2020
Sống theo giáo huấn Tin Mừng
4.9 Thứ Sáu
1Cr 4, 1-5; Lc 5, 33-39
SỐNG THEO GIÁO HUẤN TIN MỪNG
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn để biện minh cho thái độ ấy. Trước hết, Ngài nói đến sự hiện diện của Tân Lang: bao lâu Tân Lang còn đó, thì việc chay tịnh được miễn chuẩn. Trong Cựu Ước, việc giữ chay gắn liền với việc mong đợi Ðấng Cứu Thế. Chay tịnh là thể hiện của lòng mong đợi. Gioan Tẩy giả đã lấy chay tịnh làm qui luật cơ bản cho cuộc sống của ông và của các môn đệ. Như vậy khi miễn chước cho các môn đệ của Ngài khỏi chay tịnh, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, họ không còn phải mong đợi gì nữa; thời cứu thế đã đến, con người không còn phải chay tịnh, trái lại, họ phải vui mừng hoan hỉ.
Dụ ngôn thứ hai Chúa Giêsu đưa ra để giải thích tại sao các môn đệ Ngài không phải giữ chay, đó là hình ảnh chiếc áo mới và rượu mới: Không nên lấy áo cũ mà vá vào áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ. Dĩ nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý bảo rằng cái mới thì đương nhiên tốt hơn cái cũ; Ngài không có ý so sánh cho bằng đưa ra một sự bất tương hợp.
Bài học thật rõ ràng: không nên có thái độ nước đôi hoặc thỏa hiệp, mà phải dứt khoát tận căn. Bài học này được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần khi nêu ra những điều kiện để vào Nước Trời: “Hãy bán tất cả, bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Ta”, “Ai cầm cày mà còn ngó lại sau, thì không xứng với Nước Thiên Chúa”, “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Tựu trung, vì Ngài, con người phải chấp nhận hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống mình.
Hình ảnh đầu tiên mà Chúa Giêsu nói đến là sự hiện diện của Tân Lang: “Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng?”. Khi con người sống trong niềm vui vì có Tân Lang hiện diện thì mọi người có thể sống niềm vui đó một cách trọn vẹn khi chia sẻ với nhau những bữa tiệc mà không phải sống nhiệm nhặt, chay tịnh và người ta có thể vui mừng hoan hỷ cách trọn vẹn.
Cũng vậy, các môn đệ của Ngài lúc này không phải ăn chay, cầu nguyện vì họ đang có Thiên Chúa hiện diện cùng họ, chia sẻ cuộc sống với họ. Kế đến, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh thứ hai là áo mới và rượu mới: “Không ai xé miếng vải áo mới mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, áo mới đã bị xé, mà mảnh vải áo mới lại không ăn hợp với áo cũ. Cũng chẳng ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; chẳng vậy, rượu mới sẽ làm vỡ bầu da, rượu chảy ra và bầu da hư mất.
Nhưng rượu mới phải đổ vào bầu da mới, thì giữ được cả hai”. Hình ảnh này giải thích cho các biệt phái và luật sĩ thấy việc các môn đệ của Chúa Giêsu không phải giữ chay. Như vậy Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải lựa chọn giữa cái cũ là lối sống đạo, những lề thói xưa cũ của người Do thái và những cái mới là những đòi hỏi của Tin Mừng. Khi chúng ta mang đầy những ích kỷ, gian tham vào trong cuộc sống hiện tại của mình thì như chúng ta xé miếng vải mới vá vào áo cũ. Sự không tương thích đó làm cho cuộc sống của ta thêm khập khiễng. Trái lại, chúng ta được mời gọi từ bỏ lối sống cũ đó là những gian tham, ích kỷ để đi trên một con đường mới là canh tân theo các giá trị của Tin Mừng, sống theo Lời Chúa dạy và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Để tránh việc phải đổ rượu mới vào bầu da cũ cũng như việc lấy vải mới mà vá vào áo cũ, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần từ bỏ lối sống cũ, vụ hình thức bên ngoài để có thể đón nhận những mạc khải của Tin Mừng và lời mời gọi sống theo gương của Đức Giêsu, luôn sống cho và sống vì người khác. Chúng ta cũng cần thay đổi cách sống đạo và giữ đạo của chính mình hôm nay.
