2020
Dụ Ngôn Tiệc Cưới Hoàng Gia
- 8 Thứ Năm tuần XX Thường niên
Ez 36, 23-28; Mt 22, 1-14
Dụ Ngôn Tiệc Cưới Hoàng Gia
Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Để trả lời cho những người muốn biết Nước Trời ở đâu, Chúa Giêsu đã dạy: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 21). Như vậy, mỗi gia đình, cộng đoàn hay bất cứ tập thể nào cũng có thể trở thành thiên đàng hay hỏa ngục. Có người đã nằm mơ thấy mình được dự hai bữa tiệc: một tiệc trên thiên đàng và một tiệc trong hỏa ngục và thuật lại sự khác biệt giữa hai nơi như sau:
Cả hai bàn tiệc trên thiên đàng hay dưới hỏa ngục đều có đầy thức ăn ngon, và mỗi người đều được phát một đôi đũa. Có điều các đôi đũa đều dài quá khổ, đến nỗi tuy người ngồi ăn có thể gắp được đồ ăn trên bàn, nhưng lại không sao đưa được đồ ăn vào miệng của mình.
Trong bàn tiệc trên thiên đàng thì mọi người đồng bàn đều có lòng vị tha bác ái, nên biết quan tâm đến người khác và muốn làm vui lòng người khác, nên họ gắp đồ ăn phục vụ cho nhau, nên mọi người đều được ăn no và không khí bàn tiệc rất vui vẻ bình an và hạnh phúc. Ngược lại, tại bàn tiệc trong hỏa ngục thì mọi người đều ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Vì không thể tự gắp đồ ăn cho mình, và do thói ganh tị nên họ cũng không muốn phục vụ người khác, nên mọi người đều bị đói và thù ghét đánh lộn nhau. Kết quả là người thì đau khổ khóc lóc, kẻ lại nghiến răng giận hờn.
Nhà vua trong dụ ngôn hôm nay chắc chắn là cảm thấy bị mất mặt, thậm chí bị xúc phạm nặng nề. Dọn tiệc cưới cho con, nhưng khách mời lại không chịu đến. Để cứu vãn tình hình, ông đành ra lệnh mời tất cả mọi người ngoài đường phố vào dự tiệc. Tuy nhiên, trong số những khách được mời bất chợt này vẫn có người không chịu mặc y phục thích hợp được chuẩn bị cho lễ cưới. Ông buộc phải ra lệnh tống người đó ra ngoài. Tiệc cưới cho hoàng tử, nhưng niềm vui của vua đã không được trọn vẹn vì khách mời đã coi thường bữa tiệc vui quan trọng này.
Dưới con mắt người đời, chương trình của Thiên Chúa tưởng chừng bị phá hủy. Nhưng trái lại Tin Mừng ấy, bữa tiệc Nước Trời ấy lại được mở rộng và mời đón hết mọi người khắp nơi vào dự tiệc. Và chính con cũng đang được hưởng tình thương và ân sủng vô giới hạn của Chúa. Con được gia nhập vào Hội Thánh, được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy. Con được giữ tiệc Nước Chúa hằng ngày mỗi khi dự thánh lễ. Ngay cả khi trở về đời sống thường nhật cũng là lúc con đang sống bữa tiệc ấy. Chúa muốn niềm tin của con phải bao trùm trọn cả đời sống con. Chiếc áo cưới mà Chúa trao cho con khi rửa tội thật đẹp, thật tinh tuyền. Chúa muốn con sống đức tin và gìn giữ chiếc áo cưới để con mặc ra đón Chúa trong ngày Chúa đến.
Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đã được mặc một áo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo là bí tích hòa giải. Tại đây Chúa Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của tình thân mật đã tìm lại được.
Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Hội Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng không.
2020
Lòng thương xót của Thiên Chúa
- 8 Thứ Tư tuần XX Thường niên
Ez 34, 1-11; Mt 20, 1-16a
LÒNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Trang Tin Mừng hôm nay mở rộng thêm về chân dung của Thiên Chúa không chỉ là Đấng phân xử công bằng, mà còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” làm nổi rõ điều đó. Nếu cứ theo luật công bằng thì những người được mướn vào làm sau thời điểm tảng sáng chắc chắn chỉ đáng nhận được tiền công ít hơn so với người làm từ tảng sáng.
