2020
Suy niệm Thứ Năm Tuần Thánh trong mùa dịch Covid–19: Những cuộc chia ly nhiều lưu luyến
SUY NIỆM THỨ NĂM TUẦN THÁNH TRONG MÙA DỊCH COVID-19
Những cuộc chia ly nhiều lưu luyến
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Thứ Năm Tuần Thánh là một ngày của chia ly. Đức Giêsu, người Thầy yêu mến của các môn đệ, phải nói lời sau cùng với cả nhóm. Để chuẩn bị cho cuộc chia ly này, Đức Giêsu đã cho người sửa soạn một nơi khá riêng tư và kín đáo, chỉ có các thầy trò. (Lc 22,19). Đó là một phòng ăn rộng rãi ở trên lầu.
Vì tính chất của buổi tối sau cùng ngày hôm ấy, nên phòng này còn được gọi là Nhà Tiệc Ly. Tuy không ở đó, nhưng chúng ta có thể mường tượng được qua lời kể của thánh sử Gioan, người đã ngồi cạnh Đức Giêsu trong bàn tiệc.
Tôi muốn đề cập đến cuộc chia ly ấy, để thấy Thiên Chúa cũng có kinh nghiệm để chia sẻ nỗi đau với con người trong dịch bệnh lần này. Mỗi người chết vì Covid–19 có những cuộc chia ly với gia đình, bạn thân và các y bác sĩ. Có người chết trong cô quạnh chẳng kịp nói lời sau cùng với ai. Có người đang chịu nỗi đau quằn quại vì cơn bệnh đến nỗi không thể nói lời vĩnh biệt. Người thân cũng chẳng thể gặp mặt để tạm biệt lần cuối. Trong muôn vàn cách thế chia ly đó, mẫu số chung là những giọt nước mắt lăn dài trên má! Nỗi đau lòng, bất hạnh, khổ sở và niềm tuyệt vọng của những người còn sống cố tìm kiếm lý do giải thích.
Chúa Giêsu của chúng ta cũng thế. Ngài biết giờ của Ngài sắp đến, giờ phải về với Chúa Cha. Ngài đã chuẩn bị cho giờ này rất lâu rồi. Ngài chuẩn bị cả một di chúc dài để trao cho các môn đệ. Bản di chúc ấy thánh Gioan đã cẩn thận ghi lại (x. Ga chương 13–17). Chúng ta có thể tóm gọn di chúc này trong vài từ chính yếu: phục vụ, tình yêu, bí tích Thánh Thể, Đấng Bảo trợ sẽ đến, Thầy Giêsu sẽ trở lại, v.v.
– Rửa chân và tinh thần phục vụ trong mùa dịch:
Trong mùa dịch, ước sao có nhiều người noi gương Đức Giêsu trong lúc này, cúi xuống phục vụ những ai nhiễm bệnh. Nhớ lại bài chia sẻ hôm ban phép lành ngoại thường cho toàn thế giới, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến cầu nguyện và phục vụ âm thầm. Đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta. Những người đang xả thân phục vụ trong những ngày tháng này là: các bác sĩ, y tá nam nữ, các nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, những người giúp việc gia đình, các nhân viên chuyên chở, các nhân viên công lực, những người thiện nguyện, các linh mục, nữ tu và bao nhiêu người khác. Họ thực sự đang cố gắng chia sẻ nỗi đau với bao người. Họ đang khóc với người khóc!
– Nguồn sức mạnh nơi thánh lễ trực tuyến [online]:
Chúng ta phải tham dự thánh lễ trực tuyến [online] tại nhà. Đó là Bí Tích mà Đức Giêsu đã lập trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Trong điều kiện ấy chúng ta cũng đang phải tạm chia ly với cộng đoàn giáo xứ, với nhà thờ thân yêu. Trong hoàn cảnh ấy, giáo dân và linh mục tin rằng Thiên Chúa cũng đang liên kết mỗi người nơi thánh lễ trực tuyến [online]. Dẫu sao, nhờ phương tiện truyền thông, thánh lễ vẫn có thể trở nên nguồn an ủi với mỗi người trong lúc này.
