2024
MỤC TỬ THÍ MẠNG VÌ CHIÊN
22.4Thứ Hai trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 11:1-18; Tv 42:2-3; Ga 10:1-10; Ga 10:11-18
MỤC TỬ THÍ MẠNG VÌ CHIÊN
(Ga 10, 11-18)
Nhiều người đã nghe Chúa Giêsu giảng và xem nhiều phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài, nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai?” phải được đặt ra. Tuy nghe Chúa Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Chúa Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ: “Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10, 14).
Hình ảnh người “Mục tử” hay người chăn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông, được dùng để diễn tả mối tương quan thân mật dễ mến dễ thương giữa Thiên Chúa với dân.
Hình ảnh này được người ta khắc vẽ với vẻ dịu dàng, trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, ôm chúng vào lòng, đưa chiên về với đàn của chúng thật là đẹp.
Trong cuộc đời của Chúa Giêsu, một trong những phương pháp sư phạm của Ngài khi rao giảng Tin Mừng chính là phương pháp ẩn dụ. Tức là mượn hình ảnh của thiên nhiên, động vật… để nói lên một chân lý thuộc về Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cho biết: Chúa Giêsu dùng hình ảnh mục tử, đàn chiên và cửa chuồng chiên để nói lên mối tương quan giữa Ngài và dân Israel.
Mục tử là khái niệm rất quen thuộc của người Dothái; đàn chiên chính là gia sản của họ, nên ai cũng biết. Mục tử và đàn chiên cả hai đều sống du mục, nay đây mai đó, luôn tìm đến chỗ có đồng cỏ tươi, dòng suối mát để hạ trại.
Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Mục Tử Nhân Lành này sẵn lòng hy sinh tất cả vì đàn chiên. Ngài tự ví mình là “Cửa Chuồng Chiên”, tức là người canh phòng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ tấn công. Vì thế, ai qua “Cửa” mà vào thì sẽ được sống.
Người Mục Tử Nhân Lành này sẵn sàng dùng mọi cách để giữ gìn chiên, ngay cả cái chết. Ngài yêu thương chiên bằng tình yêu mục tử, nên Ngài “biết” từng con chiên và từng con chiên “biết” Ngài. Vì thế, sự sống của chiên là của Ngài và sự sống của Ngài luôn dành cho chiên.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa và Chúa thuộc về ta. Chúa “biết” chúng ta và Ngài “biết” cách thấu đáo. Còn chúng ta, chúng ta có “biết” Ngài không, hay có “biết” nhưng “biết” cách vu vơ, lúc biết lúc không?
Hình ảnh người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau thật đẹp. Điều đó nói lên sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đàn chiên, chiên nghe theo chủ chăn và do đó, chỉ có một chủ chiên và một đàn chiên.
Hiệp nhất vốn là dấu chỉ của tình yêu. Chúa Giêsu mượn hình ảnh người mục tử không ngừng đi tìm kiếm những con chiên lạc, để nói lên mối quan tâm của Ngài đối với Giáo hội. Đó chính là chúc thư Ngài để lại trong những giây phút cuối đời.”Xin cho chúng nên một”, “một đàn chiên và một chủ chiên”: đó là hình ảnh của sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu luôn quan tâm đến. Hình ảnh người mục tử đi tìm kiếm những con chiên lạc cũng nói lên tất cả mối tương quan của Thiên Chúa đối với con người: không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Mọi cố gắng của con người xét cho cùng cũng đều là những lôi kéo của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc đặt lại chính mình, ngõ hầu mỗi người làm mới lại mối tương quan với Thiên Chúa để được đi trong đường lối của Ngài. Đồng thời luôn sẵn sàng làm chứng về những gì mình “biết” về Thiên Chúa cho con người và cuộc sống hôm nay, ngang qua hành vi được biểu lộ nơi lòng mến và niềm tin.
Khi tự cho mình là Mục Tử, Chúa Giêsu muốn sống những đặc tính của người mục tử biết rõ từng con chiên, yêu thương đến thí mạng vì đoàn chiên để cho chiên được hạnh phúc. Mục Tử chữa lành mọi vết thương thân xác và tâm hồn để cho chiên được bình an, hy sinh cả mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Quả thật, Chúa Giêsu Mục Tử đã yêu thương loài người (tức chiên) bằng một tình yêu thí mạng, chết cho đoàn chiên. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Chúa. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì biết thế nào? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” không có nghĩa là “biết” được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là “biết” được diễn tả qua việc làm.
