùng giáo huấn của Hội Thánh. Mùa Chay thánh sắp qua đi, nên đây là lúc chúng ta cần mau mắn chạy đến với Chúa và xin Ngài mở con mắt đức tin, nhờ đó chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối của mình; đồng thời, cũng can đảm từ bỏ nếp sống tội lỗi, canh tân đời sống cho phù hợp với ánh sáng Tin Mừng của Chúa.
2024
ĐỪNG NÔ LỆ CHO TỘI
20.3 Thứ Tư trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Đn 3:14-20,91-92,95; Đn 3:52,53,54,55,56; Ga 8:31-42
ĐỪNG NÔ LỆ CHO TỘI
Đối với người Do thái, tự do là quyền bẩm sinh của họ. Họ cho tự do một giá trị rất cao, đến nỗi luật quy định rằng, dù nghèo hèn đến đâu, người Do thái không thể bị hạ thấp xuống hàng nô lệ: “Nếu người anh em của ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh ngươi và phải bán mình cho ngươi, thì ngươi không được bắt nó làm công việc của người nô lệ” (Lv 25: 39).
Vì thế, khi Chúa Giêsu nói “sự thật sẽ giải phóng các ngươi”, thì họ nổi điên lên vì cho rằng Chúa Giêsu nói họ đang sống trong sự nô lệ và cần phải được giải phóng. Tuy nhiên, ở đây Chúa Giêsu không nói đến sự nô lệ về thể xác, mà về phương diện tinh thần: “Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội” (Ga 8: 34).
“Nô lệ cho tội” là một mối tương quan giữa tôi tớ và chủ nhân. Trong mối tương quan này, người tôi tớ phải vâng lời chủ, vì họ thuộc về chủ. Tôi tớ không được làm theo ý riêng của mình. Họ bị ràng buộc với chủ nhân. Cũng vậy, khi chúng ta trở nên nô lệ cho tội lỗi, thì tội lỗi trở thành chủ nhân của chúng ta, còn chúng ta là tôi tớ, chúng ta không thể chống lại tội lỗi.
Tuy nhiên, tội lỗi lại ẩn nấp dưới nhiều hình thức khác nhau, nó có thể là: thú vui, sở thích… Đây là những điều chưa phải tội lỗi, nhưng nó là khởi đầu cho mọi tội lỗi. Ai cũng có thú vui hoặc sở thích trong cuộc sống, nhưng quan trọng là, chúng ta điều khiển thú vui và sở thích hay để chúng điều khiển chúng ta? Điều đó sẽ là khởi đầu cho tội lỗi.
Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì trói buộc họ khiến họ làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát khiến họ được tự do. Điều trói buộc họ thành nô lệ là tội, nhất là tội tự mãn mình là con cháu Abraham nhưng không làm theo gương Abraham là mở rộng cõi lòng để tin vào Thiên Chúa và Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Điều giải thoát cho họ được tự do là nghe lời Chúa Giêsu để biết Sự Thật, “Sự thật sẽ giải thoát con người”.
Đức Giêsu đã nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được tự do. Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc vào con đường của ma quỉ, của những đam mê dục vọng. Chúng ta chỉ có thể sống hạnh phúc và tự do khi sống đúng địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Đức Giêsu, khi chúng ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nói cho người Do thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do. Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”.
Giải phóng cho chúng ta tự do… Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Đức Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa – con cái tự do.
Khi nguyên tổ Adong-Evà phạm tội lỗi nghịch cùng Chúa, ma quỉ đã đem tội lỗi vào trần gian. Và khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỉ. Tự sức mình con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu độ. Đức Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đem con người trở nên con cái tự do. Đức Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35).
Muốn được sống tự do, muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Nhà văn văn Shakespeare nói: “Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại”. Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan. Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm, nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời: “Con chẳng có tội gì!”