– Chúa Thánh Thần sẽ đến:
Đó là lời hứa của Đức Giêsu dành cho các môn đệ. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Thánh Thần đã đến với nhân loại trong ngày lễ Ngũ Tuần. Hơn lúc nào hết, chúng ta cũng khẩn xin Ngài soi sáng cho các nhà nghiên cứu sớm tìm ra thuốc chủng ngừa và thuốc chữa trị. Chỉ khi đó người ta mới an tâm như chưa hề có cuộc chia ly. Khi ấy con người không phải khóc thương vì bệnh Covid–19 nữa. Xin Thánh Thần mau đến. Amen.
Tiếc là chúng ta không thể đi vào chi tiết của những lời chia tay ngày hôm ấy. Thực tế cuộc chia ly này diễn ra khá dài, đủ giờ để Đức Giêsu nói với các môn đệ những gì cần thiết. Hằng năm chúng ta cũng được cử hành lại cuộc chia ly này. Khi đó vài lời di chúc của Thầy Giêsu cũng được Giáo Hội nhắc lại. Năm nay vì đại dịch Covid–19, chúng ta ở nhà cùng với nhau tham dự trực tuyến cuộc cử hành này.
Chúng ta chẳng thể liệt kê nổi bao nhiêu cuộc biệt ly trong vội vã của người thân với các bệnh nhân. Khi nhiễm bệnh, họ được đem đi cấp cứu và tuyệt đối cách ly. Phần lớn là những người già cả. Chắc họ cũng có gia đình, con cháu và họ hàng. Khi virus tấn công, chắc không đủ thời gian để họ nói những lời cần thiết với người còn ở lại. Cuộc chia ly như thế luôn đọng lại nhiều nước mắt, hoài niệm và đau lòng cho cả hai bên. Biết sao được khi dịch bệnh đang lan tràn. Người ta chẳng biết khi nào mình phải bị cách ly hoặc nhập viện.
Trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh này, chắc mỗi người dừng lại đôi chút để chiêm ngắm những cuộc chia ly như thế. Chúa cũng đau nỗi đau của con người; Ngài cũng buồn nỗi buồn của nhân loại. Tin Mừng không cho thấy các môn đệ hoặc Thầy Giêsu khóc. Họ có xao xuyến, nghẹn ngào và xúc động. Những dòng cảm xúc ấy đủ cho thấy tâm trạng của mỗi người trong lúc này. Đúng là lời nào buồn hơn phút chia tay! Nhất là chia ly trong vĩnh biệt!
Hãy chia ly trong Chúa
Giáo Hội hiểu việc cử hành Bí Tích Thánh thể không chỉ là để nhớ lại biến cố lịch sử Bữa Tiệc Ly, mà còn hiện tại hóa sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã chịu chết và sống lại. Theo ý nghĩa này, lúc nào chúng ta cũng có cuộc chia ly như thế. Lúc nào Đức Giêsu cũng đang hiến tế chính mình để cứu độ nhân loại. Trong niềm tin, chúng ta tin Đức Giêsu đang ở trong cuộc chia ly của nhiều người. Nơi đó, “giọt nước mắt sẽ nên nụ cười và tiếng hát vang dậy trời cao”.
Cụ Nguyễn Du năm xưa viết rằng: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Năm nay và trong Tuần Thánh này, Đức Giêsu nói với mỗi người: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.” (Ga 16,20).
2020
Học gương Thầy
9.4 Thứ Năm
Ga 13, 1-15
HỌC GƯƠNG THẦY
Tình yêu chính là ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể.
Ngày hôm nay, ta cùng hiệp ý với Chúa Giêsu trong Bữa tiệc Vượt qua theo truyền thống Do thái với các môn đệ. Nhưng trước và sau bữa tiệc ấy, Người thết đãi họ thêm một món ăn và một món uống làm thành Bữa Tiệc Thánh Thể ám chỉ cuộc Vượt qua của Người. Chính Người không ăn bữa tiệc phụ trội ấy, vì người vừa là chủ đãi tiệc vừa là của ăn đem ra thết đãi thực khách; Người vừa là tư tế vừa là của lễ.
