2024
Đấng từ trời mà đến
11.4 Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mùa Phục Sinh
Cv 5:27-33; Tv 34:2,9,17-18,19-20; Ga 3:31-36
Đấng từ trời mà đến
Tin Mừng hôm nay theo thánh Gioan: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người”. Chúa Phục sinh làm tăng thêm lòng tin của con người, khi thân xác trở về với tro bụi thì linh hồn ta vẫn chờ ngày Chúa trở lại phán xét. Thánh Anphongsô từng nói: “Con hãy nhớ, những việc con làm đều có quan hệ đến phần rỗi đời đời. Vì thế, con phải làm hết sức cẩn thận, vì con sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa về các việc con đã làm”. Hay theo Mt16,26 “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì?
Chúa Giêsu khẳng định về mình: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người”. Người đã nói, đã làm chứng về những gì Người đã thấy nơi Thiên Chúa Cha trên trời. Chúa Giêsu chính là Đấng ấy được sai đến trần gian.
Chúa Giêsu cũng dán tiếp chê trách những người Pharisêu và gọi họ là những kẻ “từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất”. Do vậy khi nói những chuyện trên trời họ chẳng hiểu được.
Chúa Giêsu là người duy nhất đầu tiên được nghe, được thấy những chuyện trên trời mà đem nói lại cho nhân loại. Nhưng tiếc rằng người nghe là những Pharisêu thời đó”. “chẳng ai nhận ra lời chứng của Người”.
Chúa Giêsu càng về cuối Chúa càng khẳng định rõ ràng hơn về con người của mình “: Đấng được Thiên Chúa sai đi thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương Người Con và đã giao mọi sự trong tay Người”. Đó là quyền năng ban phát quyền sinh, quyền tử mà chẳng có vị thủ lãnh nào ở trần gian này có được: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời, còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy”.
thánh Gioan trình bày cho chúng ta biết Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa. Đấng rất cao trọng đã từ trời cao mà đến trong thế gian này để mặc khải cũng như làm chứng cho nhân loại biết về những sự ở trên trời mà loài người với trí khôn giới hạn không thể nào hiểu thấu được. Quan trọng nhất: Chúa Giê-su đã khai mở cho nhân loại biết về màu nhiệm một Thiên Chúa, nhưng Ngài có Ba Ngôi. Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Một Thiên Chúa yêu thương nhân loại, muốn cho loài người được sống trong sự che chở cúa Ngài. Chúa Cha yêu thương loài người nên trao ban Chúa Con và mọi sự trong tay Ngài. Vì thế ai tin vào vào Chúa Con thì được sự sống đời đời, còn kẻ nào cố chấp cứng lòng không tin vào Người Con thì không được sự sống và rồi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng phạt trên kẻ ấy.
Trong các nhân vật lịch sử thế giới, từ cổ chí kim, từ đông sang tây chưa có ai ngoài Chúa Giê-su Đấng từ trời cao mà đến đã phán rằng: “Ta là đường, là sự thật, là sự sáng và là sự sống, ai tin ta thì không đi trong tối tăm, mà đi trong ánh sáng mang lại sự sống đời đời.”
Đôi khi chúng ta trách móc người Do Thái khi xưa rằng đã thấy những sự lạ mà Chúa Giê-su đã thực hiện tỏ tường trước mắt họ nhưng họ vẫn cứng lòng không chịu đặt niềm tin nơi Chúa Giê-su. Nhưng nếu ngày nay, cho dẫu chúng ta có tin Chúa, nhưng chỉ tin thôi mà không thực hành những điều Người dạy thì chúng ta còn đáng trách hơn những người Do Thái năm xưa vậy!.
Thiên Chúa đã yêu thương con người như thế, nhưng con người đã đáp lại lời mời gọi của Ngài như thế nào? Nhân loại đã đón nhận lời Ngài cách tích cực chưa? Chúng ta thấy một thực trạng rằng, rất nhiều người vẫn còn phớt lờ lời Hằng Sống ấy.
Đứng trước bao việc Chúa làm, với một tâm trí ngay thẳng, chúng ta phải khiêm nhường nhìn nhận giới hạn của chúng ta rằng: rất nhiều điều trong cuộc sống này, chúng ta vẫn còn chưa biết đến, vì vũ trụ quá bao la, trong khi khả năng hiểu biết của con người thì quá bé nhỏ hẹp. Nếu con người chưa biết hết được những gì xảy ra dưới đất, làm sao có thể thông suốt những sự trên trời?
