2020
Lòng nhân
17/07/2020
Thứ Sáu Tuần XV Mùa Thường Niên
Mt 12, 1-8
LÒNG NHÂN
Tin Mừng hôm nay nằm trong phần đầu của chương 12. Một chương nói nhiều về luật ngày Sabát : không được làm việc trong ngày sabát, ngay cả khi đó là một công việc tốt cho tha nhân. Kế đó, Chúa Giêsu cũng tỏ lộ Người là tôi trung của Thiên Chúa qua việc tiên báo dấu lạ ngôn sứ Giôna. Nhưng người pharisiêu cho rằng Chúa Giêsu dùng quyền lực ma quỷ khi Người xua trừ thần dữ.
Chúa Giêsu kết luận : nếu tư tưởng và trong thâm sâu cõi lòng con người chứa đầy sự xấu xa, thì ắt sẽ tràn ra bờ môi, thể hiện trong lời nói và hành động. Cuối chương 12, Chúa Giêsu khẳng định : Ai thi hành ý Chúa Cha, người đó sẽ thuộc về gia đình Chúa Giêsu, thuộc dòng dõi Thiên Chúa… Nhưng ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ một khía cạnh khác ngoài cụm từ “ ngày sabát” nổi cộm ở trên, đó là lòng nhân của Thiên Chúa.
Mở đầu trang bài Tin Mừng chỉ vỏn vẹn trong một câu mà thánh sử đã giới thiệu về: thời điểm “ngày sabát”, về các nhân vật “Chúa Giêsu và các môn đệ”, về địa thế “một cánh đồng lúa” và sự kiện “đói, bứt lúa ăn”. Cùng một vấn đề mà Chúa Giêsu và người Pharisiêu có những quan điểm đối nghịch. Người Pharisiêu nói với Chúa Giêsu “ các môn đệ của ông đã làm điều không được phép”, nghĩa là: các ông ấy đã vi phạm luật; phần ông là thầy của họ, ông đã không dạy đồ đệ của mình giữ luật cho thật tốt. Họ kể cho Chúa Giêsu nghe lỗi của các môn đệ nhưng đồng thời muốn “dằn mặt” ông thầy về việc tuân giữ luật lệ tổ tiên.
Vào lúc này, Chúa Giêsu mới mở tâm trí cho họ hiểu ý nghĩa những điều đã viết trong Sách Thánh, sách mà họ đọc hàng ngày, sách mà họ đeo nơi tua áo, mang vác trên người “các ông chưa đọc trong sách sao? Ông Đavít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng?”. Chúa Giêsu đã dẫn chứng một trường hợp cụ thể, rất gần với hiện trạng đói bụng của các môn đệ. Người nói : “Đavít vào nhà Thiên Chúa và cùng thuộc hạ ăn bánh tiến, thứ bánh chỉ dành riêng cho tư tế mà thôi”.
Thật thế, do lòng nhân từ của Thiên Chúa, Ngài không thể chịu được nỗi khốn cùng của kẻ Ngài tuyển chọn. Họ ăn bánh tiến, họ đã bứt lúa, chỉ vì… họ đói. Ở đây, Chúa Giêsu thể hiện gương mặt Thiên Chúa nhân từ, Người muốn trở nên giống anh em mình trong mọi sự, để cảm nghiệm sự khốn cùng của kẻ mà Người cứu vớt. Vì thế, lời nói và dẫn chứng của Người cũng là cách phô diễn lòng nhân từ của Thiên Chúa, mà đối tượng Chúa ưu đãi luôn là người nghèo. Như thế, tình thương Chúa lan tràn và bao trùm mọi người, không phân biệt, không loại trừ và ơn cứu độ tuôn đổ dồi dào trên khắp mặt đất.