Ta nhận ra rằng trình thuật này sẽ được sáng tỏ hơn nếu đặt nó trong tương quan với biến cố vượt qua. Sự giải thoát của chúng ta, sự vượt qua từ cái chết đến sự sống, được đảm bảo nhờ chính cuộc vượt qua mà Đức Kitô đã thực hiện bằng viêc tự hạ mang lấy thập giá: việc tự hạ này được tiên báo trong cử chỉ khiêm tốn phục vụ thay thế các tông đồ.
“Trước lễ Vượt qua”, những chữ đầu tiên này rất quan trọng. Dầu người ta có giải quyết thế nào về vấn đề niên hiệu các ngày sau cùng, của cuộc đời Chúa Giêsu dưới thế này (đối với phúc âm nhất lãm, bữa tiệc ly xem ra trùng hợp với ngày lễ vượt qua của người Do thái, trong khi đó đối với Gioan, bữa tiệc ly xảy ra truóc đó một ngày), hình như chắc Gioan muốn trình bày cho chúng ta nội dung của chương 13-17 trong bối cảnh lễ vượt qua Do thái.
Trong bữa tiệc Vượt qua truyền thống Do Thái, người gia trưởng chủ tọa cuộc lễ, nhưng ông không phải là của lễ. Cả cộng đoàn cùng làm hành động tế tự ấy, vì tất cả đều tham dự vào chức tư tế phổ quát của dân được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến. Trái lại khi thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hành động với tư cách tư tế thượng phẩm, nhưng là một tư tế thượng phẩm độc đáo, vì Người tự hiến tế mình như của lễ để làm lương thực cho các môn đệ trong bữa tiệc hiệp thông của Giao ước mới. Người là tư tế nhưng chỉ là tư tế của Giao ước mới.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã quì gối rửa chân cho các Tông đồ và cũng trong Bữa Tiệc ly Ngài đã thiết lập Bích tích Thánh Thể cũng như loan báo về cái chết của Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ đã có lý khi khước từ Chúa Giêsu rửa chân cho ông vì đây là công việc của tôi tớ trong nhà.
Theo truyền thống Do Thái, trước khi vào bàn ăn tôi tớ trong nhà phải đi rửa chân cho khách. Chúa Giêsu đã muốn thực hiện cử chỉ ấy để thực thi chính điều Ngài đã nói : Con người không đến để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá chuộc nhiều người.
Chiều tiệc ly được thánh Gioan ghi lại tỉ mỉ và gợi hình. Chúa Giêsu làm bảy cử điệu rõ ràng: đứng dậy, cởi áo, lấy khăn, thắt lưng, đổ nước, rửa chân và lau lọt. Khi cởi áo choàng ngoài Chúa Giêsu đã làm cử chỉ của một người nô lệ hay ít ra của một người thợ bắt tay vào việc. Thời đó, phận sự của nô lệ, đặc biệt các nô lệ không phải là người Do thái có nhiệm vụ rửa chân cho khách tới nhà (1 Sm 25, 41).
Đây là một việc làm hoàn toàn tự nguyện của Chúa. Ngay cử chỉ Chúa cởi áo và tự lấy mặc lại (c. 12) làm chúng ta liên tưởng đến những lời Chúa đã nói (Ga 10, 17-18) để nói đến cái chết hoàn toàn tự nguyện và sự sống lại uy quyền của riêng Ngài. Khi Chúa Giêsu vừa làm xong công việc của một nô lệ, thì Chúa muốn nhấn mạnh đến sự bất tương xứng tự nhiên giữa công việc ấy đối với một vì Thiên Chúa (c. 14), là họ thực sự là những môn đệ phục vụ hoàn toàn cho nước Trời, phục vụ cho đến chết, như lời Chúa nói “Tôi tớ không lớn hơn chủ, kẻ được sai không lớn hơn kẻ sai mình” (Mt 10, 14 Lc 6,40. Ga 15, 20). Đấy chúng ta thấy một vì Thiên Chúa thực hiện câu “Ta đến để phục vụ…” (Mt 20, 28). Rất có thể có một ông vua trần thế làm công việc khiêm tốn ấy cho bầy tôi trước khi từ giã rút lui khỏi ngai vàng của mình.