Giữ đạo không chỉ là việc chăm chỉ đến nhà thờ mỗi ngày mà còn phải là việc không ngừng học hỏi và trau dồi giáo lý, tránh các lạc thuyết sai lạc đức tin làm lung lay đời sống đức tin của mình; đồng thời giúp cho người khác hiểu rõ hơn về giáo lý, giáo dục đức tin cho những người chúng ta có trách nhiệm và loan báo Tin mừng của Chúa cho tha nhân. Chúng ta cũng được mời gọi sống đạo qua việc làm bằng cách sống ngay thẳng, chân chính trong mọi hoàn cảnh, biết mở lòng đón nhận anh chị em mình, chia sẻ giúp đỡ những người đang gặp khó khăn về tinh thần hay vật chất.
Kỷ luật hay cách sống của Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ Ngài khiến nhiều người khó chịu. Ngài và các môn đệ sống theo một lề lối hoàn toàn khác với những tuân giữ của những người Biệt phái và ngay cả với Gioan Tẩy giả: trong khi Gioan Tẩy giả và các người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh trong tuần, thì các môn đệ Chúa Giêsu xem chừng không biết thế nào là chay tịnh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại niềm tin cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Thỏa hiệp vốn là cơn cám dỗ triền miên trong cuộc sống đạo của chúng ta: Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, nhưng lại đeo đuổi những gì nghịch với Tin Mừng; đi theo Chúa Kitô, nhưng lại không muốn sống theo giáo huấn của Ngài; muốn là thành phần của Giáo Hội, nhưng lại chống báng Giáo Hội. Thỏa hiệp để được cả đạo lẫn đời như thế cũng chỉ là đánh mất bản thân mà thôi. Lời sách Khải huyền đáng được chúng ta suy nghĩ: Thà ngươi nguội lạnh hay nóng hẳn đi; nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta mửa ngươi ra khỏi miệng.
2020
Sống thật – sống hiên ngang
3 tháng chín Thứ Năm
Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh
2Cr 4, 1-2. 5-7; Lc 22, 24-30
SỐNG THẬT – SỐNG HIÊN NGANG
Trong lịch sử, ít có người được mang danh Cả, và đáng được danh dự ấy một cách hoàn toàn như thánh Grêgôriô, Giáo Hoàng và Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài sinh tại Rôma. Khoảng năm 540. Là con của một nghị viên danh giá và giầu có, ông Gordianô. Chúng ta không biết gì về thời thơ ấu của ngài, nhưng ít ra là ngài đã phải kinh nghiệm về những hậu quả do những cuộc chiến của vua Gothic với các tướng lãnh của hoàng đế Justinianô, mà chính thức Roma đã bị cướp phá.
Thánh Grêgôriô đã thủ giữ một chức vụ trong xã hội. Năm 573, ngài được đặt làm tổng trấn thành phố. Nhưng ngài luôn nuôi lý tưởng tu trì. Đó là lý do khiến ngài không lập gia đình, và năm 574 ngài đã rút lui khỏi đời sống công cộng để mặc áo tu sĩ.
Ông Gordianô từ trần, thánh Grêgôriô thừa kế gia tài, nhờ thế ngài đã có thể thiết lập 6 tu viện tại Sicily và biến nhà trên đồi Coelia thành tu viện thứ 7 dâng kính thánh Andrê. Tại đây ngài sống như một thầy tu đơn sơ. Có lẽ bộ luật ngài thiết lập chính là luật dòng Bênêdictô. Đây là những năm hạnh phúc nhất mà ngài không bao giờ quên được. Nhưng lại chẳng kéo dài được lâu.