2024
MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
20.4 Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Phục Sinh
Cv 9:31-42; Tv 116:12-13,14-15,16-17; Ga 6:60-69
MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
Tin mừng hôm nay chuyển tải cho chúng ta, là giữa sự thất vọng bỏ đi của nhiều người, thì vẫn còn đó Nhóm Mười Hai với lời tuyên xưng của tông đồ trưởng Phêrô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Có lẽ ở đây chúng ta chưa dám chắc Phêrô và các Tông đồ đã hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể là lấy thịt Chúa cho nhân loại ăn, nhưng ít nhất Phêrô tin vào uy tín của Thầy không thể nói điều sai lạc.
Lời tuyên xưng còn khẳng định rõ hơn về đức tin là một ân ban mà không phải ai cũng dễ dàng có được. Lời tuyên xưng của Phêrô và sự trung thành của các Tông đồ là điểm sáng về niềm tin và lòng trung tín cho chúng ta, nhất là ngày hôm nay không thiếu những người đã lìa bỏ Giáo hội. Nếu không có ơn đức tin thì sẽ không thấy sự khác biệt giữa bánh chưa truyền phép và bánh đã được truyền phép không thể cảm nhận được sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể là bí tích cao cả nhất và là trung tâm điểm của phụng vụ Giáo Hội. Nhưng bí tích này lại vượt xa những kiểm chứng hữu hình và lý lẽ thông thường, đòi người ta phải cảm nhận bằng đức tin. Bởi thế, sau mỗi lần truyền phép, linh mục chủ tế luôn xướng lên “đây là mầu nhiệm đức tin”. Điều ấy muốn cho biết, Bí tích Thánh Thể là một thực tại của đức tin, chỉ có ai tin và chỉ bằng đức tin người ta mới có thể hiểu và cảm nhận được sự hiện diện đích thực của Chúa Giê-su Thánh Thể.
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy, Chúa Giêsu cũng đã nếm trải sự thất bại khi quảng diễn về Bánh Hằng Sống. Sau những lời tâm huyết trình bày về bánh hằng sống thì ngay chính các môn đệ của ngài cũng thốt lên “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”; không những không thể chấp nhận lời Ngài, nhiều môn đệ còn “bỏ Ngài mà đi”: đó là cơn khủng hoảng đức tin!
Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa”.
Chúa Giêsu hỏi nhóm 12. Phê rô thay mặt nhóm tuyên xưng. “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Đối lại, Đức Giê-su không những không rút lại quả quyết của mình, Ngài còn nhấn mạnh hơn. “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Thật đây là một mầu nhiệm thần linh, tự sức loài người không thể hiểu nổi, Chúa Giêsu ám chỉ đến “hữu thể” thần linh của Người: Người sẽ lên “nơi Người ở trước kia”. Ta không thể giải thích nổi Thánh Thể nguyên bằng lý trí hay sự thông giỏi loài người. Con người chỉ thấy những lời Chúa Giêsu là phi lý, chướng tai… nếu không mau mắn có một cái nhìn khiêm hạ.
“Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì. Lời thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có kẻ không tin.”
Khởi đầu cho hành trình đức tin là sự hiểu biết, nhưng đức tin phải vượt xa sự hiểu biết. Chỉ thuần túy là hiểu biết thì không thể gọi là tin và nhiều khi đức tin còn nghịch lại với hiểu biết. Đức tin đòi con người vượt trên mọi lý luận để xả thân chấp nhận như một liều lĩnh.
Hành trình đi theo Chúa Giêsu không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa làm chúng ta cảm thấy chói tai, con không muốn chấp nhận, con còn muốn rút lui. Nhưng xin cho con luôn hiểu rằng Lời Chúa – và chỉ có Lời Chúa – mới là lời chân thật và mới đem lại cho con sự sống thật. Xin cho con đừng bao giờ rút lui, vì “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Tôi đã được sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng bằng lời cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Hơn nữa, là Kitô hữu, tôi còn sống nhờ một lời đặc biệt: Đó là lời Chúa.