Thế nhưng mọi chuyện thật phi lý khi vào cuối ngày ông chủ gọi từng người đến trả lương. Người làm cuối cùng lại được nhận tiền trước và nhận được số tiền như người làm từ tảng sáng. Chứng kiến việc chủ trả tiền cho những người thợ sau chót, hẳn nhiên những người đầu tiên sẽ phấn khởi mừng vui vì nghĩ mình chắc sẽ được nhiều hơn.
Thế nhưng họ cũng chỉ nhận được một đồng. Và phản ứng bực tức, thất vọng, là điều dễ thấy. Phản ứng này làm chúng ta nhớ lại dụ ngôn về người cha nhân hậu, khi người anh cả cũng phản ứng giận dữ như vậy vì biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Nhưng dụ ngôn cho chúng ta biết ông chủ không hề đối xử bất công đối với những người thợ làm từ tảng sáng vì ông đã trả cho họ đúng như đã thỏa thuận ban đầu. Câu cuối cùng của dụ ngôn đã làm nổi lời giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta : “Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh. Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài sản của tôi sao?” Đó là nội dung chính yếu nói lên tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa dành cho con người.
Tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa đã vượt xa suy nghĩ của con người. Điều con người tưởng chừng như không thể tha thứ thì Thiên Chúa đã thứ tha. Anh trộm lành chấp nhận chịu hình phạt do mình đã gây ra và không thể ngờ Thiên Chúa sẽ thứ tha, thì chính Người đã nói với anh : “Ngày hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta.” Anh là người thợ thứ 11 như trong dụ ngôn mà Chúa đã đưa ra. Anh được hưởng những gì mà người khác nhiều khi đã phải nỗ lực cả đời mới có. Nhưng nói cho cùng thì không ai có thể xứng đáng để vào Nước Thiên Chúa. Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban nhưng không, hơn là một sự trả công cho những gì con người đã cố gắng đạt tới.
Tấm lòng thương xót của Thiên Chúa còn thể hiện qua việc Ngài chờ đợi con người. Tại sao ông chủ lại phải mất công hàng giờ ra chợ tìm kiếm những con người đang đứng chờ vất vưởng ngoài ấy để gọi vào làm vườn nho? Cũng như tại sao người cha nhân hậu lại phải mỏi mòn chờ đợi đứa con hoang đàng trở về, để khi nó vừa về đến thì vội vàng chạy ra ôm chầm lấy nó.
Tất cả là vì tình thương. Tất cả là ở lòng quảng đại bao la của Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho con người. Bởi thế con người đừng thất vọng vì nghĩ rằng mình không còn cơ hội để quay về làm hòa với Thiên Chúa. Cũng đừng chán nản vì đứng cả ngày ngoài chợ mà chưa có ai mời vào làm vườn nho Nước Trời. Sẽ có lúc Thiên Chúa sẽ đến và ban tặng ân phúc cho bạn mà bạn không thể ngờ. Thiên Chúa là thế, Ngài là Đấng nhân hậu và lòng nhân hậu ấy vẫn hằng sẵn sàng chờ đợi cho đến phút cuối cùng của cuộc đời chúng ta.
Đối với Chúa điều quan trọng đâu phải là trước sau, mà chính là giây phút hiện tại, là lúc này. Vì thế mọi sự chểnh mảng coi thường, hoặc giữ đạo cơ hội, xu thời sẽ khó có thể được hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hơn nữa, chính thái độ khoan dung nhân hậu của Chúa đã mở ra cơ hội cho nhiều người tuy đi sau nhưng lại về trước. Rất có thể họ đã có một quá khứ chẳng mấy tốt đẹp hay đã từng làm nhiều điều bất chính. Nhưng nhờ lòng xót thương của Chúa mà họ đã không chỉ được đứng dậy trở, về mà còn được vinh dự vào làm trong vườn nho của Chúa. Đây từng là câu chuyện của thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, các cột trụ của Giáo Hội.
