2020
Để Chúa lớn lên
24.6.2020 Thứ Tư
Sinh nhật Thánh Gioan
Lc 1, 57-60.80
ĐỂ CHÚA LỚN LÊN
“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa”(Ga 1, 6-7 ; Lc 1, 17).
Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế.
Mỗi người sinh ra, đều được cha mẹ đặt cho một tên gọi. Trong Kinh Thánh, tên gọi các nhân vật lớn thường rất giàu ý nghĩa, tên gọi ấy có khi phản ánh tình trạng của tập thể gia đình, hoặc phản ánh tình trạng của chính cá nhân đương sự, hoặc nói lên số phận hay hoạt động của người mang tên.
Thế nên, cùng với tên gọi là hàm ý một dự phóng cho tương lại, có khi chỉ một ước vọng, đôi khi gợi lên tình cảm lúc sinh ra hoặc tương lai mà cha mẹ thấy được, và thường khi là cả một sứ mạng, sứ mạng đó nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn thực hiện giữa dân Người. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một ví dụ, khi sinh ra được cha mẹ đặt tên theo lời Sứ thần đã loan báo. Danh xưng Gioan có nghĩa là Thiên Chúa biểu lộ tình thương.
Cuộc đời của Thánh Gioan và Chúa Giêsu rất lạ thường: Sự thụ thai của hai con trẻ được báo trước bởi cùng một Thiên Thần Gabriel; Cả hai được sinh ra bởi hai người nữ đáng lẽ không thể có con: bà Elizabeth tuổi đã già trong khi Đức Mẹ khấn trọn đời đồng trinh, không biết đến người nam; Cả hai con trẻ được đặt tên và trao nhiệm vụ từ lúc còn trong lòng mẹ: Gioan/Đấng Tiền Hô và Giêsu/Đấng Cứu Thế (Lc 1, 5 & 1, 26); Cuối đời Thánh Gioan chịu chết vì đức tin và nhiệm vụ của Ông trước khi Chúa Giesu chịu chết vì tội nhân loại chúng ta trên Thánh Giá.
Qua tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau vv..
Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạ lùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó. Điều đáng nói hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng.
Gioan rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ “dọn đường”. Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”, ông tuyên bố như thế (Ga 3, 30). Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa của sứ mạng của một kẻ “dọn đường” và “làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.
Dọn đường để chào đón một nhân vật quan trọng là một hình ảnh quen thuộc. Đường sá thì ghồ ghề khó đi, dân làng được huy động để san bằng những chỗ lồi lõm. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ đi trên những con đường xứ Palestine, mà Ngài còn muốn đến với cõi lòng của mỗi người. Và như thế, công việc dọn đường của Gioan có nghĩa là rao giảng sự hoán cải trong dân để được tha thứ: lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh hoa kết trái thì sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa.
Tin mừng đã mô tả Gioan như một vị tiên tri. Ông được xức dầu một cách thiêng liêng ngay từ trong lòng mẹ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Ông được đầy tràn Thánh Thần và có được những đặc điểm của một vị tiên tri. Và như các vị tiên tri khác, ông có nhiệm vụ rao giảng sự sám hối ăn năn.
Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được… Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không ? Thánh Gioan đã viết: “Sự thật sẽ giải phóng con người”. Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta ? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá ? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Hôm nay mừng kính sinh nhật thánh Gioan, Chúa cũng muốn ta trở nên tiền hô cho Chúa: rao giảng Chúa Giêsu cho người khác, đem Chúa Giêsu cho người khác, và đem người khác đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là mục đích đời ta, Chúa Giêsu cũng là mục đích của người khác. Còn tôi chỉ là người môi giới, là phương tiện Chúa dùng, để đem người khác đến với Chúa chứ không phải đem người ta đến với tôi mà quên Chúa, cũng không phải đem người ta đến với tôi mà xa Chúa.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy nhớ lại ngày sinh nhật của chúng ta. Đó là giây phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất đời. Ngày ấy, cha mẹ, ông bà, cô bác đều mừng vui vì ta được sinh ra đời. Ai cũng muốn nhìn ta, ai cũng mỉm cười với ta, ai cũng muốn bồng ẵm ta… và ai cũng đặt nơi ta một niềm hy vọng: “Trẻ này rồi sẽ nên như thế nào?” Cha mẹ và bà con hy vọng ta sẽ có tương lai xán lạn, hy vọng ta sẽ đem lại danh giá cho gia đình và họ hàng.