Chúa Giêsu ngỏ lời với tôi qua chính cuộc đời của Ngài. Ngài đã mặc khải cho tôi biết Chúa Cha và giới thiệu tôi với Người.
Hôm nay, tôi có dám khẳng định với Chúa như Phêrô không ? Ông đã sống với Chúa, đã nghe và tin vào lời Ngài, đặt biệt qua những lần bị vấp ngã.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tin vào sự linh nghiệm của Lời Chúa, để dám sống theo lời Ngài dạy bảo.
Trong vườn một gốc nho héo úa giữa bao cây nho xanh mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta cũng vậy. nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa.
Phần chúng ta, chúng ta có thái độ nào trước mạc khải của Chúa Giêsu về Bí tích Thánh Thể? Lời Chúa Giêsu hỏi các môn đệ ngày xưa cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta hôm nay: “Chúng con có muốn bỏ đi không?” Tin nhận và sống giáo huấn yêu thương phục vụ của Chúa đã là một điều khó: tin nhận và sống Bí tích Thánh Thể lại càng khó hơn. Tuy nhiên, chúng ta không làm việc đó một mình, bởi vì tin và sống Bí tích Thánh Thể đúng như ý Chúa muốn là một hồng ân của Chúa Cha: “Không ai có thể đến được với Ta, nếu không được Chúa Cha ban cho”.
Về vấn đề lựa chọn có theo Chúa hay không thì chính chúng ta phải đích thân lựa chọn và phải sống trung thành với sự lựa chọn đó: Đứng lại với Chúa, không phải chỉ vì thấy người khác, còn đứng lại vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa, vì tin Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo.
Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta tin Ngài là Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này mà còn ban sự sống đời đời nữa. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Sự sống đời đời không phải chỉ là sự sống đời sau, nhưng đến cùng Chúa, tin vào Chúa và ăn thịt máu Chúa là chúng ta đã được sự sống đời đời ngay từ bây giờ, bởi vì mỗi lần rước Chúa là chúng ta rước lấy mầm sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng rước Chúa và rước Chúa thật sốt sắng.
Xin Chúa ban Thần Khí để mỗi khi rước lễ là chúng ta xác tín: chúng ta được rước lấy chính sự sống vĩnh cửu.
2024
CHÚA GIÊ-SU – TẤM BÁNH HẰNG SỐNG
18.8 Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mùa Phục Sinh
Cv 8:26-40; Tv 66:8-9,16-17,20; Ga 6:44-51
CHÚA GIÊ-SU – TẤM BÁNH HẰNG SỐNG
Khi đói thì chúng ta cần phải ăn, bởi vì nếu không ăn thì chúng ta sẽ chết. Khi đói, con người cũng không cần những thứ cao lương mĩ vị, mà chỉ cần tấm bánh cho no. So sánh mình là tấm bánh, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh đến điều chính yếu và quan trọng cho con người trong cuộc sống thường ngày. Không có Ngài, con người cũng sẽ đói và không thể sống tiếp.
Nhưng không giống như tấm bánh bình thường mà Chúa Giê-su là tấm bánh “trường sinh”, tấm bánh “hằng sống từ trời xuống”. Quả thật Ngài là Con Một Thiên Chúa, từ trời cao xuống trần gian, không chỉ có thể làm phép lạ hóa bánh để nhiều người được ăn no, nhưng Ngài tự hiến bản thân mình trở thành tấm bánh nuôi dưỡng con người qua muôn ngàn thế hệ: “bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây”.
Tin mừng hôm nay vẫn tiếp tục triển khai diễn từ của Đức Giêsu về bánh hằng sống. Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần: phần đầu, Đức Giêsu tiếp tục nói rõ hơn về nguồn gốc của Ngài; phần sau, Chúa khẳng định lại điều Ngài đã nói trước đó: “Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.
Đức Giêsu tiếp tục nói rõ hơn về nguồn gốc của Ngài. Ngài bảo cho mọi người biết: Ngài bởi Chúa Cha mà đến, nên ai đến với Ngài và tin vào Ngài là nhận được ân huệ lớn nhất, ân huệ bao gồm mọi ân huệ mà Thiên Chúa ban cho loài người, đó là sự sống đời đời.
Chúa Cha không ngừng lôi kéo con người hướng thiện. Hướng về Chúa Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến để đưa nhân loại về với Người. Nhưng tại sao con người không đáp lại tiếng Chúa mời gọi? Thưa vì giữa ân sủng và con người, Thiên Chúa để một khoảng trống: đó là tự do. Để ân sủng Thiên Chúa phát sinh hiệu quả, con người phải dùng tự do của mình mà “lắng nghe” và “đón nhận” Lời Chúa.
Sau khi nói cho mọi người biết rõ nguồn gốc của mình, Đức Giêsu mạc khải và khẳng định điều Ngài đã quả quyết trước đó: “Tôi là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Người Do thái phản đối, nhưng Chúa Giêsu vẫn giữ nguyên lời quả quyết, rồi Chúa trở lại câu chuyện manna, để làm nổi bật hiệu lực của manna mới: “Tổ tiên các ngươi trong sa mạc đã ăn manna, và đã chết. Còn bánh bởi trời là bánh hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không chết”.
Những lời dạy của Đức Giêsu nói lên sự thật quan trọng và là trung tâm của đức tin Kitô giáo: con người không những phải tin nhận, mà còn phải ăn thịt và uống máu của Chúa để có sự sống đời đời. Giáo hội đã trải qua bao nhiêu thử thách, chống đối, vẫn kiên trì trong niềm tin này: tin Lời Chúa và hằng ngày cử hành Thánh Thể để con người được thông phần vào sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi dân chúng tin vào mình. Chỉ khi tin vào Ngài thì những lời Ngài dạy, mọi việc Ngài làm mới thực sự có giá trị đối với họ. Vì “ai tin thì sẽ được sống đời đời”. Thật vậy, tin là điều kiện cần phải có để được lãnh nhận hiệu quả siêu nhiên. Nếu không tin, mọi chuyện trở nên vô bổ vì không có tương tác.
Khi mời gọi dân chúng tin vào mình để được sống đời đời, Đức Giêsu dần dần khai mở và dẫn họ đến xác tín vào Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Lời xác định “Tôi là bánh trường sinh” là lời mạc khải rất đặc biệt trong Tin mừng Gioan, vì đây là lời quả quyết cụ thể, chính xác và chắc chắn
Vì thế, ngày nay, nơi Bí tích Thánh Thể, chúng ta cần xác tín mạnh mẽ niềm tin vào sự hiện diện toàn vẹn của Đức Giêsu nơi hình bánh và hình rượu. Từ đó, chúng ta yêu mến, cung kính và đón nhận để chúng ta được sự sống đời đời.
Giờ đây, trong mỗi Thánh lễ, khi chúng ta rước Mình Thánh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta được mời gọi ý thức về tầm quan trọng của lương thực thiêng liêng này. Đời sống tâm hồn của chúng ta sẽ ra sao nếu như không có của ăn thánh thiêng nuôi dưỡng. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, trong buổi đọc kinh Truyền tin của chúa nhật 8/8/2021, đã chia sẻ rằng: “không có Chúa, chúng ta sống một cách lây lất. Bởi vì, chỉ có Chúa mới nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, chỉ có Chúa mới tha thứ những điều xấu chúng ta đã phạm, mà tự sức mình chúng ta không thể vượt qua, chỉ có Chúa mới làm chúng ta cảm nhận được yêu thương ngay cả khi chúng ta thất vọng, chỉ có Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để yêu thương và tha thứ trong khó khăn, chỉ có Chúa mới ban cho trái tim tìm kiếm sự bình an, chỉ có Chúa ban sự sống đời đời khi sự sống trên trái đất này kết thúc”.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho người Do thái biết Ngài là Thiên Chúa, đến để ban ơn cứu chuộc cho họ cũng như mọi người, và Ngài ban chính thịt máu Ngài làm lương thực ban sự sống đời đời; nhưng họ nhất định không tin Ngài.
Đó là chuyện ngày xưa của người Do thái, còn chúng ta ngày nay, chúng ta có thái độ thế nào, chúng ta có tin mạnh mẽ, tin tuyệt đối vào Đức Giêsu hiện diện trong phép Thánh Thể không? Và chúng ta siêng năng tham dự Thánh lễ, dọn lòng sốt sắng để rước Chúa Giêsu Thánh Thể không? Xin Chúa ban cho chúng ta có lòng sùng kính và mến yêu phép Thánh Thể và tin thật đây là thần lương nuôi dưỡng để giúp chúng ta đến cuộc sống đời đời.