Cử chỉ yêu thương mà Chúa Giêsu đã làm cho các Tông đồ là một quyết tâm sống trọn ý nghĩa yêu thương của Ngài, cũng như người tôi tớ không sống cho mình mà cho người khác. Nhưng Ngài chưa lấy làm đủ, Ngài còn biểu lộ tình yêu qua hình ảnh một miếng bánh trao ban để ở mãi với con người. Bị bẻ ra và tiêu tan, Chúa Giêsu đã sống đến cùng những đòi hỏi của yêu thương.
Thánh Gioan đã tóm gọn cuộc sống Chúa Giêsu qua câu : “Ngài đã yêu các kẻ thuộc về Ngài và đã yêu đến cùng”, nghĩa là sẵn sàng sống chết cho người mình yêu. Tình yêu đến cùng ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện qua cái chết trên Thập giá, và Ngài còn muốn tái diễn hàng ngày dưới hình dạng Bánh và Rượu trong bí tích Thánh Thể. Cũng như tôi tớ chỉ sống và chết cho người khác, chiếc bánh chỉ hiện hữu để được ăn, được hao mòn, được tiêu tán.
Dưới hình thức lương thực, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu của Ngài đối với chúng ta; tiếp nhận Ngài qua Bí tích thánh thể, chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài, ăn uống Ngài, chúng ta cũng được mời gọi nên giống Ngài và san sẻ sự sống của Ngài cho người khác.
Sống và chết cho người khác, nên một với Ngài là thực hiện sứ mệnh của Ngài tức là phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Sứ mệnh phục vụ ấy Chúa Giêsu truyền lại cho chúng ta qua Bí tích Truyền chức. Linh mục là người được ủy thác để lặp lại lời của Chúa Giêsu. “Các con hãy làm việc này, mà nhớ đến Ta”. Làm việc này không những là cử hành Bí tích Thánh Thể để Chúa Giêsu luôn ở mãi giữa nhân loại, mà con chu toàn sứ mệnh phục vụ của Ngài.
Và ta thấy rằng không chỉ riêng linh mục, nhưng tất cả những ai nhờ phép rửa được tháp nhập vào sự sống Đức Kitô, nghĩa là mọi kitô hữu trong lời nói và hành động cũng yêu thương và chết để nhớ đến Ngài. Mỗi cử chỉ và hành vi bác ái đều là một nghĩa cử tưởng nhớ đến Chúa Giêsu, đều là một tiếp tục, hay đúng hơn là một hiến lễ được dâng trên bàn thờ.
Bằng một cử chỉ sống động bày tỏ tâm tình vẫn có nơi Ngài, Ngài bưng một chậu nước cúi mình rửa chân cho các môn đệ. Cảm nghiệm tâm tình của Chúa qua cử chỉ này, thánh Gio-an đã nhận định : “Ngài vẫn thương yêu những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và thương yêu họ đến cùng.” Sau đó Ngài bảo họ phải đối xử với nhau như Ngài đã đối xử với họ.