2020
Đường vào Nước Trời
23.6.2020 Thứ Ba
Mt 7, 6.12-14
ĐƯỜNG VÀO NƯỚC TRỜI
Cuộc đời là một chuyến đi dài, trên hành trình ấy mỗi người là một lữ khách. Người lữ hành khi bước vào chuyến đi thì đã chọn cho mình một hướng nhất định để đến đích họ muốn. Người lữ hành mang danh Kitô hữu lên đường cho chuyến đi dài và xa ấy từ ngày lãnh Bí tích Rửa tội. Trên hành trình đi có những trạm tiếp sức nhờ các ơn thánh qua các Bí tích chúng ta được lãnh nhận. Như vậy, con đường ta đi là con đường mang tên Giêsu.
Trên con đường đó, “Lời Ngài sẽ là đèn soi cho ta bước, là ánh sáng chỉ đường ta đi” (Tv 119, 110). Nhưng đường Giêsu không thênh thang, không phân thành nhiều len, không có cỏ hoa trang trí. Đường thì chật, cửa vào thì hẹp, đòi hỏi phải bỏ mình và vác lấy thập giá, do đó mà ít người theo đường này. Còn “cửa rộng và lối thênh thang thì dễ đưa ta đến hố diệt vong” (Mt 7, 13), nhưng trớ trêu thay lại có nhiều người thích đi. Được vào Nước Trời hay bị rơi vào hố diệt vong bắt đầu từ chọn lựa hôm nay của chúng ta, và đã lên đường thì sự chọn lựa không còn nằm trong trí tưởng nhưng là qua cách sống, lối sống mà Tin Mừng đòi hỏi.
Cửa hẹp là hình ảnh dùng để diễn tả những khó khăn trước mắt phải cô gắng vượt qua; rồi sau đó mới đạt được kết quả tốt đẹp.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh “cửa hẹp” và “đường chật” (Mt 7, 13-14) trong Tin Mừng hôm nay để dạy các tông đồ cần phải biết từ bỏ những ham muốn, những quyến rũ thoải mái, bất chính của bản thân mình. Thay vào đó là hãy lựa chọn những hy sinh, hãm mình, kiêng khem tiện nghi vật chất, biết từ bỏ ý riêng của bản thân, sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa, chấp nhận chương trình cứu độ bằng khổ nạn thập giá để rồi nhờ cuộc phục sinh của Đức Ki-tô đưa các ông đến sự sống đời đời.
Quả vậy, không ai muốn đưa mình đến sự chết nhưng đều chọn về cõi sống. Ngặt một nỗi đường đến sự sống thì chật hẹp, gồ ghề, bị cản trở bởi ngăn sông cách núi, đòi hỏi từ bỏ nhiều và chỉ có tình yêu dẫn lối. Tình yêu Chúa để nhận ra “chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Ngài sẽ là đường và là người dẫn đường, để khi vấp ngã, lúc mỏi mệt hay phải mang gánh nặng nề, ta được Ngài cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Ngài sẽ kiên nhẫn nâng ta dậy, ấp ủ ta “như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh” (Mt 23, 37).
Tình yêu tha nhân cũng là động lực thúc đẩy ta tiến bước, đó không còn là rào cản bước chân ta. Yêu thương anh em là bước đi trong ánh sáng (1 Ga 2, 10). Một cuộc sống đầy yêu thương và quảng đại để xoa dịu nỗi đau của tha nhân, làm cho họ những gì họ muốn, đồng hành trong từng nhịp bước với họ và nhất là dìu nhau vào Nước Trời.