2024
BÁNH HẰNG SỐNG
17.4 Thứ Tư trong tuần thứ Ba Mùa Phục Sinh
Cv 8:1-8; Tv 66:1-3,4-5,6-7; Ga 6:35-40
BÁNH HẰNG SỐNG
Chúa Giêsu quả quyết lợi ích của Phép Thánh thể như sau: “Ta là bánh sự sống… Ai đến với Ta sẽ không hề đói và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (c. 35). “Và ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại” (c. 39).
Chúng ta đã từng biết phép Thánh Thể mang lại những kết quả gì. Việc rước Chúa không tha trọng tội nhưng gìn giữ chúng ta khỏi tội trọng. Thánh Công Đồng Trentô gọi việc rước Chúa là “một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng” (13,12). Kinh Thánh gọi Chúa là “Bánh bởi Trời ban xuống để ai ăn không hề chết” (Gio 6,50). Đó là Mình Thánh Chúa gìn giữ linh hồn khỏi sa ngã phạm tội.
Mình Thánh Chúa còn được gọi là bánh các thiên thần nghĩa là việc rước lễ làm cho chúng ta nên tinh tuyền trong trắng như các thiên thần. Thánh Chysostôm nói: “các tín hữu khi ra khỏi bàn tiệc thánh giống như những sư tử dũng mãnh làm ma quỉ khiếp sợ ít dám tấn công họ. Cho nên việc rước Chúa làm suy giảm những dục vọng lăng loàn quấy phá.
Hơn nữa, việc rước Chúa gia tăng đời sống ơn thánh (Ds 16,38). Cũng như mục đích của ăn, của uống là nuôi sống, thì việc rước Chúa là của ăn của linh hồn, là thứ của ăn đưa họ từ trần gian về vĩnh cửu. Việc rước Chúa còn bảo đảm chắc chắn được tha tội nhẹ và các hình phạt tạm thời hằng ngày chúng ta mắc phải. Hiệu quả này được Đức Piô X (Ds 3375/1981) và công đồng Trentô xác nhận (Ds 1638). Việc rước lễ còn kết hợp chúng ta với chính Chúa Kitô và với anh em (1C 10,16). Sau nữa việc rước Mình Chúa chuẩn bị cho thân xác một cuộc Phục sinh vinh hiển. Điều này được đức Kitô bảo đảm “và ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại” (c.40).
Phép Thánh thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau. Xưa kia, tại vườn địa đàng, con người nhờ đặc ân mà có đời sống bất tử, bất tử ngay cả đối với thân xác, nhưng vì tội lỗi xâm nhập nên mất đặc ân đó và phải chết đời đời nữa. Nhưng Chúa Kitô đã tái lập lại ơn lộc ban đầu một cách dần dần, tịnh tiến, nghĩa là bây giờ nhờ rước lễ, chúng ta có đời sống ơn sủng, sau khi chết chúng ta được hạnh phúc trường cửu và ngày tận thế xác chúng ta sẽ được vĩnh cửu nước trời.
Một thánh phụ nói: “Khi rước lễ, Chúa Kitô đặt trong chúng ta mầm sống và vinh hiển. Đó là tàn lửa âm ỷ dưới lớp tro mà một ngày kia sẽ hủy diệt tất cả những gì là ô uế bởi tội lỗi. Nó chỉ còn chờ kèn chung thẩm để trong chớp nhoáng biến thân xác ta nên giống như thân xác vinh hiển của Chúa Kitô” (Irenê). Thánh Bernard nói: “Chúa Kitô chiến thắng sự chết nơi chúng ta, thân xác bất tử của Người biến chúng ta thành bất tử, tựa hồ mầm sống ở trong hạt giống làm cho hạt giống mọc lên, tựa hồ sức nóng ở trong nước làm cho nước sôi lên, tựa hồ như lửa rơi vào đống rơm làm bùng lên…” Thánh Ignatiô Ant. gọi rước lễ là “liều thuốc trừơng sinh” (R. 43).
Ở đời này, ai ai cũng muốn cho mình có công danh gì với núi sông. “Không công danh thời nát với cỏ cây”. Ai cũng muốn tên tuổi mình được tồn tại nơi hậu thế. Có những vị vua xưa đã từng bắt chư dân đi tìm một loại thảo tiên để được sống mãi. Nhưng rồi cũng chết và chết sớm nữa. Chúng ta hôm nay muốn được sống vĩnh cửu trong hạnh phúc, khỏi cần đi đâu xa, hãy đến với phép Thánh Thể mỗi ngày. “Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết” (c.40).
Lời của Chúa Giêsu tuyên bố trong Tin Mừng hôm nay: ”Ta là Bánh ban sự sống”. Sự sống mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không chỉ hiểu là sự sống phần xác, nhưng là sự sống thiêng liêng, sự sống tâm linh.
Theo sự trình bầy của Thánh Gioan, sự sống này là mối giây liên lạc mới giữa người ăn Bánh Giêsu với Thiên Chúa Cha. Sự sống đó được biểu lộ với những tâm tình và hành động nó lên lòng cậy trông phó thác, sự vâng phục và tình yêu đối với Ngài như được Chúa Giêsu nêu gương trong cuộc sống, cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng trên Thập Giá.
Chính giáo huấn và mẫu gương sống đó của Chúa Giêsu, đã giúp cho chàng thanh niên người Maori trên kia, gạt bỏ đi được mối hận thù lớn lao, và hơn thế nữa, còn tha thứ cho kẻ đã giết chết cha mình, để thể hiện tình yêu của những người muốn làm môn đệ Chúa.
Chúa Giê-su cho chúng ta biết, ý của Thiên Chúa Cha, là không muốn để mất đi một con người nào. Và để thực hiện ý muốn ấy, Cha đã sai Con của Người đến, để ai tin vào Người Con, thì không phải bị hư mất, nhưng được sống đời đời. Ôi! Lòng Chúa Xót Thương thật bao la vĩ đại. Đúng là “Lòng yêu thương của Chúa tồn tại đến muôn đời”. Nhớ, có bài hát rằng: “Không có ai yêu con bằng Chúa. Không có ai tác sinh đời con. Chỉ có Ngài chỉ có mình Ngài. Vì yêu thương dẫn con vào thế giới. Không có ai hiến trọn một đời. Không có ai yêu trọn một người.
Vì con người, tình yêu hay dừng lại. Chỉ có Chúa, tình yêu không phút ngơi”. Vâng, con người thiếu lòng thuỷ chung với Chúa và với nhau. Còn Thiên Chúa thì tín trung chung thuỷ đến muôn đời. Ước gì mỗi người luôn nhớ Lời Chúa Giê-su hôm nay: “Vậy ý của Cha, Ðấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại”. Ước gì mỗi nhà luôn nhắc nhớ nhau: Chúa trân trọng quý chuộng và yêu thương mỗi chúng ta, và Người không muốn ai phải hư mất đi ngàn đời. Vì thế, đừng bỏ Chúa mà đi xa xôi nữa! Đừng phụ ân tình Chúa nữa!
Đừng tìm kiếm sự sống phù phàm, hạnh phúc hư ảo ở trần gian này nữa! Nhưng hãy “tin cậy mến” Thiên Chúa, trong Chúa Giê-su, trên hết mọi sự. Những người làm cha mẹ trong gia đình cũng hãy mặc lấy lòng thương của Chúa, mà cầu nguyện và vui mừng đón nhận con cái hư đốn trở về. Giáo Hội là Mẹ thánh thiện luôn bước xuống, tìm kiếm, gặp gỡ, thấu hiểu, mở rộng vòng tay và trái tim xót thương mà đón nhận con cái chưa thánh thiện trở về!
Chúa Giêsu không những đến để khơi dậy những câu hỏi ngàn đời của cuộc sống: “Phần các con, các con bảo Ta là ai?” Câu hỏi Ngài đã từng đặt ra cho các môn đệ của Ngài cách đây hai ngàn năm. Ngày nay, Ngài cũng không ngừng đặt ra cho mỗi người. Ngài không những tra vấn con người của mọi thời đại, Ngài là giải đáp cho mọi thắc mắc của con người. Ngài là Ðấng đang hiện diện trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta. Ngài đang đồng hành với chúng ta.