Ngài dùng chữ điều răn mới trong lời Ngài nói với họ như một lời từ giã. Đó là điều răn mà lãnh tụ Môsê tóm tắt trong luật pháp, nhưng đã được Chúa Giê-su làm mới lại bằng cách ban cho nó một tiêu chuẩn mới, một động lực mới : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu anh em.” Ngài sắp bước vào chuyến đi mà không ai có thể theo được, Ngài phải lên đường một mình, trước khi ra đi, Ngài truyền cho họ một mệnh lệnh là phải yêu mến nhau như Ngài đã yêu mến họ
Bằng dấu hiệu rửa chân lạ thường, Chúa Giêsu đã cho thấy Ngài hoàn toàn phục vụ con người, và phục vụ bằng chính cái chết trên thập giá. Cũng như Ngài đã cởi áo và mặc áo lại để phục vụ họ, Ngài sẽ thí mạng sống và lấy lại mạng sống (10, 18) vì lợi ích của họ. Qua cử chỉ rửa chân Đức Kitô mạc khải cho chúng ta nhân cách sâu xa của Ngài: Ngài là Đấng hiện hữu cho kẻ khác, là Đấng phục vụ hoàn toàn cho anh em đồng loại.
Khi ra lệnh cho các môn đệ “hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc 11, 24-25; Lc 22, 19), Chúa Giêsu muốn rằng cộng đoàn Kitô hữu phải cử hành bữa tiệc Giao ước mới và vĩnh viễn ấy để tưởng niệm cuộc Vượt qua của Người : Người vượt qua cái chết để Phục sinh và về với Chúa Cha (Ga 13, 1).
Qua cái chết tự nguyện và vô tội để đền tội và chết thay cho ta, Người tháo gỡ khỏi ta dây tròng ràng buộc của tội và giải thoát ta khỏi cái chết vĩnh cửu là hậu quả của tội. Khi ta tin vào Người và để cho Người giải hòa ta với Chúa Cha, thì ta được dẫn vào cõi trường sinh bằng cách tham dự vào cuộc Phục sinh của Người. Bữa tiệc Thánh Thể nhằm mục đích tưởng niệm và hiện-đại-hóa cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu. Bởi thế dự tiệc Thánh Thể là thông phần vào mầu nhiệm vượt qua của Người.
“Ta nêu gương cho các ngươi, ngõ hầu như Ta đã làm cho các ngươi. Các ngươi cũng làm như vậy” (c. 15), “Phúc cho các ngươi, nếu các ngươi làm như vậy” (c. 17). Theo gương Chúa Giêsu không phải là làm lại một cách vật chất cử chỉ khiêm nhượng mà Ngài đã làm. Nhưng đúng hơn là luôn qui hướng đến việc hiến mạng sống mình, ý hướng được cụ thể hóa qua việc rửa chân.
2020
Đừng phản bội như Giuđa
8.4 Thứ Tư
Ga 13, 21-32
ĐỪNG PHẢN BỘI NHƯ GIUĐA
Trang Tin Mừng Ga 13,1-32 mở đầu các diễn từ ly biệt, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết ý nghĩa của cuộc Thương khó sắp tới. Mặc dù biết trước những đau khổ và sự dữ phía trước – đặc biệt là cái chết khổ nhục trên thập giá – Chúa Giêsu vẫn tự nguyện bước vào cuộc Thương khó với tư thế chủ động của một Đấng quyền năng. Vì các môn đệ không biết, không hiểu nên Ngài đã tỏ lộ cho các ông ý nghĩa của cuộc Thương khó qua hành động rửa chân.
Đơn giản là khi làm người ở đời, ai chẳng có lúc xao xuyến. Chúa Giêsu hai lần nhắc các môn đệ đừng xao xuyến trước sự ra đi được báo trước của Thầy (Ga 14, 1.27). Nhưng Ngài đã xao xuyến khi thấy người ta khóc thương Ladarô (Ga 11, 33). Ngài cũng đã xao xuyến khi giờ đã đến và cái chết gần kề (Ga 12, 27). Trong bữa tối này, Chúa Giêsu không tránh khỏi xao xuyến khi nói đến sự phản bội sắp đến của một người môn đệ (c. 21). Vậy vấn đề không phải là cố tránh xao xuyến, mà là đừng để nó làm chủ mình.