Năm 578, ngài được phong chức phó tế cai quản một trong bảy miền ở Rôma. Năm 579 ngài được gởi đi Constantinople làm đại diện Đức Giáo Hoàng. Ngài mang theo một ít thày dòng và có rộng thì giờ để giảng cho họ về sách Job, những bài giảng được thu góp lại thành cuốn luân lý.
Thánh Grêgôriô làm đại sứ trong khoảng 7 năm. Sau đó trở về Rôma, ngài trở lại tu viện thánh Andrê làm viện trưởng. Năm 590 Pêlagiô II từ trần và thánh Grêgôriô được chọn lên kế vị. Rôma lúc ấy bị một cơn dịch tàn phá. Vị Giáo Hoàng được chọn tổ chức những cuộc hành hương trong thành phố, ngài thấy tổng lãnh thiên thần hiện ra ở một địa điểm nay gọi là Castel Saint Angele, đứng tuốt gươm ra, cơn dịch tự nhiên bị chận lại và dân Rôma chào mừng Đức Giáo Hoàng mới, như người làm phép lạ.
Triều đại Đức Giáo Hoàng Grêgôriô kéo dài trong mười bốn năm, đòi hỏi trọn sức mạnh tinh thần và ý chí lẫn kinh nghiệm quản trị và ngoại giao của ngài. Đế quốc Rôma đang suy sụp. Dầu vậy hoàng đế ở Constantinople chỉ hiện diện tại Ý bởi một phó vương với một triều đình nhỏ, Ravenna có rất ít quyền lực về luân lý và vật chất. Quân đội Lombardô cướp phá bán đảo và Rôma bị chiếm đóng năm 593. Đức Grêgôriô thấy phải lập quân đội để bảo vệ Rôma và đặt điều kiện với quân xâm lược. Mọi việc thuộc đủ mọi phương diện trong quốc gia đang suy đồi đều đổ trên Đức Giáo Hoàng.
Trong khi đó Đức Grêgôriô lo chấn chỉnh Giáo hội. Các địa phận lộn xộn, ngài ấn định lại ranh giới. Các đất đai thuộc Giáo Hoàng được quản trị hữu hiệu. Chính nhà ở của Đức Giáo Hoàng cũng cần phải tái thiết. Nhưng không có gì đáng ghi nhớ hơn trong cách Đức Giáo Hoàng đương đầu với các vấn đề Giáo hội Đông và Tây, là việc ngài nhấn mạnh đến quyền tối thượng của tòa thánh Rôma. Rất tôn trọng quyền của các Giám mục trong các giáo phận, ngài kiên quyết bênh vực nguyên tắc tối thượng của thánh Phêrô. Đối với hoàng đế, ngài rất tôn trọng uy quyền dân chính, nhưng cũng bảo vệ quyền lợi mình và của các dòng trong Giáo Hội.
Thánh Grêgôriô canh tân phụng vụ rất nhiều. Ít nhất là ngài đã đặt các “điểm” hành hương. Dầu qua nhiều lần tranh cãi, nhưng dưới ảnh hưởng của ngài, ngày nay nhạc và nghi lễ Giáo Hội vẫn còn mang danh ngài : nhạc Grêgôriô, nghi lễ Grêgôriô.
Thánh nhân còn là văn sĩ rất phong phú. Ngoài cuốn luân lý ngài còn viết hai cuốn gồm những bài giảng về sách Ezechiel, một cuốn khác về những bài Phúc âm trong ngày, 4 cuốn đối thoại và một cuốn sau tập các phép lạ do các thánh người Ý thực hiện. Cuốn sách chăm lo mục vụ trình bày những điều mà cuộc sống một Giám mục và một Linh mục phải làm. Sau cùng là một sưu tập thư tín.
Thánh Grêgôriô còn được gọi là tông đồ nước Anh. Chính ngài đã muốn đi truyền giáo để cải hóa luơng dân Saxon. Nhưng không đi được, năm 596 ngài đã trao phó nhiệm vụ cho các tu sĩ dòng thánh Andrê do thánh Augustinô Conterbury dẫn đầu.