Nhìn lại cuộc sống của mình, nhiều khi bị quở trách vì những điều này điều kia, chúng ta thường lý sự rằng: “Đó là sở thích của tôi, tôi làm theo sở thích của tôi chứ có ảnh hưởng gì đến anh đâu; tôi có tiền mà, tôi thích thì tôi mua; tôi có quyền, tôi thích thì tôi làm; anh có quyền và có tiền thì anh cũng làm như vậy đi…”. Dĩ nhiên, chúng ta có thể làm điều chúng ta thích. Nhưng sự thật là người phạm tội chẳng làm điều mình thích, mà làm điều tội lỗi thích. Nhưng mấy ai nhận ra vấn đề này trong “cơn lốc đam mê” của mình! Nhiều khi chúng ta để cho thói quen và sở thích bám chặt lấy mình đến độ không thể nào thoát ra được. Thời gian dần dần trôi qua với những thú vui và sở thích đó, đến một lúc chúng ta có thể lâm vào tình thế “vừa ghét” và “vừa yêu” sở thích và thú vui của mình. Chẳng hạn, cả ngày ngồi lướt Facebook coi hết video này đến video khác; chúng ta biết nó chiếm nhiều thời gian của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cứ cầm điện thoại lên bấm liên tục và lướt không rời tay! Vậy, trong những sở thích và thú vui đó, cái gì là chủ nhân? và ai là nô lệ? Chúng ta có tự do không hay chúng ta đang bị tội lỗi (thú vui, sở thích) điều khiển?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một lời cảnh tỉnh cho đời sống của chúng ta. Lời cảnh tỉnh này mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống của mình trước các hình bóng của tội lỗi được ẩn nấp dưới nhiều hình thức khác nhau. Qua đó, chúng ta lấy lại quyền làm chủ trước các thú vui và sở thích đang chiếm hữu cuộc sống của mình.
Chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô hữu, là những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng ấy không làm nên thực chất, cái áo không làm nên ông thầy tu, chỉ có danh hiệu bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Đức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói “xem quả biết cây”, chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong Mùa Chay thánh này?
2024
ĐẤNG CÔNG CHÍNH
19.3 Thánh Giuse Bạn Đức Mẹ Maria
Ds 21:4-9; Tv 102:2-3,16-18,19-21; Ga 8:21-30
ĐẤNG CÔNG CHÍNH
Trong Giáo Hội, sau Đức Mẹ, Thánh Giuse là vị thánh cả trong Giáo Hội, được mọi người tôn kính mến yêu cách đặc biệt. Trong Kinh Thánh, thánh Giuse được gọi là người công chính. Thánh Giuse được Giáo Hội tôn vinh với nhiều tước hiệu cao quý. Một trong những tước hiệu đó là: “Thánh Giuse – Đấng bảo trợ Giáo Hội và những tâm hồn dâng hiến.”
Đức Thánh Cha Piô IX, một vị Giáo hoàng có lòng sùng kính thánh Giuse đặc biệt, đã viết về thánh Giuse như sau : “Ngoài Đức Mẹ ra, thì trên trời dưới đất không tìm được vị thánh nào có thần thế để bênh vực Giáo Hội cho bằng thánh cả Giuse”.
Chính vì thế, ngày 8-12-1870, Ngài đã long trọng tuyên bố đặt Thánh Giuse làm quan thầy Giáo Hội hoàn vũ, ký thác Giáo Hội cho sự che chở phù trì của Thánh Cả Giuse.
Riêng đối với Giáo Hội Việt Nam, thánh Giuse đã trở nên gần gũi và thân thương. không chỉ vì Ngài là bạn thanh sạch của đức Maria và là cha nuôi của Đấng Cứu Thế, nhưng còn là Đấng bảo trợ luôn đồng hành với Giáo Hội Việt Nam suốt chặng đường dài lịch sử, từ lúc mới phôi thai cho tới trưởng thành.
Việc nhận thánh Giuse làm Đấng bảo trợ bắt nguồn từ một biến cố lịch sử trọng đại. Đó là sự kiện cha Alexandre de Rhodes và cha Marquez, sau những ngày vượt trùng dương nguy hiểm, nhờ lời khấn thánh Giuse hai cha đã cập bến an toàn, tại cửa Bạng – Thanh Hóa, đúng vào ngày 19-3-1627, ngày lễ kính thánh Giuse.
Hôm ấy, hai cha đã dâng thánh lễ cảm tạ thánh Giuse và phó thác Miền này cho Ngài gìn giữ.
Mừng lễ thánh Giuse hôm nay, chúng ta không chỉ dừng lại ở một vài nét lịch sử liên quan giữa Ngài với Giáo Hội, nhưng còn là dịp để chúng ta tìm hiểu và noi gương các nhân đức của Ngài.
Trong Tin Mừng, Thánh Giuse được giới thiệu là “người công chính” gắn liền với đời sống âm thầm. Không một lời nào của ngài được ghi nhận. Nhưng giữa những biến cố bên cạnh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse lại xuất hiện trong một diện mạo khác, vừa năng động mau mắn vừa xác quyết tin yêu. Nếu đức tin là một sự lên đường liên tục thì thông qua những đáp ứng lên đường mau mắn của Giuse trong những lần được mộng báo, ta có thể gọi ngài là “con người của niềm tin”.
Thánh Kinh không ghi lại một lời nói trực tiếp nào của thánh nhân. Ngài chỉ xuất hiện một vài lần cách mờ nhạt. Ngài sống ra sao, chết cách nào chẳng có bút tích nào ghi lại. Cả đời Ngài chỉ sống âm thầm, khiêm tốn, cầu nguyện và lao động. Hoàn toàn lo lắng phục vụ Chúa Giêsu và Đức Maria. Có thể nói lẽ sống của Ngài, vinh dự của Ngài, niềm vui và hạnh phúc của Ngài chính là chu toàn bổn phận Chúa Cha đã giao phó cho.
Thánh Giuse là người công chính. Công chính ở điểm nào? Kinh Thánh ghi: ‘ ông không chịu tố cáo bà Maria đã có thai trước khi hai ông bà về sống chung. Không chịu tố cáo để trở nên công chính. Như vậy, công chính ở đây bắt đầu ở cẩn ngôn khi phán đoán. Cẩn trọng trong lời ăn, tiếng nói. Người trưởng gia đình cần phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, nhất là khi cần phải bình phẩm về người khác. Cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói là bằng chứng cho biết người đó công chính. Thánh Giuse không nói cũng không có nghĩa là ông bỏ qua, không nói gì hết. Thánh nhân đã nói rất nhiều. Khi nào? Thưa nói trong lúc cầu nguyện cùng Thiên Chúa, xin Chúa soi sáng cho biết việc phải làm. Chính việc cầu nguyện này biến thánh Giuse trở thành người công chính. Như thế công chính không phải do lời nói, cẩn ngôn, cũng không phải do hành động mà chính là lòng tin. Thánh Giuse không thể tự làm cho mình nên công chính. Thánh Giuse trở nên công chính là do Lời Chúa, ân sủng Chúa giúp thánh Giuse trở nên công chính. Lời Chúa là lời công chính và ai tin vào Lời đó sẽ được Lời làm cho ra công chính. Có lẽ tư tưởng bài hát Lời Ngài dậy con trong đêm tối. Lời Ngài dậy con lúc lẻ loi lấy từ tư tưởng này của thánh Giuse.
Thánh Giuse cầu nguyện rất nhiều, nhất là về đêm vì thánh thần linh ứng cho ông vào ban đêm, trong giấc mơ, giấc mộng. Không phải một lần mà là nhiều lần với những sứ vụ khác nhau. Nghe tiếng nói trong mơ, mộng có thể rất thật mà cũng có thể rất mơ hồ. Không thể xác định thánh Giuse có nghi ngờ gì về điều nghe biết trong giấc chiêm bao. Có hai trường hợp có thể xảy ra. Thứ nhất thánh Giuse không tin tuyệt đối vào những gì nghe biết trong giấc chiêm bao. Nếu giả thuyết này đúng thì thánh Giuse đặt trọn niềm tin vào Người Con mà Thiên Chúa trao cho ông coi sóc là một người hết sức đặc biệt. Giả như suy đoán này đúng thì thánh Giuse có thể nghi ngờ vào giấc chiêm bao nhưng lại tin vào Người Con. Mà tin vào Người Con là tin vào Chính Thiên Chúa vì Người Con này là Thiên Chúa giáng trần. Rất có thể Giuse không hiểu như chúng ta hiểu ngày nay. Ông chỉ hiểu là Người Con này có một sứ mạng rất đặc biệt. Bởi đây là Người Con với sứ mạng hết sức đặc biệt nên dù trong cuộc lữ hành có nguy hiểm, khó khăn đến mấy kết quả cũng hoàn thành tốt đẹp vì đây là Người Con Chúa đặc biệt lưu tâm, để ý. Tin tưởng vào lí luận đó mà Thánh giuse vượt qua mọi gian nan, thử thách. Khó khăn mấy cũng cố hoàn thành, thử thách nào cũng gắng vượt qua. Đau khổ nào cũng chấp nhận.
Thánh Giuse không hề than phiền hay đặt nghi vấn về sứ mạng thần linh linh ứng khi ông gặp khó khăn, hoàn cảnh hoạn nạn. Nếu nghi ngờ ông đã bỏ cuộc. Rất dễ chỉ cần quay ngược lại, làm theo ý riêng, suy nghĩ riêng là Giuse tránh khỏi biết bao phiền toái, lo lắng, đau khổ. Bị xua đuổi, bị nằm ngủ nơi chuồng bò, đồng hoang nhưng thánh nhân vẫn một mực trung kiên, tuyệt đối tin tưởng phó thác vào Chúa. Khó khăn, nguy hiểm, khổ sở, rét mướt, đói khát không làm cho thánh Giuse mất lòng tin, hay than van, kêu cầu Chúa thay đổi ý định hay hoàn cảnh. Trái lại thánh nhân quyết tâm tin tưởng, phó thác. Có lẽ thánh Giuse cảm thấy bình an, tự tin trong việc mang gia đình ra đi. Điều này cho thấy thánh Giuse rất tin tưởng vào sức mạnh của cầu nguyện. Chính sự tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa khiến thánh Giuse trở thành người công chính.
Nhìn vào cuộc đời của Ngài, có lẽ Ngài là một người cha đầy bôn ba, đầy vất vả. Ngài đã phải dẫn dắt gia đình đi qua biết bao sóng gió nguy nan ùa tới như muốn nhận chìm gia đình. Sự khốn khó nguy nan đã khởi sự từ ngày Con Thiên Chúa hạ sinh. Thánh Giuse đã phải đối phó với biết bao cực nhọc. Từ việc bôn ba tìm kiếm quán trọ cho mẹ con hài nhi. Rồi đưa vợ con trốn chạy sang Ai Cập. Nơi đất khách quê người Ngài đã phải vật lộn với miếng cơm manh áo từng ngày cho gia đình. Thế nhưng, Ngài đã vượt qua tất cả. Ngài vẫn mãi mãi là chỗ dựa vững chắc cho gia đình thánh gia. Ngài đã chu toàn bổn phận một gia trưởng trong gia đình đầy khó khăn, với những sóng gió tư bề. Vì thế, cuộc đời của Ngài thực sự là một mẫu gương cho các người cha. Một người cha không sợ nghi nan, không thoái thác trách nhiệm nhưng luôn là điểm tựa cho gia đình được yên vui và hạnh phúc.
Và có lẽ, cuộc đời hôm nay vẫn rất cần những con người như Cha Thánh Giuse. Một người cha để bảo vệ gia đình khỏi những sự tấn công của tục hoá đang làm băng hoại luân lý gia đình và xã hội. Một người cha có trách nhiệm để mang lại cho vợ con điểm tựa của cuộc sống. Một người cha dám quên đi hạnh phúc riêng của mình để mang lại an cư lạc nghiệp cho gia đình. Một người cha biết tuân phục thánh ý Chúa để nêu gương sống đạo cho con cái.
Thánh Giuse tuy không nói một câu nào trên đầu môi cửa miệng, nhưng Ngài vẫn đang nói với chúng ta rất nhiều qua mẫu gương thánh thiện của Ngài. Ngài là ‘Người Công chính’ không phải theo nghĩa hẹp, tức là chỉ tuân giữ lề luật cách nghiêm túc, nhưng Thánh nhân đã hoàn thiện lề luật một cách trọn hảo qua tình yêu nồng cháy dành cho Chúa Giêsu và Đức Maria.