Ở câu 5, Chúa Giêsu còn dẫn chứng rằng “ Trong ngày sabát, các tư tế trong đền thờ vi phạm luật mà không mắc tội”. Người tỏ lộ quyền năng của một vị Thiên Chúa “ở đây còn lớn hơn Đền Thờ và Người làm chủ ngày sabát, làm chủ luật lệ…”. Nếu Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là chỗ con người tụ họp thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa; còn luật lệ là kim chỉ nam hướng dẫn con người tôn thờ Thiên Chúa cho tốt, biết cách đối xử với nhau bằng tình yêu… thì cớ gì Đền Thờ là nơi chúng ta bị “bắt lỗi” hay bị trừng phạt ? Còn luật lệ lại trở thành sợi dây ích kỷ trói buộc tình yêu tha nhân, biến con người trở nên những cỗ máy vô cảm trước sự đói khổ của anh em đồng loại? Chúa Giêsu nhấn mạnh cho họ điều cốt lõi của luật, đó là: Thiên Chúa muốn lòng nhân, chứ không cần lễ tế.
Vua Đavít đã cảm nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa qua thánh vịnh 50: “Lạy Thiên Chúa, Xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, Mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm..” và thánh vương đã xin được “rơi vào tay Giavê còn hơn là vào tay con người, vì Giavê có lòng nhân từ vĩ đại..” (2 Sm 24, 14). Phải, điều Thiên Chúa muốn chính là người ta phải vâng giữ giới luật “tình yêu huynh đệ” hơn cả hy lễ toàn thiêu và lễ xá tội (Hs 4, 2) và khi thực hành đức công chính, là ta hoàn tất bằng một tình yêu âu yếm (Mk 6, 8).
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy việc Chúa Giêsu vạch trần sự giả hình của họ, ngày Sa-bát mọi người đến nghe Lời Chúa thì họ đến với ý đồ xấu nhằm để hại người. Giống như câu chuyện trên, Rabi kia không dám cứu con ngựa của mình lên vì sợ phạm luật nhưng lại dễ dàng giết người để cướp ngựa… Luật đối với họ sẵn sàng ném đá chết một người lượm củi nấu ăn, không dám đi đường cấm dù cấp bách liên quan đến sự sống cần cấp cứu. Họ coi việc giữ những điều lặt vặt hơn là mạng sống của một con người.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và Ngài cũng đòi hỏi con người cần có lòng thương cảm lẫn nhau “anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Đó cũng là điều kiện cần thiết để vào Nước Trời. Tình thương ấy như người Samaritano tốt lành, đến gần và giúp đỡ người khốn khổ, dù không quen biết (Lc 10, 30-37); tình thương ấy là tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình (Mt 18, 23-35), chỉ vì tôi được Thiên Chúa thương xót và tình yêu của Thiên Chúa chỉ có nơi những người thực thi Lòng thương xót (1Ga 3, 17)
2020
Hiền lành và khiêm nhường
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Camêlô được coi như ngọn núi thánh. Hơn 700 năm trước khi Chúa Giêsu ra đời, Elia đã lên núi này để bảo vệ niềm tin của mình trong cơn bách hại, cũng như đã đào tạo những tâm hồn trung thành với Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu ra đời, nhiệt tình của Elia như vẫn còn cháy trong lòng các người khắc kỷ (Esseniô). Người ta nói rằng ngày lễ hiện xuống, những người này nhờ lời rao giảng và phép rửa của thánh Gioan Tẩy giả đã hợp lực với các tông đồ để truyền bá Tin Mừng.
Camêlô khi ấy vẫn còn là nơi tụ họp những tâm hồn muốn hiến thân cho Thiên Chúa. Camêlô lại chỉ cách Nazareth chừng một ngày đường, nên những người họp thành cộng đoàn ở núi này hướng về Mẹ Maria như mẫu gương sống và như nguồn ơn phù trợ. Thời thập tự quân, Camêlô là nơi đón tiếp nhiều vị ẩn tu. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ XII, Đức Thượng phụ Giáo chủ Albertô thành Giêrusalem đã qui tụ tất cả thành một nhà dòng, ban hành cho họ một qui luật được Đức giáo hoàng chuẩn y năm 1226. Cũng năm ấy, Đức Giáo hoàng cho phép mừng trọng thể trong dòng lễ Đức Bà Camêlô.
Khi lên làm bề trên nhà dòng, thánh Simon Stock đã tha thiết xin Đức Mẹ một dấu chỉ tỏ lòng săn sóc ưu ái của Mẹ đối với nhà dòng. Sau nhiều lời cầu nguyện lâu dài, ngày 16 tháng 7 năm 1251, Đức Mẹ đã hiện ra trao cho thánh nhân bộ áo dòng mà nói:
“Hãy nhận lấy bộ áo dòng này Mẹ ban cho dòng và cho tu sĩ như dấu chỉ của lòng ưu ái và sự săn sóc Mẹ dành cho các con. Đây là dấu hiệu cứu rỗi. Giải thoát mọi hiểm nguy. Ai chết mà mang biểu hiện bình an này, sẽ khỏi bị lửa thiêu đời dời và Mẹ sẽ cứu họ khỏi lửa luyện tội vào ngày thứ bảy sau khi họ qua đời”.
Trước khi cử chỉ ưu ái này, không biết bao nhiêu người mọi thời đã xin lãnh “áo Đức bà” để được sống dưới sự chở che của Đức Mẹ. Người ta hướng về Đức Mẹ núi Camêlô như hướng về nguồn ơn phúc để tạ ơn. Vì thế lễ mừng Đức Trinh Nữ Maria núi Camêlô ngày càng lan rộng tới các nước có vua công giáo ngày 21 tháng 11 năm 1674 và năm sau tới các nước vương quốc Áo, Bồ Đào Nha mừng từ năm 1679, các nước thuộc quyền Đức giáo hoàng mừng năm 1725.
Đức giáo hoàng Bênêdictô XIII phổ biến lễ này trong toàn Giáo hội do sắc lệnh ban hành ngày 24 tháng 9 năm 1726. Ngày 15 tháng 5 năm 1892, Đức giáo hoàng Lêo XIII đã ban đặc ân “Portiuncula” (ơn đại xá cho ai viếng nhà thờ) trong lễ này.
Trở về với Tin Mừng, ta thấy nNhững kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó. Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây, Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho; hay nói theo một bản dịch Kinh Thánh khác: để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng. Gánh nặng nào? Ðó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông thái chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng đặt lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người Biệt Phái.
“Tất cả những ai đang vất vả làm việc và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” Đây là một lời mời gọi cho tất cả mọi người, vì không ai có thể tránh được đau khổ: phần hồn cũng như phần xác. Khi con người làm việc mệt nhọc, con người cần được nghỉ ngơi và bồi dưỡng sức khỏe; Chúa Giêsu hứa sẽ cung cấp sự nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe cho con người. Những điều Chúa Giêsu giúp chúng ta là BT Giao Hòa và Thánh Thể, Lời Chúa, và các ơn lành hồn xác. Ngài đã mang lấy các bệnh tật của con người và chữa lành mọi vết thương hồn xác.
Tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn quả tim để thông cảm nữa. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người Biệt Phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài.
Ðây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng đối với Chúa Giêsu, những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ ủi an, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Bài học hiền hậu: Đây là mối phúc thứ hai trong Bát Phúc, chỉ sau bài học khó nghèo. Nếu con người muốn có sự bình an thực sự trong tâm hồn, họ phải học cho được bài học hiền hậu này. Theo gương Đức Kitô, người hiền hậu không dễ dàng nóng nảy với tha nhân, ngay cả với kẻ thù. Trong chương 5 của Tin Mừng Matthew, Chúa dạy các môn đệ phải tha thứ, làm ơn, và cầu nguyện cho những ai ngược đãi mình. Ai cũng biết sự nóng nảy và tức giận gây đau khổ và thiệt hại thế nào cho thân thể; hơn nữa, nếu một trong hai bên không thỏa thuận làm lành, thù hận có thể đưa tới cái chết của một trong hai người, và gây nhiều thiệt hại cho cả hai gia đình.
Bài học khiêm nhường: Có thể nói đa số các đau khổ của con người là hậu quả của tính tự kiêu tự đại, không chịu biết mình. Tục ngữ Việt-nam có câu “trèo cao té đau.” Nếu con người chịu bằng lòng với số phận cứ ở dưới đất, đừng leo lên cây, làm sao có thể té được? Dĩ nhiên Chúa không dạy chúng ta bạc nhược, hay không có tinh thần cầu tiến; nhưng điều quan trọng là chúng ta phải biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Đừng bao giờ theo thời để rồi ganh đua sát ván, người ta sống làm sao mình phải được như vậy hay hơn người. Một cuộc chạy đua như thế sẽ làm chúng ta mệt mỏi và đau khổ xảy ra khi chúng ta không đạt được điều chúng ta mong ước.
Người Kitô hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hằng ngày họ được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó, sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm vui và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Mỗi người tín hữu chúng ta cũng cần ngẫm nhìn Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến thế gian, ở giữa loài người chúng ta để làm theo ý Thiên Chúa Cha. Chúng ta ngẫm nhìn Người để biết, hiểu, yêu và noi gương Người. Người: “hiền hậu và khiêm nhường”. nhờ ơn Người, chúng ta được trở nên giống Người; một “Kitô khác”, có đủ nghị lực sống theo ý Người trên những bước đi êm ái, nhẹ nhàng. Đi về trong hạnh phúc của Người.
2020
Trở nên bé mọn
15.7 Thứ Tư
Mt 11, 25-27
TRỞ NÊN BÉ MỌN
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.
Trẻ con không cần biết cha mẹ giàu hay nghèo, chỉ biết có cha mẹ là đủ. Dù có bom đạn, dù có đói rách hiểm nguy, miễn là có cha mẹ, trẻ ngủ thiếp đi bằng an. Nó nương náu nơi tình yêu hầu như toàn năng của cha mẹ. Con hãy phó thác như vậy! (Đường Hy Vọng, 721).
Chúa Giêsu đã trở nên bé mọn ở giữa chúng ta trong mầu nhiệm Giáng Sinh, trong mầu nhiệm Thánh Thể và trong mầu nhiệm Thương Khó; và Chúa Cha nói về Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người”.
Những người bé mọn được Chúa Cha mạc khải mầu nhiệm Nước Trời là chính các môn đệ. Và khi chúng ta biết khiêm tốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ là? những kẻ bé mọn? được Chúa Cha yêu mến.
Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn”.
Theo quan niệm của Do Thái, người khôn ngoan thông thái ở đây là những kinh sư kiêu căng tự cho mình là công chính, có nhiều kiến thức và am hiểu sách Luật. Họ như chiếc bình đóng kín nên không thể đổ thêm điều gì nữa.
Còn người bé mọn là ai? Họ chính là những người “vô danh tiểu tốt”, tầm thường không được ai biết đến. Họ là những bà góa không ai bảo vệ, những trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người thất học, bệnh tật bị xã hội bỏ rơi. Những người nghèo thường có thái độ đơn sơ khiêm tốn biết mình còn thiếu thốn, họ sẵn sàng mở lòng ra để lắng nghe tiếng Chúa. Họ như mảnh đất khô mong đợi những cơn mưa mùa hạ.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu là vị thánh trổi vượt về tinh thần đơn sơ phó thác. Thánh nữ luôn tin tưởng tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và đã xác tín rằng: “Tất cả những gì Thiên Chúa ban cho con, con đều ưa thích, ngay cả những sự xem ra không tốt lành và không đẹp đẽ bằng những điều Chúa ban cho người khác”.
Người bé mọn là người nhận thức được những giới hạn của chính mình trước ân huệ cao quý đến từ Thiên Chúa. Đây phải là thái độ cần có đối với những ai muốn lãnh nhận mầu nhiệm Nước Trời. Đức hồng y Henri Nouwen chia sẻ cho chúng ta một kinh nghiệm sống gắn bó với Thiên Chúa để lãnh nhận mặc khải Nước Trời: “Có những chuyện bạn hoàn toàn bất lực và không thể tự mình làm được.
Hãy bắt đầu bằng việc thú nhận mình không thể tự chữa lành. Bạn phải hoàn toàn nhận mình bất lực để Thiên Chúa chữa lành. Khi chấp nhận mình bất lực là bắt đầu bạn để Thiên Chúa hành động. Hãy xem mình như một hạt giống nhỏ bé được gieo trong miếng đất màu mỡ. Tất cả những gì bạn phải làm là cứ ở đó tin tưởng rằng miếng đất có mọi thứ bạn cần để được lớn lên. Hãy bình tĩnh nhận mình bất lực và tin chắc có ngày bạn sẽ nhận được nhiều đến chừng nào”.
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái.
Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn. Ta hãy bám vào Chúa và xin Chúa cho ta luôn mặc lấy tâm tình bé mọn như Chúa mời gọi.
2020
Sám hối
14.7 Thứ Ba
Mt 11, 20-24
SÁM HỐI
Sám hối – một từ quá quen thuộc, người ta có thể rất hay nói về nó, có thể dùng nhiều từ hoa mỹ để diễn tả, hoặc đọc kinh để sám hối, hay xưng tội để sám hối…,nhưng lại không hiểu hết ý nghĩa của nó. Vì đã sám hối là phải canh tân, là cuộc sống phải biến đổi. Muốn sám hối người ta phải có lòng khiêm tốn biết mình, nhận ra ân huệ và tình thương Chúa dành cho mình trong cuộc sống, nhận ra tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa và tình thương yêu của Người, nhận ra những sai trái lầm lỗi của mình, thật lòng thống hối và quyết tâm sửa chữa. Giáo lý nhà phật coi sám hối như là một cách tu luyện để được tái sinh: “Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh…đoạn ác tu thiện mới chính là sám hối.” (văn phát nguyện sám hối).
Chúa Giêsu mời gọi sám hối – Ngài đã thiết lập bí tích hòa giải, hay còn gọi là bí tích sám hối như một phương thế để người Ki-tô hữu có điểm dừng, có hồi tâm xét mình để biết mình, để hoán cải sửa chữa những lầm lỗi. Thế nhưng có được bao người Ki-tô hữu lãnh nhận bí tích hòa giải trong tinh thần sám hối thực sự, hay coi đó chỉ như hành vi đi “đổ rác”, hoặc để giữ luật, hoặc chỉ vì gượng ép…. Vì thế mà tội xưng xong thì “mèo lại vẫn hoàn mèo” – Không có gì đổi mới, không có gì canh tân.
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là ba thành phố nằm gần biển hồ, là những nơi mà Chúa Giêsu thường đến rao giảng và làm phép lạ. Vì vậy, các thành này được diễm phúc chứng kiến nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Nhưng thay vì tin vào Chúa qua các phép lạ đó, thì dân cư của các thành này lại cứng lòng, không chịu sám hối. Thậm chí, Capharnaum còn bị Chúa Giêsu nêu rõ tội danh là kiêu ngạo, “nhắc mình lên tận trời cao”.
Đối nghịch với ba thành này là ba thành khác được nêu danh để so sánh, đó là Tyrô, Siđôn và Sôđôma. Tyrô và Siđôn là hai thành thuộc miền dân ngoại, họ không được nghe Chúa Giêsu giảng, cũng không được chứng kiến phép lạ Chúa làm. Hơn nữa, trong Cựu ước, hai thành này được nêu danh như là đối tượng cho sự trừng phạt của Thiên Chúa. Còn Sôđôma được nhắc đến trong sách Sáng Thế, là một thành hết sức tội lỗi và bị lửa thiêu đốt do tội của họ.
Chúa Giêsu lấy ba thành này để so sánh với Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum để làm nổi bật sự cứng lòng của họ. Ba thành kia bị liệt kê là xấu, thế nhưng nếu họ được chứng kiến các phép lạ đã xảy ra ở Corazain, Bethsaiđa và Capharnaum thì họ ăn năn sám hối chứ không như dân của ba thành cứng lòng này.
Tin và sám hối là hai việc làm đi đôi, là tương quan hai chiều. Tôi chưa sám hối bởi đức tin của tôi yếu kém, đã khô héo hoặc đã chết. Tin vào Chúa Giêsu, vào Tin mừng của Ngài chúng ta không thể tiếp tục ‘đường xưa lối cũ’. Nếu sám hối thực sự, Ki-tô hữu sẽ “nên thánh như Cha trên trời là Đấng thánh”. Sám hối làm cho St. Phê-rô đã từng ba lần chối Chúa được lên tông đồ cả; đã làm cho Madalena – một cô gái điếm trở nên chứng nhân loan báo tin mừng phục sinh đầu tiên, cho Thánh Augustinô từng rối đạo, mê lầm trong tội lỗi trở nên người bảo hộ đức tin giáo hội qua tổng luận thần học và được tước hiệu Tiến sĩ Hội thánh….
Sám hối là trở về với Cha, công nhận quyền tối thượng của Người trên cuộc đời mình, sẵn sàng vâng mệnh, thi hành thánh ý của Người trong cuộc sống; là biết nói không với những gì có thể kéo ta xa rời Thiên Chúa. Sám hối là mở rộng tâm hồn mình cho hồng ân Chúa đến như mưa tuôn thấm nhuận làm cho đất khô cằn trở nên phì nhiêu phát sinh hoa thơm trái tốt.
Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục kêu mời và gởi đến chúng ta nhiều dấu chỉ để chúng ta tin Ngài mà ăn năn sám hối.
Chúa kêu mời chúng ta qua lời giảng dạy của các mục tử, qua những lần chúng ta đọc Thánh Kinh…
Chúa gởi đến chúng ta những dấu chỉ là các biến cố trong cuộc sống. Thí dụ, cái chết của một người nào đó cũng là dấu chỉ mời gọi chúng ta sám hối…
Sám hối tuy là một tiến trình, nhưng nó cần có một khởi điểm. Khởi điểm này là lời đáp trả ban đầu đối với tiếng gọi của Thiên Chúa, một đáp trả dứt khoát chứ không chần chừ, quyết liệt chứ không hứa hẹn. Ngay từ bước khởi đầu, hối nhân để cho ân sủng Chúa thấm vào tâm hồn bị thương tích của mình và chấp nhận chỗi dậy bước đi trong tiến trình chữa lành.
Sẽ không có một tiến trình trở về với Chúa, nếu không có bước khởi đầu này. Bước khởi đầu này dù chỉ là một dấu chấm, nhưng là một dấu chấm quan trọng, không thể thiếu, để khởi dẫn cho nhiều dấu chấm khác, làm thành một đường thẳng tắp hướng về trời. Dân thành Tia và Xi-đôn nhanh chóng khởi đầu hành trình sám hối của họ sau khi nghe Lời Chúa, không tính toán, do dự. Đối với họ, hạnh phúc bắt đầu từ bước khởi đầu đó.
Mong sao ta luôn nhớ rằng: Chúa sẽ ‘đòi’ ta theo những gì Ngài đã ban cho ta. Mong sao, ta luôn nhạy bén để nhận ra những ân lộc mà Chúa đã dành cho ta mỗi ngày. Và mong sao, ta luôn rộng rãi chia sẻ những ân lộc mà ta được lãnh nhận cho anh chị em ta.