Thánh Grêgôriô cả qua đời ngày 12 tháng 3 năm 604. Ngài được mai táng trong Đại giáo đường thánh Phêrô. Nấm mộ đầu tiên của ngài mang bản chữ Latinh tóm gọn đời ngài, ngài được gọi là “chánh án của Chúa”. Các chánh án của Rôma đã qua đi.
Chính đế quốc Rôma đang hồi hấp hối nhưng thánh Grêgôriô là điểm nối giữa thời các giáo phụ với thời các Giáo Hoàng, giữa vinh quang của thành Rôma lịch sử với vinh quang của kinh thành Thiên ChúaTin Mừng Thánh Luca miêu tả, hôm nay như thường lệ Chúa Giêsu vào hội đường Do Thái để cầu nguyện và giảng dạy. Não trạng của người Do Thái không chấp nhận hình ảnh về một Đấng Messia như Chúa Giêsu đang khắc họa, một Đấng Messia có nguồn gốc xuất thân từ quê hương của họ. Họ đinh ninh rằng chỉ mình họ là dân riêng của Thiên Chúa, họ không tin nhận ơn cứu độ sẽ dành cho dân ngoại.
Chúa Giêsu lên tiếng giảng giải cho họ bằng một định đề và hai ví dụ minh họa. Ngài nêu định đề trước : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Rồi Ngài lấy hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại đó là bà góa thành bà goá thành Xarépta miền Xiđon và ông Naaman người xứ Xyria. Định đề và hình ảnh minh họa này đã làm cho đám người Do Thái khó chịu. Họ bực tức vì Chúa Giêsu đã khen dân ngoại ngay trước mặt họ, họ cảm nhận như thể dân ngoại đã được Thiên Chúa ưu đãi hơn chính họ. Họ đã phản ứng, và cách họ phản ứng thật đáng cho chúng ta quan tâm : Họ “đầy phẫn nộ”, “lôi Người ra khỏi thành”, “kéo Người lên tận đỉnh núi”, “để xô Người xuống vực”… Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã “băng qua giữa họ mà đi”.
Với Lời Chúa hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra hai thái độ khi giải quyết một vấn đề cần, mà vấn đề ấy đụng đến một sự thật : – Trước hết là thái độ của đám đông : đám đông đã không chân nhận sự thật, lấy phản ứng của số đông để phủ nhận sự thật và tấn công số ít… Sau là thái độ của Chúa Giêsu : Ngài bình tĩnh bước đi, vượt qua dư luận, mạnh mẽ và tự tin khi sống bằng sự thật.
Thái độ thứ nhất là thái độ của đám đông, một điều hiển nhiên thấy được qua bối cảnh của đoạn Tin Mừng này, rằng “số đông không phải là chân lý”. Những người lãnh đạo tầm thường thì lấy số đông để chứng minh chân lý. Chúa Giêsu đã không làm thế, dọc suốt hành trình sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã nhiều lần chứng minh cho mọi người thấy “số đông không phải là chân lý” : Câu chuyện trong Tin Mừng (Mt 21,12) miêu tả, người ta đem mọi thứ vào đền thờ để bán trong dịp lễ, một mình Chúa Giêsu đã đánh đuổi họ ; Dịp khác, trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 8,1-11), khi người ta định ném đá người phụ nữ ngoại tình, một mình Chúa Giêsu bênh vực ; Trước dinh Philatô trong việc xứ án Chúa Giêsu (Ga 18,28-40), một mình Ngài thua thiệt, dùng mạng sống để bảo vệ chân lý toàn vẹn…
Và hôm nay, trước vấn đề Chúa Giêsu trình bày qua định đề : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”, và hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại ; “số đông không hề có chân lý”, họ nổi đóa và tìm cách xô Chúa xuống vực, họ phản ứng theo cảm xúc bên ngoài mà không dựa vào chân lý. Quả là phi lí khi giải quyết vấn đề dựa vào uy thế, phản ứng, và câu trả lời của “số đông”, trong khi “Số đông không phải là chân lý”.