Con người hôm nay sống giữa một xã hội vật chất tiện nghi, ai cũng thích dễ dãi, tự do, chẳng ai muốn vác lấy khó khăn, kỉ luật, hy sinh. Lắng nghe lời Chúa hôm nay chúng ta ý thức con đường đưa tới sự sống vĩnh cửu là chính Chúa Giêsu. Đường ấy là đường khổ giá đau thương. Bước trên con đường ấy thì “phải đương đầu với sức mạnh”, sức mạnh của danh vọng, lạc thú, tiền tài, hưởng thụ nhưng “ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11, 11).
Con người ngày nay thích an nhàn hưởng thụ hơn là cố gắng hướng thiện, sống thánh; thích thỏa mãn bản năng của thân xác càng nhiều càng tốt; muốn hưởng thụ tiện nghi vật chất tối đa. Chỉ biết tôn thờ thân xác, của cải vật chất và xem thường đời sống tâm linh của chính mình…
Vô hình chung con người trở nên nô lệ cho thân xác, và vật chất; quên mất phẩm giá linh thánh của mình. Quên mất căn tính của mình là con của Đấng Tối Cao, được chung hưởng hạnh phúc, và có bổn phận phụng sự Người trong chân lý.
Con người ta đã quên nhớ con đường bên trong, con đường nội tâm mới thực sự dẫn con người trở về với con người thật của mình. Để dù muốn hay không, cũng phải nhận chân thực tại tự thân: Nhìn lại con người thật của mình với những hệ lụy đúng sai mà nhận ra thiện ác…
Và ta được mời gọi tin tưởng vào tình thương Thiên Chúa và đáp lại lời mời gọi của Ngài, chúng ta cùng tìm cho mình một con đường, một lối đi chật hẹp mang tên Giêsu; và nhanh chân bước theo cách xác tín “vì chúng ta biết chúng ta tin vào ai” (Tm 1,12). Đồng thời cùng mở lòng và đưa dẫn bao người chưa biết tin vào ai, hay còn hoài nghi chưa chịu bước theo đường Giêsu.
Chúa Giêsu dạy rằng: “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế!” (Mt 7, 12) và Người mời gọi: “Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy” (Mt 7, 13-14). Đó là lối sống mà Kitô hữu chúng ta cần phải chọn lựa để sống trong tương quan với Chúa và với tha nhân.
Chúa Giêsu giáo huấn : con đường dễ dãi là con đường dẫn đến hư mất, đó là định luật chung của cuộc sống. “Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường rộng đưa đến diệt vong”. Thái độ hững hờ không thể đi đôi với những đòi hỏi của Tin Mừng; cuộc sống dễ dãi, buông thả không có chỗ đứng trong nếp sống của những người theo Chúa. Ðã một thời cùng ăn, cùng uống, cùng nghe giảng dạy, chưa phải là giấy thông hành để vào Nước Trời: “Ai nghe những lời Ta dạy mà không đem ra thực hành, thì ví được như người ngu xây nhà trên cát”. Nếu viện lý do mình là con dòng cháu giống, cũng chưa phải là lý do để được thâu nhận vào Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết khôn ngoan chọn cho mình một con đường hẹp. Đó là con đường của thập giá, con đường sống vị tha, sống vì tha nhân bằng cả tấm lòng yêu mến chân thành, dù cho sẽ phải gặp nhiều gian truân và đau khổ; đồng thời, chúng ta hãy luôn xác tín rằng, đó là con đường dẫn chúng ta đến niềm vui, hạnh phúc và sự sống đời đời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết khôn ngoan chọn cho mình một con đường hẹp. Đó là con đường của thập giá, con đường sống vị tha, sống vì tha nhân bằng cả tấm lòng yêu mến chân thành.
2020
Đừng đoán xét
22.6.2020 Thứ Hai
Mt 7, 1-5
ĐỪNG ĐOÁN XÉT
Để sống công chính theo Tin Mừng, Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ đừng xét đoán ai. Xét đoán người khác, ta sẽ bị người khác xét đoán lại, đó là lẽ tự nhiên, nhưng ở đây cái hại lớn hơn là ta sẽ bị Thiên Chúa xét đoán. Xét đoán người khác thường gây ra sự bất công. Người ta dễ tin và dễ thấy khuyết điểm của người khác hơn khuyết điểm của mình. Vì lẽ đó, xét đoán người khác một cách sai trái là phạm vào luật bác ái và công bằng. Mỗi người cần tự xét mình, “hãy gỡ cái xà ra khỏi mắt mình, rồi mới lấy cái rác ra khỏi mắt người khác”.
Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Chữ xét đoán ở đây hiểu nghĩa là chỉ trích phê bình đạp đổ, là lên án bất công nhục nhã nghiêm khắc. Những người lên án như thế là nhóm người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu, thường là ra vẻ đạo đức, hay lên án người khác và cho rằng chỉ có mình mới tốt còn mọi anh em khác là tội nhân đáng bị khai trừ. Đó là thái độ lên án và đáng bị lên án trước.
Chúa nói: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán” (c.1) nghĩa là đừng xét đoán vu khống, đừng chụp mũ trong sự bất công, phá đổ anh em mình. Như vậy, Chúa cho xét đoán phê bình để sửa chữa, để thăng tiến, để xây dựng, chứ không phải để đạp đổ. Phê bình với tình yêu để cảm hóa, chứ không xỉ nhục, rồi nhìn họ với cặp mắt khinh thường. Cần và rất cần cho người khác biết rằng họ đang ở trong tình trạng sai lạc với con đường của Chúa. Cần phải thức tỉnh và sửa sai. Chúa dựng nên mỗi người một vẻ khác nhau là để bù đắp xây dựng cho nhau. Phần sửa sai cho nhau để thăng tiến, đó là phần của mọi người. Còn việc lên án là phần của Chúa.
Chúa nói “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán” (c.1). Câu này không có nghĩa là nếu chúng ta không xét đoán ai, thì ngày sau Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta dù chúng ta bê bối cách mấy. Ăn miếng trả miếng là thói thường. Chúng ta cư xử với người làm sao thì người ta đối xử với chúng ta như vậy. Tuy nhiên cách chúng ta đối xử với anh em, cũng được Thiên Chúa thẩm xét vì lý do anh em là con cái Thiên Chúa và Chúa đã từng nói “Ai làm cho một trong anh em hèn mọn, là làm cho chính Ngài” (Mt 25,31tt).
“Chúng ta là những tội nhân” (Đức Thánh Cha Phanxicô), ý thức như thế không những giúp ta tránh thái độ thỏa hiệp với tội lỗi, mà còn ngăn ta khỏi cơn cám dỗ phê phán người khác: tôi có là gì, có đáng gì mà dám lên án người anh em của tôi? Thực tế cho ta kinh nghiệm về những người thực sự đạo đức: họ cẩn trọng khi nói về một người khác. Điều này không đồng nghĩa với việc họ ngây ngô không biết đúng sai, phải trái, nhưng ngược lại, cho thấy sự thận trọng trong suy nghĩ theo gương Đức Giêsu Kitô.
Là con người, chúng ta không tránh khỏi lỗi lầm, nhưng hãy dùng tình người mà nâng đỡ nhau và tin tưởng vào tình thương, ơn biển đổi nơi Thiên Chúa. Hãy dành thời gian bên Giêsu để nhìn lại nội tâm con người mình hầu nhận ra và gỡ bỏ “cây đà” đang án ngữ trong mắt ta, đang che khuất ánh nhìn yêu thương mà Thiên Chúa đặt nơi ta. Hãy khiêm nhường và trao dâng cho Thiên Chúa quyền xét xử người khác.
Trang Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ cho ta về một cố tật của con người: tính thích phê phán, quy tội và lên án người khác.Theo khoa tâm lý học, điều xấu mà ta dễ nhận ra và lên án nơi người khác chính là điều xấu căn cốt mà ta mang trong mình. Chúa Giêsu không dạy ta phải bịt mắt mình lại trước cái xấu, nhưng việc ta cần làm trước tiên là liệu xem “tầm nhìn” của mình có “thông thoáng” không trước khi nhận định một điều gì về người khác.