Ngôn sứ Isaia cũng đã từng tuyên sấm cho dân Ít-ra-en rằng: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu” (Is 55,9). Vì có sự khác biệt lớn lao như thế, nên con người không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều đó không được mặc khải và soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người để họ có thể hiểu những chân lý này. Vì vậy Chúa Giêsu mới nói: “Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”
Sở dĩ với dân chúng xưa, cụ thể là người Do thái từ thời Cựu ước đến nay, họ không tin vào Đức Kitô là vì từ trước tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết, theo lời các ngôn sứ, Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân; nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ không phải bằng khiêm nhường chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa cho họ biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ từ chối không tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở cho họ biết nếu họ chưa thông suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc trên trời.
Trong Bài đọc I hôm nay, các Tông đồ cũng dạy chúng ta rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Trong Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn con người phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy có can đảm chấp nhận và tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi cho người khác.
Mặc dù các ông đã chối từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện ra, các ông đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của Thánh Thần, các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người: Trước tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi người nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”
Tin vào Đức Kitô là sự cần thiết để có được sự sống đời đời. Tuy nhiên, điều quan trọng là biết sống cho niềm tin đó, bằng cách biến đổi cuộc sống theo gương của Chúa Giêsu và thực hành những lời Ngài đã khuyên dạy. Thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô”, nghĩa là khi xác định niềm tin yêu và hy vọng vào Chúa, chúng ta sẽ đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách của cuộc sống, để rồi chúng ta sẽ cảm nhận được tình yêu thương bao la của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
2024
Tái sinh
9.4 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mùa Phục Sinh
Cv 4:32-37; Tv 93:1,1-2,5; Ga 3:7-15
Tái sinh
Hẳn chúng ta đã biết, Nicôđêmô là một người vị vọng trong dân Do thái. Ông kính phục và dành cho Chúa Giêsu nhiều cảm tình tốt đẹp. Ông muốn tìm hiểu thêm về giáo lý của Ngài nhưng vì sợ người Do thái dị nghị, ông không dám tìm gặp Chúa vào ban ngày, nên đã tìm gặp Chúa vào ban đêm. Và trong cuộc trao đổi thân mật ấy, Chúa Giêsu đã đề cập tới sự cần thiết phải lãnh nhận bí tích Rửa tội để được ơn cứu độ. Ngài nói với ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.
Người Kitô hữu được tái sinh bởi nước và Thần Khí qua bí tích Rửa Tội. Nước ân sủng, nước từ trái tim Con Chúa đổ ra tẩy rửa tội nguyên tổ và tội riêng trong quá khứ. Được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong mầu nhiệm vượt qua. Đồng thời tham dự quyền lợi và bổn phận thi hành ba chức năng của Đức Kitô (Ngôn sứ, Tư tế, Vương đế). Còn Thần Khí tiếp tục thánh hóa, thúc đẩy linh hồn sống Chân lý cho thăng hoa đến mức hoàn thiện trong nước trời.
Con người cần phải được “tái sinh bởi ơn trên”. Đó là phải lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Nhưng ở đây còn có những ý nghĩa khác nữa. “Sinh ra lần nữa bởi ơn trên” nghĩa là chúng ta vui mừng đón nhận ơn lành từ phép Rửa Tội như là một nguồn sống mới cho cả nhân loại.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho biết ông Ni-cô-đê-mô – một thủ lãnh của người Do-thái – chọn thời điểm yên tĩnh nhất trong ngày (vào ban đêm ) đến gặp Đức Giê-su để giải quyết nỗi bất an thắc mắc trong lòng ông làm sao để nhìn thấy Nước Thiên Chúa và làm sao có thể vào Nước Thiên Chúa ?
Đức Giê-su đã trả lời ông: “Không ai có thể thấy được Nước Thiên Chúa, nếu không được tái sinh (sinh ra một lần nữa) bởi Ơn trên” và “không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thần Khí”.
Đối với thánh Gio-an Tông đồ theo bản văn Tin Mừng thì được tái sinh do bởi Ơn trên chính là Tin.