Thông qua đó cũng biểu lộ cho các ông tình yêu thương “đến cùng” của Chúa Giêsu dành cho nhân loại nói chung và cách riêng là các môn đệ, bởi biết là mình sẽ phải chết cho những người tội lỗi nhưng Ngài vẫn sẵn sàng và tự do để thi hành thánh ý Chúa Cha là hy sinh mạng sống để chuộc tội cho loài người.
Khi Chúa Giêsu cho biết một người trong nhóm các môn đệ sẽ nộp Người thì các ông lại cũng không biết người này là ai (13, 22-24). Ngay cả khi Chúa Giêsu chỉ ra người đó rồi thì các môn đệ lại rơi vào sự không biết khác – đó là các ông không hiểu lời Chúa Giêsu nói với Giuđa: “anh làm gì thì làm mau đi” (13, 27) và họ còn hiểu sai về lời đó.
Ngay cả khi có sự xuất hiện của người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến, thì dù có mối tương quan gần gũi với Người, ông vẫn không hiểu tâm trạng của Thầy mình vào lúc này, mà vẫn hỏi: “Thưa Thầy, ai vậy?” (13, 25). Cuối cùng, các môn đệ không hiểu phản ứng của Giuđa, người thuật chuyện kể: “Không một ai trong những người đang dùng bữa biết tại sao Người lại nói với ông ấy như thế” (13, 28). Một sự xác định rất rõ là “không một ai trong các môn đệ” hiểu những gì đang xảy ra.
Như vậy, bằng cách dùng kĩ thuật hành văn, người thuật chuyện cho thấy “sự không biết” của các môn đệ cứ tăng dần lên và đó cũng là điều để cho thấy các môn đệ đang rơi vào khủng hoảng. Sự khủng hoảng này còn lặp lại nơi cộng đoàn người tin- đặc biệt là khi cộng đoàn gặp thử thách, khó khăn hay bị bách hại.
Nhìn chung, “sự không biết” của các môn đệ trong đoạn Tin Mừng 13,1 -32 là nhằm làm nổi bật “sự biết” của Chúa Giêsu – đây cũng là một trong những đặc điểm nổi bật trong văn chương của Tin Mừng Gioan. Sự tương phản này cho thấy đứng trước biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, không dễ gì người ta có thể hiểu được và vì thế xuất hiện sự khủng hoảng.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã đi bước trước chuẩn bị cho các môn đệ tâm thế đón nhận biến cố, cũng như giúp họ không ngã lòng khi gặp thử thách gian nan. Ngài đã biết trước hết những khó khăn và ngay cả cái chết đang chờ phía trước, nhưng Ngài vẫn tiến bước một cách tự nguyện và hoàn toàn làm chủ tình thế. Ngay hành động rửa chân – một hình ảnh báo trước cái chết và phục sinh của mình, Chúa Giêsu vẫn thực hiện một cách điềm đạm và hoàn toàn tự do.
Chúa Giêsu “đã yêu thương những kẻ thuộc về mình”, và “người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). Để thể hiện tình yêu ấy, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Hành vi rửa chân làm một cử chỉ quen thuộc bên phương Đông thời đó (St 18, 4; Lc7,44).
Đây là một cử chỉ diễn tả lòng hiếu khách và hành động này thường được làm trước khi người ta ngồi vào bữa ăn. Trong Tin Mừng Gioan, hành động rửa chân của Chúa Giêsu là một hành động bất thường vì ở đây cử chỉ rửa chân được thực hiện khi người ta đã ngồi vào bàn để dùng bữa.
Hành động rửa chân của Chúa Giêsu cũng khác thường vì chỉ có những người thấp kém hoặc nô lệ mới phải rửa chân cho chủ Chúa Giêsu đi ngược lại với điều đó, khiến cho Phêrô cảm thấy lúng túng và khăng khăng phản đối vì ông không thể tin được những gì mình đang thấy (Ga 13, 6.8). Sự xuất hiện đột ngột của Phêrô cùng với những thắc mắc của ông là cơ hội để Chúa Giêsu giải thích hành động rửa chân và mặc khải “giờ đã đến”.