Ước gì mỗi chúng ta, cũng biết nhìn ra tình thương và lòng Thương Xót của Chúa để biết luôn cảm tạ thay cho nghi kỵ ghen ghét, ước gì mỗi người chúng ta nhận ra lòng tốt của Thiên Chúa đang dành cho mình, để chúng ta biết sống tốt với mọi người. Nhất là khi thấy anh em được những điều may lành. Từ đó, chúng ta sẽ không bao giờ có thái độ buông xuôi chán nản mỗi khi có yếu hèn vấp ngã vì chúng ta biết rằng Chúa chúng ta là Đấng nhân hậu từ bi, chậm bất bình và rất mực khoan dung.
2020
Nghèo !
18.8 Thứ Ba tuần XX Thường niên
Ez 28, 1-10; Mt 19, 23-30
NGHÈO !
Ta vẫn nghe nói tiền của có sức hút và mê hoặc con người – ‘Đồng tiền đi liền khúc ruột’ – do đó, để có thể làm chủ được nó, con người không được khinh suất, nhưng rất cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Bởi thế mà Chúa Giêsu đã nói: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” (c. 26) Với sự hướng dẫn và ơn Chúa ban, con người sẽ biết cách sử dụng tiền của để mưu cầu lợi ích cho mình và cho tha nhân, giúp phát triển xã hội ngày càng tươi đẹp, lành mạnh và phong phú.
Lời của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay gây sốc không những cho người nghe lúc bấy giờ (các môn đệ vô cùng sửng sốt) mà gây sốc cho rất nhiều người trong mọi thời đại: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (c. 24). Đồng thời ngược lại, Chúa lại hứa ban thưởng gấp trăm cả đời này lẫn đời sau cho những ai từ bỏ mọi sự mà theo Người.
Có mâu thuẫn không giữa những điều Chúa nói? Chẳng phải nếu Chúa ban cho họ gấp bội ở đời này thì họ lại trở thành người giàu hay sao, và khi ấy phải chăng họ lại trở thành những kẻ khó vào nước trời?
Thực ra, mấu chốt của vấn đề là tinh thần từ bỏ; người có tinh thần từ bỏ không bị ràng buộc bởi của cải, hay nói khác đi, họ không bị của cải vật chất cản trở bước đường làm người môn đệ, nhưng biết dùng nó như phương tiện Chúa ban để sống theo ý Chúa.
Vì thế, họ có thể là người rất giàu có về của cải nhưng luôn coi nó là hồng ân, là quà tặng của Thiên Chúa ban mà sống trong tinh thần tri ân, cảm tạ và luôn sẵn sàng chia sẻ, cho đi không tính toán.
Đã hẳn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải sống nghèo nàn mạt rệp. Vì cái nghèo cho thấy sự tồn tại của điều ác. Nó chỉ cho chúng ta biết xã hội, môi trường chúng ta sống vẫn còn đó sự bành chướng của ích kỷ; vẫn còn đó những con người không biết chia sẻ, chỉ biết vun đắp cho chính mình, thiếu vắng tinh thần quảng đại sẵn sàng cho đi của một tình yêu vị tha.
Hơn nữa, sự nghèo túng, bần hàn, khốn cùng như ‘sự dữ hiện hình’ làm cho con người không còn nhân phẩm, sống không ra người và đó không phải là điều Thiên Chúa muốn; vì khi tạo dựng vũ trụ, con người, chẳng phải Thiên Chúa đã chúc phúc và ra lệnh cho nó sinh sôi và phát triển phong phú hay sao? Và Thiên Chúa – Chúa Giêsu Kitô khi đến cứu độ trần gian Ngài đã đến với thân phận nghèo hèn khốn cùng của con người là để cứu vớt, nâng họ lên khỏi vực sâu của bần cùng tội lỗi cho họ trở nên ‘giàu có’ vì được làm con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự giàu có lại khiến con người dễ xa rời Thiên Chúa bởi mê lầm, tự mãn. Mê lầm vì nghĩ rằng của cải là cứu cánh có thể thỏa mãn tất cả, đem lại sung sướng và hạnh phúc – tiền có thể làm cho họ đạt được danh vọng, vinh quang và mọi thú vui ở đời – bởi thế mà ‘có tiền mua tiên cũng được’; và cũng từ đó dẫn đến tự mãn không cần Thiên Chúa, và tồi tệ hơn nữa là họ có thể quay lưng lại với Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa, bất chấp mọi thủ đoạn để có thể đạt được những ước muốn bất chính của mình.