Tin là nhìn nhận Đức Giê-su chính là Con và là sứ giả của Chúa Cha (x. Ga. 17,21-25)
Tin là đến với Đức Giê-su và gặp gỡ Người (x. Ga. 6,35-37)
Tin là nhận biết Đức Giê-su và cùng với Người biết Chúa Cha (x. Ga. 10,38; 14,7.20)
Do đó,
Tái sinh bởi Ơn trên là được các dấu lạ khơi động tâm thức bản thân và nhờ lời chứng của Thiên Chúa nâng đỡ cho ai được tái sinh.
Tái sinh bởi Ơn trên là cởi bỏ con người cũ trở thành như trẻ thơ.
Tái sinh bởi Ơn trên là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa hành động, là khước từ tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình.
Đức tin đòi buộc người tín hữu xem việc thực hiện thiên chức ngôn sứ như một sứ mạng cao cả. Đã được Thiên Chúa Ba Ngôi trao ban qua lời dạy của Chúa Giê-su: “anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28. 18-20). Ý thức vai trò của mình trong sứ mạng được trao ban này, thánh Phao-lô đã khẳng khái tuyên bố “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9. 16). Cùng chung hưởng dòng máu thanh tẩy, cùng nếm trải tình yêu vô bờ của mối tình thập giá Chúa Ki-tô
Chúa Giêsu khẳng định với ông Nicôđêmô: Không ai có thể nhìn thấy và vào được Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa nhờ bởi ơn thiêng (x. Ga 3,5-7). Sinh ra một lần nữa, cũng có nghĩa là tái sinh vậy.
Chúa Thánh Thần được sai đến để thánh hóa Giáo hội luôn mãi, để các tín hữu Chúa có thể đến với Chúa Cha qua Ðức Kitô trong Chúa Thánh Thần (x. Ep 2:18). Giáo hội luôn dạy rằng mỗi người chúng ta được thông chia sự sống của Thiên Chúa, khi được nhận lãnh Chúa thánh thần qua bí tích Thánh Tẩy. Chính bí tích Thánh Tẩy cứu thoát mỗi người chúng ta, cho chúng ta sự sống mới nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô (x. 1Pr 3,21).
Chúa Thánh Thần thông ban đức tin, đức cậy, và đức ái; làm cho chúng ta có thể phát triển trong mối quan hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Qua bí tích thánh tẩy, Chúa Thánh Thần đã tái sinh chúng ta. Ngài cho chúng ta một đời sống mới, đời sống thật sự làm con cái Chúa. Từ đó, sự sống của Thiên Chúa bắt đầu đến với cuộc đời của mỗi người, và làm cho chúng ta trở nên “Con của Thiên Chúa” và trở thành “người thừa kế của Ðức Kitô”.
Thế nhưng, để được tái sinh, thì mỗi người cần phải sám hối, và nhận lãnh phép rửa, để được ơn tha tội, và được nhận lãnh ân huệ là Thánh Thần và hoa trái của Ngài đó là: yêu thương, vui vẻ, bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. (x. Cv 2,37-38; Gl 5,22-23).
2024
LỜI XIN VÂNG TRỌN HẢO
8.4 Lễ Truyền Tin
Cv 4:23-31; Tv 2:1-3,4-6,7-9; Ga 3:1-8
LỜI XIN VÂNG TRỌN HẢO
Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ngôi Hai làm người để cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công trình cứu độ đựơc khởi đầu cách âm thầm, giản dị tại một làng quê nghèo, với một thôn nữ bình thường chẳng mấy người biết tới.
Sứ Thần đến Nazareth và cung kính thưa với người nữ ấy rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (Thông điệp: Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phước, Thiên Chúa đã sai Sứ thần Gabriel đến báo tin và thỉnh ý ngài tại làng quê Nazareth.
Sứ thần cung kính bái chào vì thấy Đức Mẹ cao trọng và trong sạch hơn các thiên thần. Tước hiệu “Bà đầy ơn phước”xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ”,vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông.
Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài đáp tiếng “xin vâng” cách tự do và từ đó Đức Mẹ trở nên thầy dạy tuyệt vời cho nhân loại.
Thiên Chúa không chọn lựa cách độc đoán. Ngài tôn trọng tự do của người đựơc chọn. Ngài sai Sứ Thần đến và muốn Đức Mẹ hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nổi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa nhân loại, thực hiện chương trình cứu độ. Giây phút Đức Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân.
Nếu như Nguyên Tổ bị con rắn cám dỗ bằng lờinghi nan, lừa lọc dối trá, gây cuộc nổi loạn, và Adam và Evà đã sa ngã, đau khổ sự chết tràn vào thế gian; thì Sứ thần Gabriel đề nghị một sự tự do ưng thuận. Đức Maria thưa “Xin vâng”, lời ấy đã làm cho Ngôi Hai làm người. Từ đây, nhờ Đức Maria, tin tưởng và vâng phục, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Thái độ “Xin vâng” của Mẹ hoàn toàn khác với Ađam Evà trong câu chuyện vườn địa đàng. Sau khi ăn quả cấm trái lệnh Chúa, Ađam đã đổ lỗi cho Evà, Evà đổ lỗi cho con rắn. Và đó chính là thảm kịch của con người: không ai nhận lỗi, không ai chịu trách nhiệm, không ai có thiện chí nên xã hội mãi chậm tiến, nên hạnh phúc trở thành khó khăn xa vời. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ luôn đảm nhận trách nhiệm và chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23).
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và lòng yêu mến. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao lên tới Thiên Chúa.Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa khó mở nhất. Mở được cả cánh cửa Nước Trời.
Đức Maria đã hiện diện trên núi Calvariô vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Ga19,25) và trong nhà Tiệc Ly vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv1,14), chắc hẳn Mẹ cũng là một chứng nhân ưu tuyển của Chúa Kitô Phục sinh; như vậy là hoàn tất việc tham dự vào hết các giai đoạn chính yếu của mầu nhiệm Vượt qua. Ngoài ra, khi đón tiếp Đức Kitô Phục sinh, Đức Maria là dấu hiệu và điểm chỉ tiên báo cho một nhân loại đang hy vọng vào sự hoàn thành sung mãn của mình với việc kẻ chết được sống lại.
Trong mùa Phục sinh, cộng đoàn Kitô hữu khi hướng về Thân mẫu của Thiên Chúa, đã mời Người hãy vui mừng: “Lạy Nữ Vương Thiên đàng, hãy vui mừng, alleluia!”. Họ nhắc lại niềm vui của Đức Maria vì cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, kéo dài qua lời mời gọi của thiên sứ vào lúc Truyền tin “hãy vui lên”, ngõ hầu Mẹ trở thành “nguyên nhân vui mừng” cho toàn thể nhân loại.
Hãy lắng nghe những lời giáo huấn của Đức Mẹ và hãy noi gương giáo dục của Đức Mẹ để sống tốt lành và thánh thiện hơn.
Với chúng ta hôm nay, sự vâng lời luôn luôn cần thiết: Người dưới vâng lời người trên, con cái vâng lời cha mẹ, học sinh vâng lời thầy cô, vợ chồng lắng nghe nhau… Đó không chỉ là nét đẹp của cuộc sống hằng ngày và để gia đình, xã hội có tôn ti trật tự mà còn là điều kiện để gia đình hạnh phúc và xã hội bình yên. Chúng ta thử hình dung: Nếu trong một gia đình mà con cái không vâng lời cha mẹ, vợ chồng không biết lắng nghe nhau; ở nhà trường, học sinh không vâng lời thầy cô; xã hội không có trên dưới… thì gia đình, nhà trường, xã hội đó sẽ như thế nào? Thực tế cho chúng ta thấy, vì không biết vâng lời cho nên con cái hư hỏng, trò đánh thầy, hỗn loạn nhiều nơi trong xã hội chúng ta đang sống.
Trong lĩnh vực tôn giáo, “Đức Vâng Lời” lại còn quan trọng hơn gấp bội phần. Đức vâng lời được thể hiện qua việc lắng nghe tiếng Chúa. Tiếng Chúa qua Lời Chúa và các giới răn. Thực hành lời Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa một cách trọn vẹn là chúng ta đang giữ nhân đức vâng lời.
Đức vâng lời còn được thể hiện qua việc vâng nghe sự dạy bảo của các vị bề trên coi sóc linh hồn chúng ta. Đó có thể là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục hay cha mẹ anh chị của chúng ta. Đối với các cộng đoàn dòng tu, vâng lời các vị bề trên không chỉ là nhân đức mà còn thực hiện một trong ba lời khấn.
Việc tuân giữ đức vâng lời không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là khi không hiểu ý bề trên (như trường hợp của Đức Mẹ) hay khi sự vâng lời đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh, thậm chí là phải đổ máu (như trường hợp các thánh tử đạo). Vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng luôn và trong mọi hoàn cảnh hãy thưa với Thiên Chúa như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu : “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, nhân loại đã bước sang một trang sử mới là trang sử Cứu Thế. Ngày hôm nay, để viết lên những trang sử đẹp, rất cần nhiều tiếng thưa xin vâng trong gia đình, Giáo Hội và xã hội. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta biết noi gương Mẹ, chấp nhận hy sinh để luôn thưa xin vâng trong những điều đẹp ý Chúa
2024
Những lần hiện ra
6.4 Thứ Bảy trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 4:13-21; Tv 118:1,14-15,16-18,19-21; Mc 16:9-15
Những lần hiện ra
Nhìn lại bài đọc Tin Mừng hôm nay và các tường thuật về những lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Ngài từ cõi chết sống lại sẽ cho chúng ta một điểm đáng lưu ý này là: sau khi sống lại, Ngài không tức khắc đi tìm nhóm môn đệ đang tụ họp và cầu nguyện, nhưng Ngài chỉ hiện ra với từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ, rồi cho họ sứ mạng truyền đạt tin vui đến với nhóm mười một tông đồ.
Khi hiện ra với toàn thể các môn đệ, Ngài lại khiển trách họ: “Tại sao lại cứng lòng tin?” Chúng ta có thể xem điều trên đây như một mô tả niềm tin của mỗi người. Hơn nữa, ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh đến với chúng ta tùy theo mỗi thời điểm và mỗi khung cảnh của cuộc sống. Ánh sáng của Ngài buộc chúng ta phải biết cố gắng tìm kiếm để được nhận lãnh.
Nói như thánh Augustinô: “Chúa dựng nên con, không cần có con cộng tác. Nhưng Chúa không thể cứu chuộc con, nếu không có con cộng tác”. “Có con” không có nghĩa là con hiện diện ở đó như một tảng đá quanh năm tiếp thu ánh sáng, nhưng chẳng sử dụng ánh sáng để rồi chịu cảnh vỡ nát của thời gian. Sự hiện diện của con phải là sự hiện diện của một bông hoa luôn hướng về ánh sáng mặt trời. Vì ánh sáng mặt trời là nguồn sức sống cho cây, đồng thời cũng là dịp cho hoa vươn mình khoe sắc.
Vì thế, ánh sáng vui mừng của Ðức Kitô Phục Sinh trước hết là một đáp ứng cho một tâm hồn tha thiết tìm kiếm Ngài. Maria Madalena và các phụ nữ đến mồ từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, họ đã được Ngài hiện ra trước hết, dù rằng họ chẳng chiếm giữ một vai trò quan trọng nào trong việc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Ðức Kitô Phục Sinh cũng vẫn luôn quan tâm đến tất cả. Ngài chẳng muốn cho một kẻ nào phải hư mất.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay là một tóm kết về những lần hiện ra của Chúa Giêsu khi Ngài sống lại. Thánh Marcô nhấn mạnh đến sự cứng lòng tin của các môn đệ để làm nổi bật chứng từ của Chúa Giêsu hiện ra và mệnh lệnh phải ra đi làm chứng cho Ðấng Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn mãi mãi là một, nhưng khi hiện ra, Ngài luôn đến với hình dạng của một người xa lạ. Với bà Maria Madalena, Ngài hiện ra như một người làm vườn; với hai môn đệ đi về làng Emmaus, Ngài đồng hành như một lữ khách xa lạ; với các môn đệ chài lưới, Ngài xuất hiện như một người mà họ cũng không nhận ra ngay tức khắc.
Niềm tin vào Ðấng Phục Sinh luôn đòi hỏi các môn đệ phải làm một bước nhảy vọt để từ một người xa lạ, nhận ra dung mạo của Thầy mình. Từ hai ngàn năm qua, chứng từ về Ðấng Phục Sinh cũng luôn diễn ra như thế, từ cuộc sống của cộng đồng tín hữu tiên khởi, qua cái chết của các vị tông đồ đến cuộc tử đạo, của không biết bao nhiêu các tín hữu ở mọi thời đại, cuộc sống tin cậy mến ở mọi nơi là một chứng từ sống động và liên lỉ về Ðấng Phục Sinh.
Niềm tin vào Ðấng Phục Sinh và chứng từ về Ngài luôn được diễn tả bằng một cách sống mới trong cộng đồng. Sách Tông Ðồ Công Vụ ghi lại một bức tranh vô cùng sống động về cuộc sống mới trong Ðấng Phục Sinh ấy. Sự bình an được Ðấng ban tặng đã tạo ra một cộng đồng hòa giải, nghĩa là một nhóm tín hữu sống trong hài hòa hiệp nhất và chia sẻ của cải cho nhau.
Nét nổi bật của cộng đồng này không hẳn là nghèo khó, bởi vì trong đó, không ai phải thiếu thốn điều gì, mà chính là tình yêu thương của mọi người. Của cải vật chất, thay vì là đối tượng của sự chiếm hữu ích kỷ và do đó là nguyên nhân của tranh chấp chia rẽ, đã trở thành bí tích của tình bạn và huynh đệ. Tựu trung, mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu tuyên bố khi hiện ra với thánh Tomas “Phúc cho những ai không thấy mà tin” không loại trừ đòi hỏi phải được thấy một cách cụ thể chứng từ về Ðấng Phục Sinh trong Giáo Hội, và chứng từ ấy thiết yếu là chứng từ về tình yêu huynh đệ.
Sự phục sinh của Đức Kitô là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Thánh Phao-lô đã quả quyết với chúng ta: Nếu Đức Kitô không sống lại thì đức tin của anh em ra vô ích, rỗng tuếch, không mục đích, vô giá trị, vô dụng, vì anh em vẫn ở trong tình trạng như cũ.
Chúng ta tuyên dương sự phục sinh của Đức Giêsu vào sáng ngày lễ vượt qua. Nhưng tự đáy lòng, sự khó tin vẫn không bao giờ đẩy xa khỏi chúng ta được. Chúng ta không bao giờ thấy Đấng phục sinh, không biết bóng dáng hình hài Người thế nào. Và chúng ta thường nghĩ rằng nếu chúng ta được may mắn như các tông đồ, thì đức tin của chúng ta sẽ không bao giờ lay chuyển, dù gặp bất cứ thử thách nào.
Tuy nhiên, nếu chúng ta chú ý đến Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rằng đức tin giả thiết đó có nồng nàn bốc cháy như đức tin của các tông đồ. Thánh Mác-cô đã ba lần nhấn mạnh: “Nhưng họ vẫn không tin”, “và các ông vẫn không tin hai người này”, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng”.
Tin Đức Giêsu phục sinh đòi hỏi một điều khác nữa cần thiết hơn điều tai nghe mắt thấy. Đó là cảm nghiệm được sự sống lại và được giải thoát. Điều đó đòi hỏi sống cảm nghiệm tích cực, không giới hạn và cởi mở vô cùng.
Tóm lại, đức tin vào Đức Giêsu phục sinh chỉ phát sinh từ lòng trông cậy riêng đối với tôi, riêng đối với mỗi người. Trông cậy có thể được sống lại cho chính bản thân chúng ta trong sự hợp nhất với Người và duy trì được sự hiện diện sâu xa với Người ngay ở đời này.
Niềm tin Phục sinh đã bén rễ sâu và được thực hiện nơi người tín hữu qua mọi thời đại bằng lời nói, bằng lòng can đảm, đôi khi bằng chính mạng sống mình. Cũng chính niềm tin đó mà thánh Stêphanô đã trở nên chứng nhân đầu tiên và trải qua nhiều thế kỷ mãi cho đến ngày nay các chứng nhân tử đạo vẫn nối tiếp làm chứng nhân cho niềm tin Phục sinh, bất chấp mọi thứ kể cả cái chết. Đó là niềm tin của Giáo hội: Đức Kitô Phục sinh và chúng ta cũng được phục sinh
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ biết khám phá ra sự hiện diện của một Thiên Chúa mà phần đông chúng ta tưởng Ngài đã chết. Ngài vẫn luôn hiện diện với ta dù rằng nhiều lúc con người như hoàn toàn chìm trong bóng tối. Ánh sáng của Ngài vẫn dọi chiếu, nhưng theo một góc độ nào đó buộc chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm nhiều hơn.