Để diễn tả hành động rửa chân của Chúa Giêsu, tác giả Tin Mừng thứ tư đã dùng ba động từ: “cởi”-“ mặc” áo ngoài (13, 4.12) và “thắt lưng” mình (13, 4), hành động này cũng được dùng để mô tả cái chết của Chúa Giêsu và sự tử đạo của Phêrô. Hành vi này biểu tượng cho những gì Chúa Giêsu sẽ làm cho các môn đệ Ngài qua cái chết của Ngài trên thập giá. Như thế, có sự móc nối giữa việc rửa chân của Chúa Giêsu với cái chết của Ngài trên thập giá và sau đó là việc Ngài sống lại.
Dù yêu như vậy nhưng quá đau đớn và không gì đau đớn cho bằng nỗi đau của người Thầy bị trò từ chối, phản bội, thế mà Chúa Giê su Ngài vẫn bình tĩnh, không nao núng , không bỏ cuộc để rồi Ngài bước vào “bàn tiệc ly” với tất cả tình yêu chân thành dành cho các môn đệ mà Ngài hằng luôn yêu qúy. Tin mừng thuật lại: tâm thần Người xao xuyến, Người tuyên bố: “Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Ga 13, 21).
Chúng ta thấy Chúa thật tế nhị và tâm lý, Ngài không nói rõ tên nhưng lại làm dấu hiệu qua cử chỉ trao tấm bánh cho Giuđa và bảo: “Anh làm gì thì làm mau đi”. Thế nhưng Giu đa chẳng để ý gì đến nỗi niềm khát khao của Chúa đang chờ đợi sự hoán cải nơi ông. Ông đã chối từ tình yêu Chúa và lợi dụng chức “quản lý” của mình mà cất bước ra đi trong đêm tối. không một ai nghi ngờ, riêng chỉ có Chúa biết. Nhưng Chúa đành để ông ra đi vì Ngài tôn trọng sự tự do và lựa chọn mù quáng của ông
Trong cuộc sống của chúng ta, không nhiều thì ít, chúng ta cũng có những giây phút phản bội nhau một cách ý thức hay vô tình, chưa chung thủy trong bậc sống của mình, hôn nhân hay tu trì. Chúng ta chưa trung thành trong ơn gọi làm con Chúa giữa lòng Giáo hội.
Trang Tin Mừung hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào tình yêu Chúa, vì “Tình yêu Chúa phủ lấp muôn vàn tội lỗi”, Ngài luôn chờ đợi ta quay bước trở về với Ngài, như người Cha mong chờ con trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” (Lc 15 ,11-32). Ngài hằng sẵn sàng tha thứ cho ta ngay cả khi chúng ta đang phạm tội, chống đối, chối từ hay phản bội Ngài đi nữa. Vấn đề là chúng ta có mở rộng tâm hồn để đón nhận tình yêu và sự tha thứ của Ngài hay không?
2020
Một Tình Yêu Còn Bị Bội Phản
Thứ Ba Tuần Thánh Mùa Coronavirus
Một Tình Yêu Còn Bị Bội Phản
Thật khó tưởng tượng một người như Đức Giêsu lại có những giờ phút xao xuyến như khi Người đứng trước mồ Ladaro (Ga 11,33), lời báo về kẻ phản bội trong bữa tiệc ly ở đây và lúc cầu nguyện trong vườn dầu (x.Lc 22,44)
Đức Giêsu xao xuyến vì đã thấy viễn cảnh Giuđa sẽ nộp Người, Phêrô sẽ chối Thầy và các môn đệ khác sẽ bỏ trốn (x. Mt 26, 56)
Xao xuyến là sự chao đảo của tâm hồn, là sự rung động mãnh liệt của những cảm xúc trước một điều gì quan trọng sắp xảy ra. Sự điềm tĩnh của Đức Giêsu trước mọi biến cố, nghịch cảnh, mọi nỗi đau của con người không phải vì Người vô cảm. Trái lại, Người cũng có một trái tim như chúng ta, cũng bồi hồi, thổn thức và xót thương, cũng lo lắng, âu sầu và xao xuyến (x.Mt 26,37b)
Mang trong mình một trái tim loài người, Đức Giêsu dùng trái tim ấy để yêu thương các môn đệ, với Giuđa, bằng một tình yêu cao cả diệu vợi của Thiên Chúa. Tâm hồn Đức Giêsu xao xuyến vì không thể làm được gì hơn để thay đổi lòng dạ của Giuđa, giữ ông lại trong tình thương của Người, chứ không phải vì thái độ giận dữ, cay đắng bởi Giuđa phản bội.