Vì vậy mà Chúa Giêsu nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ… các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được” (Lc 16,13). Vì tiền của có thể là một tên đầy tớ tốt, hữu dụng, nhưng ngược lại nó sẽ là ông chủ xấu xa, độc ác.
Cuối Tin mừng, chúng ta thấy một câu có vẻ không ăn nhập gì lắm, nhưng thực ra là một ý hướng chủ đạo dẫn dắt bản văn: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.” (c. 30) Những kẻ ‘đứng chót’ ở đây – Chúa Giêsu muốn nói đến những con người ‘nghèo’ của Tin mừng – những người sống khiêm tốn, chỉ biết cậy dựa vào Thiên Chúa chứ không cậy dựa vào thế lực của giàu sang vinh hoa phú quí; họ là những kẻ được Thiên Chúa yêu thương, bênh vực và là những ‘người lớn’ trong nước trời (Lời kinh Magnificat).
Bởi vì họ lấy Chúa là sức mạnh, là gia nghiệp của đời mình. Họ là những người khôn ngoan biết tích lũy kho tàng trên trời nơi mối mọt không thể đục khoét hơn là tìm kiếm của cải phù vân (Lc 12,33); họ hiểu ý nghĩa và vị trí của tiền của, biến nó thành phương tiện để thi hành ý Chúa chứ không coi nó là mục đích của cuộc đời. Vì thế, họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và nước trời sẽ là phần thưởng của họ. (c. 28. 29)
2020
Ưu tư và chọn lựa
17.8 Thứ Hai tuần XX Thường niên
Ez 24, 15-24; Mt 19, 16-22
ƯU TƯ VÀ CHỌN LỰA
Người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay đã đến xin Chúa Giêsu chỉ cho một phương cách phải làm gì để tận hưởng sự sống đời đời. Sau khi lắng nghe thiện ý của người thanh niên, Đức Giêsu liền chất vấn anh về một điều tốt lành: “Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn”.
Giữa một “rừng luật” tỉ mỉ của Do Thái, người thanh niên muốn Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điều răn nào cụ thể nhất. Đức Giêsu kể ra một số điều luật căn bản như: không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không được làm chứng gian. Phải thờ cha kính mẹ và phải yêu đồng loại như chính mình.
Sau khi nghe Chúa Giêsu kể ra những điều luật quan trọng nhất, người thanh niên tỏ ra là người “ngoan đạo” vì anh đã giữ tất cả những điều luật ấy. Cuối cùng Đức Giêsu đề nghị một điều đụng chạm mạnh mẽ đến tham vọng thâm sâu nhất của người thanh niên đó là bán tất cả của cải anh có để chia cho người nghèo thì sẽ có một kho tàng ở trên trời. Câu chuyện có một kết thúc đáng buồn, đó là cảnh người thanh niên bỏ đi chỉ vì anh ta có quá nhiều của cải.
Thái độ của người thanh niên cho thấy, của cải như một thứ keo dính đeo bám vào con người khiến họ không thể rời xa được “đồng tiền đi liền khúc ruột” là thế. Của cải tự nó không có gì là xấu, nhưng vì con người bị mê hoặc và tôn thờ nó như một thứ thần thánh, nó có sức lôi cuốn mãnh liệt, là vật cản vô hình khiến người ta không đến được với sự sống đời đời. Của cải có sức trói buộc khiến người ta mất ăn mất ngủ, mất cả mạng sống và linh hồn.
Đôi lúc chúng ta cũng có thái độ giống người thanh niên quyến luyến và nô lệ cho tiền bạc mà từ chối kho tàng Nước Trời. Sống trong một xã hội đề cao sự hưởng thụ, con người bị cuốn hút vào cơn lốc của tiền bạc. Mọi người tranh thủ làm giàu, điên cuồng hưởng thụ nhanh chóng và cũng gánh chịu nhiều nỗi thất vọng ê chề. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy sử dụng tiền bạc cho đúng mục đích, hãy ưu tiên cho việc tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời.