Chúa Giêsu đã không nói: “Trong mắt bạn ngươi không hề có cái rác như ngươi nói!”. Nhưng Người nói: “Hãy lấy cái đà trong mắt ngươi ra trước đã!”. “Người bạn kia của con có tội của họ, phải, điều đó không sai, nhưng con hãy xem lại mình đi, tội của con còn ngàn lần lớn hơn, nặng hơn tội của họ”.
Ta thấy Chúa Giêsu nói ra lời nào cũng được xem như là một bài học, một huấn dụ có giá trị, vì những điều Ngài nói thường nhắm vào nội tâm con người. Nhờ bản tính Thiên Chúa, nên Ngài có thể nhìn thấu lòng dạ con người. Lý do Chúa Giêsu dạy không nên xét đoán một mặt Ngài muốn giúp các môn đệ không nên xoi mói, bắt bẻ hành động của người khác nhưng biết dành thời gian đi vào thâm sâu cõi lòng mình. Hãy lấy cái xà trong mắt mình trước khi giúp người khác lấy cái rác trong mắt họ.
Hơn nữa, khi một ai đó cho mình có quyền dạy người khác, xét đoán lương tâm người khác là đã tự cho rằng mình đạo đức hơn. Đó là thái độ tự mãn, tự kiêu, trước mặt Thiên Chúa là một tính xấu không nên có. Chúa Giêsu không cấm nhận xét phải trái về hành vi của người khác, nhưng nếu chỉ dựa vào những gì bề ngoài mắt phàm thấy được mà qui kết tội người khác là ta vi phạm thẩm quyền Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có đủ khả năng và thẩm quyền để xét đoán một người là có tội hay không.
Con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải; Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu.
Bình thường, ta thấy ta gieo nhân nào thì gặt quả đó, chúng ta mong nhận được kết quả tốt thì trước tiên phải hành động tốt vì : “Anh em xét đoán thế nào, thì anh em sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (Mt 4, 2). Ngài biết mỗi khi ta phạm sai lầm thì vị luật sư sẽ lên tiếng bao biện hòng che đậy, không muốn để ai biết về lỗi lầm đó, nếu chẳng may bị lộ thì rất mong nhận được sự thông cảm của người khác. Ngược lại, thay vì thông cảm, bỏ qua, chúng ta lại hay để ý đến những sai sót của người khác và thậm chí muốn nói cho nhiều người về lỗi lầm của họ càng nhanh càng tốt.
Trước lời dạy của Chúa Giêsu :“Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?” (Mt 7, 3). Điều này cho thấy, ta rất nhạy bén trước lỗi nhỏ nơi người khác nhưng cái lỗi to trong ta lại không thấy. Thái độ cần có khi đứng trước sai sót của tha nhân là thông cảm và nâng đỡ để họ biết đứng lên và tiếp tục tiến bước. Nhưng còn khôn ngoan hơn nữa, nếu từ vấp ngã của người khác ta biết nhìn lại mình để nhận ra khuyết điểm mà sửa chữa. Nhờ đó ta sẽ được hoàn thiện hơn mỗi ngày. Còn nếu chẳng may vì phận sự mà phải xét xử, hãy rộng lượng và đối xét theo hướng dẫn của Đức Khôn ngoan. Hãy nhớ lời cảnh cáo : “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”
Chúa Giêsu quả quyết: “Anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.” Ta hãy ghi khắc lời dạy này của Chúa, xác tín Chúa sẽ dùng chính cái đấu ta đong với người khác mà áp dụng cho mình. Từ hôm nay, ta hãy dần dần từ bỏ thói xấu này, thay đổi cái nhìn về người khác, để không bị Chúa xét đoán, cũng như để sống công bằng hơn với anh chị em chung quanh ta.
2020
Xin cho Trái Tim ta nên như Trái Tim Mẹ
XIN CHO TA HÃY NÊN GIỐNG TRÁI TIM MẸ
Ta thấy rong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria…
Và rồi việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6,5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).
Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.
Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này.
Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.
Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ”để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ”. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.
Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.
Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Tin Mừng thuật lại rằng năm Chúa Giêsu lên 12 tuổi, Thánh Gia cũng trẩy lễ Vượt Qua như các năm trước. Lễ Vượt Qua kép dài suốt bảy ngày. Ngày cuối cùng, khi mọi người phải ra về, Chúa Giêsu đưa Mẹ vào một cuộc thị kiến chí năng; giác quan Mẹ không còn cảm thấy gì xảy ra chung quanh nữa. Còn Thánh Giuse, Chúa nâng lên chiêm ngắm cao xa, trầm tư mặc tưởng những sự trên trời, cứ tin chắc rằng Chúa Giêsu đi với Mẹ Maria.
Trong khi đó, ở ngay cửa thành, Chúa Giêsu đã rời khỏi cha mẹ mà ở lại, không về. Tại Do Thái thời đó có tục là trong cuộc kính viếng Đền Thờ ấy, lúc ra về, nam giới đi riêng một ngả, và nữ giới cũng đi riêng một ngã; còn trẻ con muốn đi với ai cũng được.
Lúc thôi trầm mặc, không thấy Chúa Giêsu đi với mình, Thánh Giuse nghĩ rằng Chúa đi với Mẹ Maria, vì tin thật rằng Chúa và Mẹ không thể rời nhau được bao giờ. Còn Mẹ, khi ra khỏi thị kiến, không thấy Chúa Giêsu, lại nghĩ rằng Chúa tặng cho Bạn Thánh của mình được cái vui đồng hành, với niềm tin đó, cả hai đều bình thản mà đi suốt một ngày đường, như thánh ký Luca đã thuật lại. Nhưng khi tới nơi đã định gặp nhau trước để qua đêm, Mẹ và Thánh Giuse mới chết lịm vì Chúa chẳng đi với ai cả.
Và như thế thế là lạc mất Chúa rồi. Mẹ và Thánh Cả đau đớn qúa không sao nói được lên lời, ai cũng nhận là tại lỗi mình mà lạc mất Chúa. Đôi Bạn liền trở lại Thành Thánh ngay, hỏi han khắp nơi về Chúa. Không một ai đã gặp Ngài. Mỗi lúc đau đớn một tăng thêm, Mẹ đành hỏi thăm các Thiên Thần hầu cận các vị này trả lời một cách lững lờ không dứt khoát, làm lòng Mẹ càng thêm đoạn trường trăm khúc, nước mắt càng tuôn chảy tran hòa. Mẹ tự hỏi không biết có phải là Vua Arkêlau đã dò ra tung tích Chúa mà bắt giam rồi không; có lúc lại ngờ rằng Chúa đã vào sa mạc thăm Gioan tiền sứ của Ngài rồi. Mẹ nức nở trong lòng, than van những lời ảo não: “Ôi Con là Tình Yêu tha thiết của Mẹ, Mẹ biết tìm Con ở đâu bây giờ? Con lại muốn chia lìa Mẹ để Mẹ chết hay sao? Con hãy cho Mẹ biết phải làm gì để đáng tìm được con đi! Con đi đâu, Mẹ cũng muốn theo đến sống ở đó, dầu là nơi rừng thiên nước độc, dầu là nơi giáo nhọn gươm trần, dầu là chỗ ấy đầy đau thương khốn cực. Lúc con che khuất mắt Mẹ Thần Tính của Con, Mẹ còn được thấy ít là Nhân Tính của Con. Nhưng bây giờ, cả Thần Tính và Nhân Tính của con, Mẹ cũng không thấy. Mẹ chỉ biết sợ hãi khóc than thôi, Con ơi!”.
Ta thấy nỗi đau khổ của Mẹ trong những ngày ấy thật cao vượt hơn hết tất cả những khổ hình các vị tử đạo đã phải chịu. Nhưng một điều lạ lùng là Mẹ không bao giờ Mẹ mất sự bằng an trong tâm hồn, không ngớt ca tụng Thiên Chúa và trông cậy ở Ngài. Sau ba ngày tìm tòi uổng công, không ăn, không ngủ, không cả nghỉ ngơi, Mẹ có ý tưởng đi vào sa mạc tìm Chúa, nhưng các Thiên Thần ngăn cản lại. Mẹ liền định đi Bêlem, nghĩ rằng có thể Chúa Giêsu trở lại thăm nơi sinh hạ. Các Thiên Thần cũng khuyên Mẹ đừng đi thế là Mẹ phải quay về Giêrusalem. Vừa đi vừa hỏi thăm người ta, và tả ra dáng hình dung mạo Con mình.
Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse không hiểu được lời nói mầu nhiệm đó. Có như vậy là vì Mẹ và Thánh Cả đến quá muộn, nên không hiểu được mối liên lạc giữa lời nói ấy với bài dài Chúa nói trước. Ngoài ra, còn vì Mẹ và Thánh Cả được tràn ngập trong hạnh phúc tìm lại được con mình; và sau cùng, vì tấm màn che khuất không cho Mẹ nhìn thấy nội tâm Con Mẹ, nội tâm mà một ít lâu sau mới được tỏ ra. Dầu vậy, khi Mẹ được ở một mình với Chúa, Mẹ đã ẵm hôn Chúa mà nói: “Con của Mẹ, nếu Mẹ đã lạc mất con vì lỗi của Mẹ, xin con tha cho Mẹ. Rồi, xin con từ nay đừng bắt Mẹ phải vắng mặt con nữa”. Chúa Giêsu thoả lòng nhận lời Mẹ xin, và hứa sẽ là Thầy dạy, là Bạn thiết của Mẹ suốt trong thời gian còn lại cho tới khi vâng ý Chúa Cha. Lúc Thánh Gia đã ra khỏi Giêrusalem một quãng xa, nơi cánh đồng vắng vẻ Mẹ mới xấp mình mình xuống xin Chúa ban phép lành cho, vì lúc còn trong thành Mẹ chưa làm việc ấy. Chúa nâng Mẹ dậy cách nhân từ, mà mở tâm hồn ra cho Mẹ xem. Mẹ đã thấy tất cả những gì xảy ra trong suốt ba ngày Chúa vắng mặt và trong cuộc đàm luận với các luật sĩ. Sau một lát nghỉ ngơi, ăn uống chút ít, thánh gia lại lên đường, vừa đi Chúa vừa nói lại cho Mẹ nghe tất cả những gì Chúa đã nói với các luật sĩ, điều mà, Chúa vừa mới cho Mẹ nhìn thấy trong Linh Hồn mình. Chúa và Mẹ, trong cuộc trở về Nagiarét này cũng cải thiện một số lớn tội nhân và chữa lành nhiều người bệnh tật, theo thói quen vẫn có khi đi đường.
Và sau khi trở về nhà, Chúa Giêsu luôn luôn tùng phục Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Thiên Chúa đã ban xuống cho Mẹ Maria nhiều ân sủng đặc biệt, dàn dụa linh hồn Mẹ, tràn sang cả Thánh Giuse, Người Cha Đồng Trinh của Ngôi Lời Nhập Thể, để hai Đấng có đủ khả năng chỉ huy một Người Con cao trọng duy nhất trong loài người. Về phía Mẹ, Mẹ đáp lại sự Chúa tuân phục Mẹ bằng một đức khiêm nhượng, một lòng biết ơn, một sự mau mắn, một niềm tỉ mỉ và một tình yêu mến tế nhị làm Tâm Hồn Chúa phải ngây ngất. Chúa có thể sẽ ban cho Mẹ tràn ngập những khoái vui còn lớn lao hơn nữa, Nếu Chúa chỉ nghe theo có xu hướng lòng yêu vô cùng của mình. Nhưng Chúa lại không muốn sự tràn ngập ấy ngăn cản Mẹ lập đầy những công nghiệp Chúa đã định cho Mẹ, nên Chúa không tỏ cho Mẹ hết mọi thoả nguyện như lòng Chúa mong muốn.
Mẹ Maria dù đau khô nhưng vân vui lòng đón nhận tất cả. Xin Mẹ cho mỗi người chúng ta biết nhìn lên Mẹ để học gương chịu đón nhận những đau khổ như Mẹ để mai ngày được hưởng Nhan Thánh Chúa