Thái độ thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu, thái độ đáp trả lại đám đông bằng cách “băng qua giữa họ mà đi”. Tin Mừng đã làm cho chúng ta ngạc nhiên, làm sao Chúa Giêsu lại có thể “băng qua giữa họ mà đi” đang khi họ “phẫn nộ”… Chúa Giêsu đã mạnh dạn bước trên dư luận, Ngài không bận tâm phản ứng lại đối phương khi họ đang tức giận. Ngài tự tin vì Ngài giữ bên mình một sự thật toàn vẹn. Ngài không cần phản ứng để bảo vệ sự thật, vì sự thật là chính nó, sự thật tự nó đứng vững và sự thật là toàn vẹn.
Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống. Nếu mỗi chúng ta sống với sự thật, nếu mỗi chúng ta có sự thật trong lòng, chúng ta có thể như Chúa Giêsu, có thể bước qua bất kỳ đám đông nào và băng qua bất cứ phản ứng thắc mắc nào, để hiên ngang bước đi.
2020
Nhìn nhận mọi ơn lành là của Chúa
2.9 Thứ Tư
1Cr 3, 1-9; Lc 4, 38-44
NHÌN NHẬN MỌI ƠN LÀNH LÀ CỦA CHÚA
Tin mừng Luca hôm nay tái hiện lại những phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm tại nhà mẹ vợ ông Si-môn (Phê-rô). Trình thuật kể rằng, sau khi Chúa Giêsu đã rao giảng ở hội đường, thì các Thầy trò dẫn nhau về thăm nhà mẹ vợ ông Si-môn. Khi đến nơi thì thấy bà mẹ vợ ông đang sốt nặng, tức là đang ở trong một tình trạng nguy kịch, không thể làm gì được. Mọi người đang lo lắng, và họ nài xin Chúa Giêsu chữa lành cho bà. Vậy là Chúa Giêsu đã “ra lệnh” cho cơn sốt dứt ngay, và bà trở nên mạnh khỏe để phục vụ mọi người.
Ta thấy Chúa Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simon và ông Anrê, lúc ấy bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng, họ xin người chữa cho bà. Chúa Giêsu tiếp tục làm công việc cứu độ của mình. Bệnh sốt là một bệnh gây tác động rất mạnh đối với người Do Thái xưa: “Thiên Chúa ngăn đe những ai không chịu đem các huấn lệnh của Ngài ra thực hành, là Ngài trút xuống những người ấy nổi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt họ mờ đi, và phải kiệt sức (Lc 26,14-16).
Cơn sốt là một tai ương ngang bằng với sự chết mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ được nó (Kb 3,5). Chúa Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt và cơn sốt rời khỏi bà. Phúc âm theo Thánh Mác-cô thì nói rằng: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và vực bà trỗi dậy”. Cử chỉ ấy, Chúa Giêsu cũng đã làm khi Ngài cứu cô bé con gái ông Giaia đã chết được sống lại “Người cầm lấy tay cô bé…và lập tức cô bé trỗi dậy” (Mc 5,41- 42).
Việc làm của Chúa Giêsu như vậy có ý chỉ về sự Phục Sinh, như Đức Kitô trỗi dậy trong biến cố Phục Sinh. Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng cứu độ, Ngài bày tỏ uy quyền của Thiên Chúa Cha trao ban cho Ngài, bày tỏ một sức mạnh chiến thắng ma quỷ và sự dữ, Ngài giải thoát con người khỏi ma quỷ và sự dữ.
Tuy Chúa không diệt trừ ma quỷ và sự dữ mà chỉ chế ngự mà thôi. Sự dữ và ma quỷ vẫn hoành hành trên trần gian, đe doạ và gây thiệt hại cho con người, nên chúng ta không tránh được sự dữ, nhưng nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô để chúng ta có sức mạnh mà chiến thắng. Nhìn vào cử chỉ Chúa Giêsu khi chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon, Ngài cúi xuống cầm lấy tay bà, một cung cách khiêm tốn, gần gũi và chân thành, thân thương với bệnh nhân, Ngài cũng mang lấy nổi khổ đau của con người và chia sẻ thân phận con người với họ, đụng với vai trò tôi tớ đau khổ của Giavê, đến nhận lấy đau khổ của con người để cứu giúp con người.
Đau khổ phần xác là hình bóng đau khổ phần linh hồn, Chúa chữa trị phần xác, nhưng quan trọng hơn là cứu rỗi phần linh hồn. Bà nhạc ông Simon vừa được bình phục, tức khắc chỗi dậy phục vụ các Ngài, đó là một việc làm tỏ lòng biết ơn cách chân thành thiết thực. Chúa Giêsu không những thi hành sứ mạng cứu độ ở hội đường, mà còn ở các tư gia, ở mọi nơi mọi lúc, trên mọi nẻo đường, nên khi hết ngày Sabát, chiều đến, người ta đem đến với Ngài hết những ai đau ốm, đủ mọi thứ bệnh tật và Ngài đặt tay chữa họ lành tất cả.
Từ sáng sớm, Ngài đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện gặp gỡ Chúa Cha, đó là việc Chúa Giêsu thường làm sau một ngày thi hành sứ vụ, điều này củng gợi lên cho chúng ta cái đêm bi thảm ở vườn cây Dầu, trước khi chịu tử nạn, thấy vắng Chúa Giêsu, ông Simon và các bạn đi tìm Ngài, nhưng Ngài từ chối không trở lại Ca- pha-na-um, vì sứ vụ của Ngài còn phải thực hiện nhiều nơi khác “ vì Thầy đến cốt để làm việc đó”, đồng thời Ngài cũng không muốn trở nên đối tượng của lòng hiệt thành của dân chúng có hại đến sứ mạng ngôn sứ của Ngài.
Bệnh tật phần hồn thì quan trong hơn bệnh tật phần xác, vì nó ảnh hưởng đến vận mạng đời đời của chúng ta, nên khi chúng ta xin Chúa chữa bệnh phần xác thì đừng quên xin Chúa chữa trị các tính mê tật xấu, đam mê xác thịt, tội lỗi của chúng ta, và chúng ta mau mắn trở lại với Chúa, sống con người mới. Chúng ta không những cầu xin cho mình, và phải biết cầu xin cho người khác nữa. Sức mạnh để chúng ta chiến thắng sự dữ và ma quỷ là ở nơi danh Chúa, nên chúng ta cần cầu nguyện luôn, cần gắn bó với Chúa mới đủ sức chống trả với sự dữ, lướt thắng mọi cám dỗ của ma quỷ thế gian và xác thịt, vì chúng luôn luôn hoành hành quấy nhiễu chúng ta.
Ơn Cứu Độ nhờ Tin mừng không phải chỉ dành riêng cho cá nhân, hay chỉ dành cho nhóm thân hữu của chúng ta, nhưng cho tất cả mọi người. Những người trong làng của mẹ vợ ông Phê-rô muốn giữ Đức Giêsu ở lại với họ, bởi họ thấy những phép lạ điềm thiêng mà Đức Giêsu đã làm trên họ, họ muốn sở hữu những ân huệ ấy cho riêng cộng đồng của họ, cho làng của họ thôi.
Con người là vậy, luôn muốn có và khi có thì luôn muốn chiếm hữu cho riêng mình và rất khó cho chia sẻ với ai. Đó là sự cám dỗ của thế tục, của tính người, tính xác thịt. Chúa Giêsu không lên án vì sự ích kỷ hẹp hòi của họ, bởi Ngài biết thân phận con người là thế và Ngài đã nói: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Đây là một bài học lớn cho mỗi người tín hữu chúng ta, chúng ta sống là cùng và sống với người khác, do vậy, Hội Thánh không mời gọi con cái mình sống thánh thiện để lên Thiên Đàng một mình, nhưng lên cùng người khác. Chúa Giêsu đã nói và nêu gương cho chúng ta trong cách sống “Tôi còn loan báo cho những thành khác, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Đến lượt mình, chúng ta cũng không giữ Chúa cho riêng mình, nhưng biết giới thiệu và đem Chúa đến cho người khác, bởi tôi được “tái sinh” là để làm việc đó “giới thiệu Chúa cho người khác”.
Chúng ta phải nhìn nhận mọi ơn lành Chúa ban cho chúng ta, mà khơi dậy lòng biết ơn cách thiết thực bằng việc thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân, qua việc bổn phận hằng ngày và chu toàn công tác tông đồ truyền giáo, tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng, rao giảng ơn cứu độ, chính là rao giảng Nước Thiên Chúa và triều đại của Ngài, để đưa mọi người về với Thiên Chúa.
2020
Niềm tin chiến thắng
Tháng Chín
1.9 Thứ Ba
1Cr 2, 10b-16; Lc 4, 31-37
NIỀM TIN CHIẾN THẮNG
Với trang Tin mừng hôm nay, thánh sử Luca đã đề cập tới quyền năng thần linh của Chúa Giêsu tại Ca-phác-na-um. Chúa Giêsu tỏ quyền năng qua lời giảng dạy, qua các phép lạ, qua việc xua trừ tà thần… để minh chứng rằng: không những Thiên Chúa đang ở với Ngài, mà chính Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là Đấng “Thiên Chúa ở cùng” con người. Vì thế, Ngài dùng quyền năng duy chỉ tìm kiếm cho vinh quang Cha Ngài và hoàn tất ý định của Thiên Chúa Cha mà thôi.
“Ngài xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Galilê”. Thánh sử Luca giới thiệu về địa điểm hoạt động trong một ngày điển hình của Chúa Giêsu tại thành này như tóm lược hoạt động cứu thế của Ngài. Ở đây, chúng ta không thấy thánh sử nhắc đến các môn đệ, vì ông chưa thuật lại việc kêu gọi các đệ tử. “Ngày sa-bát, Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng”, đó là thói quen của Chúa Giêsu khi Ngài đến hội đường trong các dịp lễ hội “Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh”(4,15). “Dân chúng sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Ngài có uy quyền”, không như các kinh sư khác, dân chúng nhận ra quyền năng trong chính lời giảng dạy của Chúa Giêsu, khiến họ xầm xì, bàn tán và ngạc nhiên. Lời nói của Ngài có sức mạnh lạ thường. Lời đầy quyền năng và lời trừ quỷ thần ô uế kế tiếp là một trong những biểu hiện của lời quyền năng ấy. Giáo huấn và chữa lành có liên hệ mật thiết với nhau.
“Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập”. Người Do Thái ưa dùng từ “thần ô uế” nghĩa là xấu xa. Điều đó chỉ rõ sự đối kháng giữa sức mạnh ác thần và sức mạnh Thánh Thần. Ở đây, thánh sử Luca viết về một người bị quỷ ô uế nhập.
Việc chữa lành đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi Ngài giảng dạy dân chúng là thực hiện việc trục xuất quỷ ô uế này, giải thoát con người khỏi sự kiềm chế của sự dữ. Quỷ ô uế la to “Ông Giêsu Nagiaret…. ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?…ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Qua lời này, chúng ta thấy tên quỷ nhận ra người trừ tà là ai và biết rõ sứ vụ của Ngài, nên nó chống cự lại. Nó tự hỏi đã đến giờ thế giới của sự ác, của tối tăm, của ma quỷ sụp đổ chưa ? Chúa Giêsu có đến tiêu diệt nó sớm quá chăng? có trước thời hạn không? Tên quỷ này còn biết danh xưng của Chúa Giêsu “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ở đây không phải là lời tuyên xưng đức tin, nhưng như một lời cám dỗ về địa vị, về thiên tính của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không muốn quỷ nói ra danh xưng đó vì “giờ” của Ngài chưa đến, nên Ngài quát mắng tên quỷ ” Câm đi! ” và ra lệnh ” Hãy xuất khỏi người này!”. Đây là một lời hăm dọa và cũng là lệnh truyền.
Lời Ngài có uy quyền khiến ma quỷ phải tuân lệnh. Quỷ vật người ấy ngã xuống, nhưng không làm hại người bệnh và xuất ra. Quỷ xuất ra cách công khai. Mọi người đều thấy và nhận ra quyền năng trong lời nói của Chúa Giêsu “Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải xuất”. Dân chúng đã nhận ra sức mạnh của Lời phát xuất từ con người Đức Giêsu. Lời chữa lành. Lời xua trừ tà thần. Lời giải phóng con người khỏi sự khống chế của sự dữ. Lời đem lại sự sống. Và họ đồn thổi danh tiếng Ngài ra khắp vùng đó.
Ma quỷ biết Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi sự thiện hảo, đáng yêu mến. Thế nhưng chúng lại không chấp nhận để Thiên Chúa can thiệp vào đời chúng; với một lòng thù hận không thể rút lại, chúng không chấp nhận một mối tương giao nào với Thiên Chúa. Thế mà giờ đây chúng vẫn phải đối mặt với Ngài. Đó chính là nỗi thống khổ cùng cực của ma quỷ, của hoả ngục: muốn hoá thành hư không để khỏi đau khổ mà không thể được. Đó là lý do của tiếng kêu thét: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?”
Con người ngày nay cậy vào trí thông minh, nại đến quyền tự do của mình để can thiệp vào tiến trình sự sống là điều vốn thuộc quyền Thiên Chúa: họ chế tạo ra vũ khí hạch nhân, hoá học giết người hàng loạt; họ cổ võ phá thai, sinh sản vô tính, v.v… Họ không chấp nhận để Thiên Chúa can thiệp vào cuộc đời họ, không chấp nhận thuộc về Ngài qua việc tuân thủ những chuẩn mực luân lý, đạo đức của Ngài.
Trong cuộc sống ngày nay, giữa một xã hội thực dụng và tội lỗi, tà thần lan tràn và len lỏi vào từng ngóc nghách của cuộc sống, tâm hồn của con người. Càng ngày càng có nhiều người tâm thần không ổn định, nội tâm bị cưỡng bức. Họ tìm đến y học, pháp thuật, ma thuật… mà quên đi Đấng có quyền xua trừ ma quỷ và chữa lành nội tâm họ. Họ tìm đến con người để được chữa lành thể xác nhưng lại quên đi một vị thần linh, một vị Thiên Chúa uy quyền, toàn năng trên mọi người, mọi vật, có quyền sinh tử cả xác và hồn. Con người ngày càng bị lệ thuộc, bị khống chế bởi tà thần khác nhau như : danh vọng, địa vị, tiền bạc, hưởng thụ… đến khi không được đáp ứng theo nhu cầu hoặc cuộc sống không có lối thoát, họ tìm cách kết liễu cuộc đời.
Chúa Giêsu cho chúng ta niềm tin vào sự chiến thắng. Sự hiện diện của Ngài làm thần ô uế không thể giấu mặt. Sự thánh thiện của Ngài làm nó phải run sợ cúi đầu. Uy quyền và uy lực nơi Lời quát mắng của Ngài khiến nó phải tháo lui. Hãy để cho Chúa Giêsu thánh thiện có chỗ trong đời chúng ta. Hãy tin vào sức mạnh giải phóng của Lời Ngài. Hãy để Lời Ngài nâng chúng ta dậy và cho chúng ta được tự do. Một người ở trong hội đường hay nhà thờ cũng có thể bị thần ô uế ám. Chúng ta mong Chúa cho ta khả năng trục được sự ô uế ra khỏi đời ta.