Niềm tin kitô giáo dạy chúng ta rằng: tất cả những gì chúng ta đang có như tiền bạc, thời gian, tài năng và ngay cả tội lỗi đều do ân sủng Thiên Chúa ban. Người là Đấng quảng đại hào phóng đã ban cho chúng ta đấu đủ lượng đã dằn đã lắc. Những ân huệ Thiên Chúa ban để chúng ta sử dụng và mưu ích cho người khác. Khi đi theo Chúa trên con đường trọn lành, đòi hỏi chúng ta phải có thái độ dứt khoát, từ bỏ mọi sự quyến luyến của tiền bạc và sống nghèo khó theo tinh thần Phúc Âm. Một khi đã trút bỏ hết sự bảo đảm vật chất thế gian, chúng ta mới phó thác trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Thánh tiến sĩ Augustinô là người đã cảm nghiệm sâu sắc về sự giàu sang và khôn ngoan của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào. Thánh nhân nói: “Ai có nhiều của cải mà không có ơn nghĩa Chúa, ấy là kẻ nghèo nhất. Ai trở nên bần cùng mà có ơn nghĩa Chúa, người ấy có tất cả mọi sự”.
Như vậy dù có nhiều tiền mà không có Thiên Chúa, chúng ta vẫn là kẻ tay trắng. Trái lại, khi sống tâm tình của trẻ thơ tin tưởng vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ có Thiên Chúa là gia nghiệp. Muốn được hưởng hạnh phúc dài lâu trong Nước Trời, chúng ta phải tuân giữ các điều răn của Chúa và sống siêu thoát với của cải vật chất. Sống tinh thần nghèo khó, chúng ta thoát được sự lo lắng ở đời và thảnh thơi lo việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
Ưu tư của chàng thanh niên trong Tin Mừng có vẻ xa vời đối với những bận tâm của chúng ta ngày nay. Vì chưng, xã hội nhìn nhận giá trị con người qua tiền của, sang giàu hơn bất cứ cái gì khác. Cho nên, người ta phải lo tranh dành, tranh đấu, tranh đua và tranh chấp để chiếm cho được nhiều tiền của, dù phải dùng các phương tiện bất nhân, bất nghĩa hay bất lương.
Thế nhưng, được tiền được của mà mất tha nhân và mất Chúa thì nào ích gì! (Mt 16,26). Chúa Giêsu nhắc nhở chàng thanh niên và cả chúng ta rằng thực thi điều răn mến Chúa yêu người là kiến tạo một xã hội đầy tình Chúa và tình người lâu bền và vững chắc. Đó cũng là điều kiện cần thiết để được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Có hai điều kiện để đạt đến sự sống đời đời là tuân giữ những lời Chúa dạy và từ bỏ mọi của cải vật chất trần gian. Thực hiện được hai điều kiện này quả là điều khó vì chúng ta còn mang thân phận yếu đuối. Chúng ta không đủ khiêm tốn và tin tưởng để trao phó cuộc đời cho Thiên Chúa lo liệu nên chỉ lo tìm sự bảo đảm nơi tiền bạc vật chất.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đòi hỏi người niên: “Nếu anh muôn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán ‘ của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Nghe lời đó, anh ta bu bỏ đi, vì của cải vật chất đã ngăn cản anh ta theo Chúa.
Để dễ dàng theo Chúa, chúng ta phải thành tâm chí sống khó nghèo để được tự do và thong dong theo Chúa.
Ngày nay, Ngài cũng lập lại đòi hỏi ấy đối với người chúng ta. Theo Ngài cũng có nghĩa là tin rằng:, đang sống và sống một cách thiết thực trong cuộc sống. Do đó, những kẻ đi theo Ngài phải luôn tỉnh thức để nhận ra Ngài trong tất cả mọi sự và trong từng phút giây của sống. Đi theo Ngài cũng có nghĩa là sống như thế nào để người nhìn vào đều có thể thấy được gương mặt của Ngài.
Một cuộc sống như thế hẳn đòi hỏi nhiều hy sinh bỏ, cũng như Lêô Narđô đã sẵn sàng xóa bỏ một chi tiết bức tranh cho dẫu đó là một cánh hoa đẹp để thu hút sự vào gương mặt Chúa Giêsu. Cũng thế, người môn đệ Ngài hãy luôn sẩn sàng tháo gỡ và vứt bỏ mọi thứ vướng để chỉ sống cho Ngài và làm cho mọi người nhận ra mặt của Ngài qua chính cuộc sống của mình.