Giuđa có tự do và với sự tự do ấy, Giuđa quyết định chọn phản bội thày giữa bữa ăn cuối cùng thắm tình đậm nghĩa. Công bố điều kinh khủng, có một người trong nhóm sẽ nộp mình làm Đức Giêsu cảm thấy tâm thần bị chấn động, xao xuyến, các môn đệ khác ngỡ ngàng và bối rối, nhưng Giuđa thì hiểu.
Dù khéo léo che đậy dã tâm trong vở kịch hoàn hảo, Giuđa không thể dấu được sự nhạy bén tinh tế trong ánh mắt yêu thương của Thầy. Nhưng ông đã phớt lờ sự ưu ái ấy.
Sự bi thảm chính là đây, khi Đức Giêsu không tìm cách cứu mình, mà chỉ muốn cứu Giuđa khỏi việc bội phản ông sắp làm. Người thấy ông bình thản ăn hết miếng bánh Người trao như cạn tình tuyệt nghĩa, và Satan nhập vào ông. Ông đi ra, lúc đó trời đã tối.
Đức Giêsu thấy Giuđa lao mình vào trong cảnh tối tăm của đất trời như hòa trộn vào mầu nhiệm sự dữ cùng sự hả hê đắc thắng của Satan. Đó là sự bi thảm nhất của cuộc đời Đức Giêsu, lúc giờ của sự tội, của thế gian, của Satan chụp xuống trên Người, nhưng lạ thay, lúc Giuđa đã đi ra và khổ nạn chắc chắn sẽ đến, Đức Giêsu lại thấy đó là Giờ mà Người được tôn vinh, và Chúa Cha cũng được tôn vinh nơi Người.
Vì thế, Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó trong tư thế chủ động của một Người Con hoàn toàn vâng lời và phó mình trong tay Chúa Cha. Các môn đệ sẽ thấy con đường Thầy đi, thấy điểm cuối con đường ấy, nhưng nơi Người đến, bây giờ họ không thể đến được.
Phêrô khẳng khái muốn đi theo Thầy dù phải bỏ mạng, nhưng Đức Giêsu trong tình thương mến, cho ông biết về con người thật của ông: ý chí thì mạnh mẽ nhưng hành vi lại yếu hèn. Dù vậy, Người vẫn quý mến bản chất trung thực và lòng mến của ông đối với Người.
Báo trước sự vấp ngã của Phêrô, Đức Giêsu không có ý làm tổn thương ông, nhưng cho thấy không những Người biết rõ về ông, mà còn biết rõ con người ông sẽ trở thành.
Chưa bao giờ người Kitô hữu có kinh nghiệm về sự bấp bênh của sự sống mình vào thời điểm đại dịch coronavirus này. Đây là thời điểm để chúng ta thấy những thứ an toàn giả tạo trước đây chúng ta đeo đuổi, tìm kiếm tan rã, ngay cả việc thờ phượng bàm víu vào hình thức, vụ luật và khoe khoang, cả sự ngoan cố cứng lòng chối từ thập giá bước theo Chúa Kitô.
Hôm nay, không có nhiều chọn lựa, mọi người đều “bình đẳng”, mọi sự đều “như nhau”, không thánh lễ, không các bí tích, chỉ còn kinh nguyện đượm thấm tình yêu mến chứng tỏ chúng ta là ai, tình yêu chúng ta dành cho ai? và Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người là gì đối với mỗi người ?
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR