2024
Chúa Phục sinh đang ở giữa chúng ta
5.4 Thứ Sáu trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 4:1-12; Tv 118:1-2,4,22-24,25-27; Ga 21:1-14
Chúa Phục sinh đang ở giữa chúng ta
Trong suốt tuần bát nhật Phục sinh, mừng ngày Con Thiên Chúa chiến thắng khải hoàn, rất nhiều bài thánh ca mừng Chúa Sống lại, ca ngợi tình yêu bao la của Thiên Chúa, lan tỏa khắp trong cộng đoàn dân Chúa. Chúng ta cùng hát tâm tình : “Nào ta hãy mừng vui, Chúa chiến thắng tử thần rồi, nguồn sống mới chiếu sáng tuyệt vời, Alleluia. Nào ta hãy mừng vui, Chúa đã sống lại rạng ngời, và Máu thánh xóa hết tội đời, Alleluia..”
Trong bài Tin Mừng hôm nay thánh Gioan viết về việc Chúa Giêsu chăm sóc các môn đệ, Chúa Phục sinh không ở xa các môn đệ, khi các ông ở ngoài biển đánh cá, Chúa trên bờ biển gần đó, Người hỏi thăm kết quả công việc, và Người đã chỉ dẫn cho các ông bắt được cá. “ hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được.” Ga 21,6. Người chuẩn bị lửa và nước, bánh với cá.” Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh” Ga 21,9. Người tự mình trao bánh và cá cho mỗi người như lúc Chúa Kitô đang sống để yêu thương và phục vụ.
Ta thấy thật ấm lòng khi biết Chúa vẫn đồng hành với các ông trong công việc chỉ có điều là chưa ai nhận ra Người, cho đến khi Chúa làm một dấu lạ quen thuộc là giúp các ông lưới được nhiều cá. Thánh Anphongsô cho biết; “ Bạn cần nhận thức rằng Chúa luôn ở trong bạn. Nhưng việc Chúa ở trong bạn khác hẳn với việc Chúa ở trong các loài thọ tạo khác. Thiên Chúa hiện diện trong tâm hồn ta như Ngài đang cư ngụ trong đền thờ Ngài và như đang ở ngay trong nhà Ngài.”
Chúa thể hiện tình yêu thương qua việc cùng đồng bàn với các môn đệ. Điều chúng ta nhận biết một tình yêu thương chân thành là sự quan tâm đến nhau. Nhìn lại cuộc sống của các thành viên trong gia đình Kitô hữu, đã là điểm tựa cho nhau chưa? Mối tương quan giữa cha mẹ con cái có sự thấu hiểu, cảm thông và hy sinh cho nhau khi có chuyện không may xảy đến trong gia đình? Ngược lại, con cái sẽ có trách nhiệm gì khi cha mẹ đến tuổi già? Và trong gia đình sự liên đới bền chặt khi mỗi thành viên biết lắng nghe nhau, và đồng cảm với những khó khăn, cảm nhận nỗi đau buồn mà người anh em đang gặp phải, để kịp thời nâng đỡ, ủi an nhau, như chính là Chúa Phục sinh đã từng làm cho các môn đệ.
Theo Tin Mừng Gioan (Ga 21,1-14), “Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông Tôma, Nathanael, các con ông Giêbêđê và hai môn đệ nữa đang ở với nhau nói rằng: “ Chúng tôi cùng đi với ông”. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.” Có thể nhận ra tinh thần của các tông đồ đã mất phương hướng khi không còn Chúa bên cạnh? Các ông đã nản lòng và muốn quay trở lại tiếp tục nghề nghiệp ngày trước để sinh sống? Điều gì đã xảy ra ? Với kinh nghiệm dày dạn trong nghề ngư phủ, thế mà cả đêm các ông vẫn không bắt được mẻ cá nào. Chúng ta có cảm nhận rằng nếu chỉ dựa vào sức lực con người mà thiếu ân ban của Chúa, chúng ta sẽ chẳng làm được điều gì.
Các môn đệ đã có thời gian sống với Chúa, được nghe Ngài giảng dạy rất nhiều nhưng bản chất của loài người vốn mỏng dòn dễ sa ngã, ngại khó khăn hay chùn bước trước gian nan vẫn tồn tại trong mỗi người. Chúa Giêsu rất hiểu sự yếu đuối đó, nên vẫn luôn ở bên các ông để kịp thời nâng đỡ, bảo ban. “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được” người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: “ Chính Chúa đó”. Chúng ta có cảm nghiệm Chúa đang dõi theo và phù giúp khi chúng ta đặt niềm tin cậy phó thác vào Ngài.
Niềm vui tiếp nối niềm vui: làm theo lời Chúa dạy, các ông có cá để nuôi phần xác, lại được thấy Chúa phục sinh, các ông đã bảo nhau: “Chúa đó”. Khi ấy các ông đã mừng vui biết chừng nào? Trái với đêm qua vắng Chúa: lo lắng, tối tăm, vất vả… biết bao? Chúa Giêsu tiếp tục thân thương dạy dỗ, khích lệ các ông: “đem ít cá mới bắt được tới đây”, Chúa như khẳng định cái mẻ cá vừa xong là chính quyền phép và tình thương của Thầy ban cho các con đấy, chứ tự nhiên thì không có vậy đâu. Đồng thời Chúa như nói lại với các môn đệ: “Thầy vẫn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa Giêsu như đã chuẩn bị kỹ càng để gặp gỡ, để củng cố niềm tin cho các môn đệ: “có sẵn than hồng, với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa”. Không rõ ai đã lo trước các thứ đó? Chúa như nhắc lại cho các ông cái phép lạ hôm nọ mà các ông đã chứng kiến ấy, chỉ có hai con cá và năm chiếc bánh thôi mà Thầy đã cho hơn năm nghìn người ăn no mà còn dư mười hai thúng đầy (Ga 6,5-11).
Cuối cùng với cử chỉ yêu thương quen thuộc: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá Người cũng làm như vậy”, Chúa muốn các ông nhớ đến bữa tiệc tối yêu thương muôn đời trước khi Người đi chịu chết, mà Chúa đã cam kết tỏ bày với các ông. Còn đối với các ông không những có bổn phận chài lưới mà nuôi thân xác mình, nhưng còn phải “chài lưới người như lưới cá” (Mt 4,12-20). Các ông còn phải thực thi Lời Chúa truyền dạy trong đêm tiệc ly ấy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc 9,11b-17 ), mà đem ơn cứu độ của Chúa cho khắp muôn dân.
Nghe Lời Chúa, theo gương các tông đồ, bao đời nay người Công Giáo chăm lo làm ăn không để đói rách phần xác, mà cũng chẳng xao nhãng phần hồn. Một người thân quen chia sẻ với tôi : “Buổi sớm tôi tới nhà thờ để cảm tạ Chúa – Trời đã cho tôi được làm người, sống thêm ngày mới, cùng là đi dạo thể dục, rồi về làm ăn thì tâm hồn thấy quả là an vui”.
2024
Tin tưởng và hy vọng vào Chúa Phục Sinh
4.4 Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 3:11-26; Tv 8:2,5,6-7,8-9; Lc 24:35-48
Tin tưởng và hy vọng vào Chúa Phục Sinh
Chúa Kitô Phục Sinh là mầu nhiệm cao cả và là trung tâm điểm của người Kitô hữu. Chúa Phục Sinh để chứng tỏ vinh quang và quyền năng của Ngài, Ngài đã chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết, đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay cũng nói cho chúng ta về việc Chúa Phục Sinh.
Sách Công Vụ cho chúng ta thấy : “Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại”.
Còn bài Tin Mừng Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”.
Vậy trước sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để làm gì?
Trước tiên, chúng ta được mời gọi tin tưởng và hy vọng vào Chúa Phục Sinh. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ.
Tuy nhiên, các ông cứ tưởng Ngài là ma. Thấy thế, Ngài đã cho các ông cảm nhận được sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Ngài, khi mời gọi các ông sờ vào thân thể Ngài. Cho đến khi ngồi ăn trước mặt các ông, Ngài phá tan mọi nghi ngờ trong các ông. Ngài đã củng cố niềm tin cho các tông đồ, rằng Ngài đã thực sự sống lại. Chính những điều ấy, càng đem lại niềm tin và niềm hy vọng cho chúng ta.
Trong tông huấn Niềm hy vọng Kitô giáo, Đức Phanxicô có nói: “Đức kitô Phục Sinh là niềm hy vọng của chúng ta và sự sống lại của Chúa Kitô gia tăng niềm tin cho chúng ta”. Nếu Chúa Giêsu không sống lại có lẽ mọi sự đã kết thúc, nhưng không Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết, đó cũng là niềm hy vọng cho sự phục sinh trong tương lai của chúng ta sau này. Thánh Phaolô đã nói những lời mạnh mẽ này trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: “Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì việc chúng tôi rao giảng sẽ chẳng có nghĩa lý gì; cả đức tin của anh em cũng là những gì vô bổ. Anh em vẫn còn vướng mắc tội lỗi”.
Tiếp theo, chúng ta được mời gọi chấp nhận đau khổ thập giá, để cũng được sống lại với Chúa Phục Sinh. Ai trong chúng ta cũng muốn có một cuộc sống nhẹ nhàng, êm đềm, nhưng đó không phải là điều Chúa muốn. Chúa muốn chúng ta cùng vác thánh giá, cùng chịu đau khổ với Người. Chúng ta được mời gọi nhìn vào nỗi khốn khổ hiện tại của chúng ta: có thể đó là những đau khổ của bệnh tật, những khó khăn trong công việc, trong học tập, trong tình cảm, trong tương quan với anh em.
Tuy nhiên những đau khổ này của chúng ta có là gì so với những đau khổ mà Chúa Giêsu đã phải chịu. Ngài có đủ quyền năng để chọn cứu độ cách dễ dàng, nghĩa là khỏi phải đau khổ và không phải chết. Nhưng không, Ngài đã chọn đau khổ, thập giá. Đây cũng là bài học cho mỗi người chúng ta. Khi gặp đau khổ, chúng ta thường nhìn theo hướng tiêu cực để rồi đổ lỗi, than thở.
Qua thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi nhìn đau khổ theo hướng tích cực để nhận ra đau khổ chính là phương thế cứu độ. Vì đau khổ không chỉ giúp tôi luyện đức tin chúng ta mà nhờ đau khổ chúng ta tham dự vào cuộc Khổ nạn của Đức Kitô và kết hiệp với Ngài. “Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”, nghĩa là Chúa Giêsu đã phải trải qua đau khổ mới tiến vào vinh quang. Như vậy, để đến được vinh quang, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác, không có con đường nào khác bằng việc chấp nhận những đau khổ, vác thập giá mỗi ngày.
Cuối cùng, chúng ta được mời gọi hãy để cho Chúa Kitô Phục Sinh biến đổi con người chúng ta. Chúng ta thấy được sự biến đổi rõ rệt từ các tông đồ: Trước khi Chúa hiện ra, các ông là những người nhút nhát, sợ sệt, không dám bước ra khỏi nhà, nhưng sau khi xác tín Chúa đã sống lại thật, các ông đã mạnh dạn ra đi loan báo về Đấng đã sống lại cho mọi người. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà chủ nghĩa vật chất dường như chi phối tất cả tư tưởng, đạo đức cũng như lối sống của con người thế nên hình ảnh Thiên Chúa bị lu mờ.
Con người có quá nhiều tham vọng, không muốn biến đổi và hoán cải. Đứng trước biến cố Chúa Kitô Phục Sinh, mỗi người chúng ta được mời gọi nhìn lại để xem những tiêu cực có tồn tại trong đời mình hay không? Tội lỗi đã làm cho chúng ta chết, nay chúng ta cũng được sống lại, bằng cách để cho Chúa Kitô Phục Sinh biến đổi con người chúng ta: từ con người tội lỗi, thành con người trong sáng; từ con người chỉ sống cho mình, thành con người sẵn sàng chia sẻ phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc, thành con người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Chúng ta thấy rằng biến cố Phục sinh chỉ được hiểu và đón nhận một cách đầy đủ nhất khi nó được nhìn nhận như là sự hoàn tất của lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa đã loan báo trong suốt thời Cựu Ước. Những chứng từ của Mô-sê, của các Ngôn sứ hay trong truyền thống cầu nguyện của dân Israel (Thánh vịnh) là những nền tảng cần thiết cho những người tin vào Đấng Phục sinh. Chính Đức Giê-su, trong đoạn Phúc Âm hôm nay, đã mở trí cho các môn đệ nhằm giúp các ông hiểu Kinh Thánh và lời của Kinh Thánh chép về Người: “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”.
Trước sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi: tin tưởng và hy vọng vào Chúa Phục Sinh; chấp nhận đau khổ thập giá, để cũng được sống lại với Chúa Phục Sinh; và để cho Chúa Kitô Phục Sinh biến đổi con người chúng ta. Chúa chính là ánh sáng, là tình yêu, là bình an, là niềm vui và là niềm hy vọng của chúng ta. Ước gì tình yêu Chúa Giêsu Phục Sinh thúc đẩy chúng ta phục sinh chính con người chúng ta.
2024
GẶP CHÚA KHI BẺ BÁNH
3.4 Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 3:1-10; Tv 105:1-2,3-4,6-7,8-9; Lc 24:13-35
GẶP CHÚA KHI BẺ BÁNH
Tưởng Chúa Giê-su sẽ làm một cuộc cách mạng vĩ đại, sẽ lật đổ chính phủ và dựng nên một cơ đồ mới cho đất nước, nên có người đã theo người, mong tìm một chỗ vị vọng…ai dè, người bị giết chết cách đau đớn nhục nhã trên thập giá… Hai môn đệ kia thất chí, bỏ mộng công danh, từ quan về vườn.
Hai môn đệ của Chúa Giêsu thất chí, bỏ mộng công danh, tìm về quê nhà cho an phận. Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với họ trong dáng vẻ của một khách bộ hành trên đường về làng Em-maus. Người gặp gỡ, trò chuyện, thăm hỏi, lắng nghe họ, và thấu hiểu tâm tư tình cảm của họ. Họ đang rất đau buồn về cái chết và sự thất bại của người mang tên Giêsu, mà lâu nay họ theo đuổi với mộng công hầu vị vọng. Người dùng Lời Thánh Kinh mà giải thích cho họ. Họ lắng nghe Lời Người.
Hôm nay hai môn đệ tiến về Emmau như những người lính vừa thất trận. Thất trận vì người Thầy mà mình hy vọng theo đuổi đã mấy năm nay lại vừa bị người ta giết chết. Nhưng dù sao họ cũng chưa hoàn toàn tuyệt vọng mà vẫn còn le lói trong mình một chút gì cho tương lai. Họ đi tìm phương kế cho cuộc sống mới.
Vui sướng thay Chúa Phục Sinh đã không để cho họ phải đau khổ thất vọng, Người đã đến và nâng đỡ đúng lúc họ cần thiết ấy. Họ đang bàn tán với nhau về chuyện Chúa Kitô tử nạn và phục sinh. Nhưng Người giả vờ như chưa biết gì về câu chuyện ấy. Chúa hỏi han, cảm thông với những bế tắc lo âu của họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”.
Rồi Chúa dùng Thánh Kinh mà dạy dỗ dẫn dắt họ. Từ chỗ hai người chưa có chút nào về niềm tin Chúa phục sinh như Chúa đã trách họ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Rồi họ đã biết chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Họ có phúc vì đã được chính Chúa Kitô người Thầy có một không hai giảng dạy Thánh Kinh giáo lý cho họ “bắt đầu từ Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Rồi tiếp tục hai ông lại được dự tiệc “bẻ bánh” với Người, bữa tiệc tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Vậy là được gặp Chúa Phục Sinh, lòng các ông đã “bừng cháy lên” và mắt các ông “liền mở ra và họ nhận ra Người”.
Có Chúa Phục Sinh và Thánh Thể Chúa ở cùng, tâm hồn các ông vui tươi hăng say mạnh mẽ. Chẳng có một khó khăn trở ngại nào mà đè bẹp hay cản được bước tiến của các ông. Có Chúa Phục Sinh con mắt tâm hồn các ông đã sáng suốt tinh lanh mà nhận ra Chúa, nhận ra mọi người, nhận ra điều hay lẽ phải cho đời mình. Rồi hai ông cũng có đủ sức mạnh “đứng dậy”, không tháo lui không thất vọng mà “quay trở lại Giêrusalem” để tiếp tục loan truyền Chúa Phục Sinh cho nhân loại.
Chúa Giê-su tử nạn, hai môn đệ Người thất chí, quyết định bỏ mộng công danh, tìm về chốn cũ vườn xưa vui thú điền viên cho qua ngày đoạn tháng. Lòng hai ông nặng buồn. Đường về Emmaus như dài ra mấy nữa… Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra trong dáng vẻ của một khách bộ hành. Người gặp gỡ, cùng bước đi, thăm hỏi, lắng nghe…Người đã thấu cảm nỗi lòng của hai ông về chuyện “theo Thầy tìm chút công danh, mà Thầy tử nạn thôi đành về không”. Người dùng Lời Kinh Thánh giải thích cho hai ông về việc Đấng Ki-tô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang. Các ông chăm chú nghe Lời Người, phấn khích trong lòng, và mời Người ở lại với các ông. Và họ đã nhận ra vị khách cùng đi là Thầy mình đã Phục Sinh, khi Người bẻ bánh.
Lời Chúa là Lời Phục Sinh tâm hồn chúng ta. Thánh Thể Chúa là Thánh Thể Phục Sinh cuộc sống ta. Lời Chúa và Thánh Thể Người luôn đồng hành với chúng ta trong suốt hành trình dương thế và dẫn lối chúng ta vào quê hương vĩnh cửu. Chúa Giê-su đã bước xuống và cùng hiệp hành với các môn đệ mình đang u sầu thất vọng. Người dùng Lời Thánh Kinh mà thắp lên trong lòng họ niềm tin yêu. Người cử hành hy tế bẻ bánh, và chia sẻ với họ, để họ có sức mạnh thần linh mà trở lại nhịp sống bình an hy vọng của Tin Mừng.
Chúa muốn các gia đình yêu mến, lắng nghe, và thực hành Lời Chúa, yêu mến rước lấy Thánh Thể Người, đồng thời, bước xuống với những ai đang đau khổ thất vọng, để chia sẻ cho họ niềm vui Lời Chúa, giúp họ được thông hiệp với ân sủng Thánh Thể, tỏ bày tình Chúa yêu qua lòng thương xót của chúng ta. Nơi nào sống Lời Chúa và Thánh Thể, nơi đó có ơn Phục Sinh.
Vâng, “Bẻ bánh”, là dấu chỉ của Chúa Giêsu, và cũng là dấu chỉ nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc đời này. Nơi nào có bẻ bánh, nghĩa là “có sẻ chia sự sống của mình cho người khác, vì yêu người”, thì nơi ấy có Chúa Giêsu hiện diện.
Gia đình là nơi cụ thể nhất, để có thể “cử hành lễ tạ ơn”, để có thể “bẻ tấm bánh đời mình ra mà nuôi nhau cho được sống, được sống vui, được sống hạnh phúc”. Và hẳn nhiên, không hề có việc “bẻ ra”nào mà không chấp nhận thương tích, đau đớn, mất mát. Nhưng chính sự đau khổ, hy sinh, chịu chết đi cho nhau, vì nhau ấy, là bảo chứng cho việc cả nhà sống lại vinh quang. Đúng như Lời Thánh Kinh mà Chúa Giêsu hôm nay trích dẫn, và Người đã thực hiện: “Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?”.
Cầu mong tất cả mọi gia đình chúng ta biết yêu thương nhau, và cụ thể tình yêu thương ấy bằng việc chết đi cái tôi hẹp hòi ích kỷ, bằng việc hy sinh phục vụ nhau hết mình, hiến thân cho nhau được sống.
2024
GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH
2.4 Thứ Ba trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 2:36-41; Tv 33:4-5,18-19,20,22; Ga 20:11-18
GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH
Tin mừng hôm nay, thánh Gioan mời gọi chúng ta đi vào tâm tình của Maria Mađalêna, người phụ nữ được diễm phúc nhận ra Chúa ngay trong buổi sáng đầu tiên đi viếng mộ.
Sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà Maria Mađalêna cảm nhận được không phải là một sự hiện diện khả giác, nhưng chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể nhận ra Ngài. Ngài muốn để cho ai nhận ra Ngài, và nhận ra khi nào là tùy ý muốn của Ngài, do đó, mầu nhiệm Phục Sinh là đối tượng của niềm tin hơn là những lý chứng. Đây là cảm nghiệm mà Maria Mađalêna có được vào buổi sáng ngày Phục sinh: bà không thấy gì ngoài ngôi mộ trống. Chúa Kitô Phục sinh không xuất hiện như Đấng mà bà đã từng gặp gỡ, mà như một người làm vườn xa lạ, thế nhưng sự hiện diện của Đấng Phục Sinh đã có sứ làm bật ra một lời tuyên xưng đầy xác tín và một niềm vui khôn tả.
Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Kitô Phục Sinh mà bà Maria Mađalêna đã nhận ra dưới hình dạng của một người làm vườn xa lạ, cũng chính là Chúa Kitô Phục Sinh đang đến với chúng ta trong giây phút hiện tại. Ngôi mộ trống bà Manh Mađalêna đã thấy vào buổi sáng Phục Sinh là biểu tượng của biết bao mất mát và trống vắng, mà chúng ta đang trải qua trong cuộc sống mỗi ngày. Cũng như Maria Mađalêna, với cái nhìn hoàn toàn trần tục, chúng ta chỉ nhận thấy những trống vắng, đổ vỡ, mất mát, nhưng dối với đôi mắt dực tin, chúng ta được mời gọi để nhận những dấu chứng hiện diện của chính Đấng Phục Sinh. Người làm vườn vô danh mà Maria Mađalêna đã nhận diện được như chính Thầy chí ái của mình, là hình ảnh của mỗi người chúng ta gặp gỡ từng ngày. Trong mầu nhiệm phục sinh, mỗi tiếp xúc với tha nhân đối với chúng ta cũng phải là một gặp gỡ với Đấng Phục sinh.
Hôm nay chúng ta gặp một phụ nữ đáng thương, Maria Mađalêna, một phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu đến chân thánh giá và giờ đây vẫn còn đau khổ, còn chịu tang. Trong bà là cả một sự vắng bóng của chứng từ.
Chúng ta gặp bà trước tiên bên mộ, sợ hãi, đầy lo âu: “Tôi không biết người ta đặt Ngài ở đâu”. Mặc dù bà đã có mặt vào ngày chôn cất. Hẳn là vẫn còn lại một cái gì của Chúa Kitô chứ.
Qua Kinh Thánh, chúng ta đã biết rằng Chúa Kitô hiện diện trong Giáo hội Ngài, trong cộng đoàn tín hữu, trong từng con người. Nhưng những người đến gặp Ngài thường gặp những ngôi mộ trống. Và họ vẫn ở trong tình trạng nghi nan.
Kế đến, chúng ta thấy rằng Maria Mađalêna được một ai đó gọi ngỏ lời, một người mà cô không biết tên. Cô nhận ra Ngài khi nghe gọi “Maria”.
Chỉ người nào nghe Chúa Giêsu gọi tên mình, chỉ người nào được Ngài chạm đến trong một tương quan cá nhân mới nhận ra được Ngài. Ta không thể trách móc những người rời bỏ Giáo hội và không đi lễ ngày chúa nhật, nếu không ai nối kết với họ một mối tương giao cá nhân. Việc hội họp của những con người vô danh đã giết mất sự hiểu biết về Chúa Kitô.
Sau đó Maria muốn giữ Chúa Giêsu lại. Như nhiều người trong chúng ta cũng muốn giữ Chúa Kitô cho riêng mình, vì chúng ta cần Ngài để xoá tan nỗi buồn trong cuộc sống chúng ta, như một nơi trú ẩn đối với những gian nan, lo lắng. Bao nhiêu người trong chúng ta đã giữ lại Chúa Kitô của mình, không chịu chia sẻ, không chịu nói về Ngài, không bao giờ lên tiếng công bố về Ngài ? Việc chúng ta tham dự phụng vụ Lời Chúa, hay đúng hơn sự dửng dưng của chúng ta thi tham dự, có thể là dấu hiệu của điều chúng ta làm: tôi đã có Chúa Kitô của mình, tôi giữ lấy Ngài.
Cuối cùng, sau khi lột bỏ sự sợ hãi và ý định giữ lấy Ngài cho riêng mình, sau khi trở nên người được gọi tên, sau khi được thôi thúc bởi tiếng gọi cá nhân nơi chiều sâu, Maria ra đi làm chứng.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Ðấng Phục Sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay.
Ðể tin nhận Ngài, con người luôn làm một bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng.
Mỗi chúng ta là một Madalêna mới của hôm nay. Nhờ đức tin, chúng ta đã nắm được Chúa Kitô vững chắc hơn Madalêna nữa. Vậy hãy ra đi vào cuộc sống mà loan truyền sự sống của Chúa cho anh em.