2020
Tình yêu đích thực
21.5.2020
Thứ Năm
TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC
Ga 16, 16-20
Thánh Gioan Tông Đồ được gọi là môn đệ Chúa yêu để rồi qua và với Tin Mừng Gioan, Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng để chúng ta tiếp tục tiến bước.
Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.
Tình yêu đích thực đối với Chúa Giêsu hệ tại ở sự thi hành ý muốn của Chúa Giêsu. Ý muốn ấy được thể hiện trong Lời của Người và trong các điều răn của Người. Ai yêu mến Chúa Giêsu thì thực hiện các lệnh truyền của Người (c. 21). Và đàng khác, chính trong lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu mà chúng ta mới có thể sống chính những giá trị của Chúa Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử (c.15). Hai yếu tố “yêu mến Chúa Giêsu” và “tuân giữ lời Chúa Giêsu” có mối tương quan biện chứng.
Thực vậy, chúng ta chứng minh tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ những điều răn của Ngài bởi vì lề luật của Ngài là những chỉ dẫn yêu thương tuyệt hảo nhất. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Nhưng đồng thời cũng chỉ cho chúng ta hay đâu là điều tốt lành nhất cho bản thân, gia đình và xã hội.
Lòng yêu mến Chúa thực đòi ta giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người.
Chẳng hạn điều răn thứ I: “Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với Đấng Tối Cao đã đành, mà còn giúp chúng ta tránh đi được những mê tín dị đoan và những sự thờ phượng nhảm nhí làm giảm giá trị con người, như thờ con bò, con rắn, thờ tiền tài, danh vọng, lạc thú.
Chẳng hạn điều răn thứ IV: “Hãy hảo kính cha mẹ”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với cha mẹ, là những người đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta đã đành, mà còn nhờ đó đem lại cho gia đình chúng ta một bầu khí hoà thuận, cảm thông và hạnh phúc.
Chẳng hạn điều răn thứ V: “Tôn trọng thân xác và mạng sống của mình cũng như của người khác”. Rồi điều răn thứ VII và thứ X: “Tôn trọng đức công bằng, không được lấy hay giữ của người ta một cách trái phép”. Tất cả những điều răn này không phải chỉ đem lại cho cá nhân một sự bảo đảm an toàn, mà hơn thế nữa còn đem lại cho xã hội một sự ổn định và trật tự.
Và như chúng ta đã nói, bên trên những lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội, việc tuân giữ những điều răn của Chúa sẽ là một phương thế giúp chúng ta biểu lộ tình yêu mến và gắn bó của chúng ta đối với Chúa, vì tình yêu mà không có việc làm thì chỉ là một tình yêu chết mà thôi. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta: Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những điều răn của Thầy.
Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”.
Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người Kitô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm rằng: Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.
Thật vậy, chính đời sống yêu thương nhau chân thành, hy sinh phục vụ nhau theo mẫu mực của tình yêu Chúa yêu thương chúng ta sẽ biểu lộ cho mọi người nhận thấy sự hiện diện sống động của Chúa, Ngài đang sống và đang có mặt sống động trên trái đất chúng ta, như Ngài đã nói khi từ biệt các môn đệ: “Thầy không bỏ anh em cô độc. Thầy sẽ đến với anh em. Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”.
2020
Mở lòng đón Thần Chân Lý
20.5.2020
Thứ tư
Ga 16, 12-15
MỞ LÒNG ĐÓN THẦN CHÂN LÝ
Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ (Ga 14,16). Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý giúp các môn đệ thấu hiểu Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu (Ga 16,5-13). Mầu Nhiệm này, tự sức mình, con người không thể thấu hiểu được (Ga 16,12b), bởi lẽ, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thánh Thần của Thiên Chúa ban cho (1 Cr 2,11). Như vậy, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, con người sẽ thấy được vẻ đẹp tròn đầy của Sự thật (Ga 16,13).
Những điều Thiên Chúa muốn nói qua Người Con đã được ghi lại trong bộ Thánh Kinh, còn Chúa Thánh Thần dần dần vén màn cho chúng ta thấu hiểu được sự thật toàn vẹn. Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy các tông đồ phải đợi đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống mới hiểu được những lời Chúa Giêsu đã nói. Và cũng không lạ khi những lời đã được viết ra cả hằng ngàn năm nay, mỗi khi được tuyên đọc, vẫn khơi dậy trong chúng ta những tâm tình những hiểu biết và những sứ vụ luôn luôn mới.
Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (c.12). Chúa Giêsu đã gián tiếp giới thiệu về sứ mệnh của Chúa Thánh Thần; đó là Ngài sẽ nói những điều mà Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ. Có lẽ vì bản tính con người yếu đuối, các môn đệ không thể hiểu lời của Chúa Cha và Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần can thiệp và thiết lập mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài còn ban ơn soi sáng đức tin của chúng ta, là những kẻ vốn khó chấp nhận Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể.
Chúa Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất: Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26). Ngài cũng chẳng phải là Ðấng Bảo Trợ duy nhấtvì còn một Ðấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (Ga 14,16). Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật. Vì lợi ích của họ, Chúa Giêsu sẵn sàng ra đi (Ga 16,7), để nhường chỗ cho Ðấng Cha và Ngài sai đến.
Ta thấy lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô cho các tín hữu Galat luôn cần thiết cho các Kitô hữu: Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước (Gl 5, 25). Thật vậy, khi để Thần Khí hướng dẫn đời mình, người Kitô hữu mới thoát khỏi những đam mê của tính xác thịt, những niềm vui dối trá mà thế gian ban tặng (Gl 5,16.18); và, họ sẽ chiếm hữu được niềm vui thật do chính Ngài ban cho (1Tx 1,6), vì, Chúa Thánh Thần chính là Thầy dạy Chân lý về Thiên Chúa – Đấng giàu lòng xót thương.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là Chúa Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Chúa Giêsu. Cha cũng chẳng tim mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng. “Mọi sự Cha có đều là của Thầy” (c.15) Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha. Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần, Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia. Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên mãn.
“Mọi sự Chúa Cha có đều là của thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (c.15). Câu này chỉ lập lại câu 13 và nhấn mạnh ý nghĩa hơn. Chúa Giêsu như muốn khẳng định lại sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Giêsu nói những lời của Chúa Cha, làm những việc của Chúa Cha, đến nỗi Ngài tóm lại bằng một câu ngắn gọn: Cha và Ta là một (Ga 10, 30).
Ta thấy Chúa Thánh Thần lại lấy những điều nơi Chúa Giêsu mà loan báo cho các môn đệ. Như thế có nghĩa là Chúa Thánh Thần cũng làm công việc của Chúa Giêsu và những công việc ấy cũng phát xuất từ Chúa Cha, khi làm sứ mệnh này, Ngài chính là Thần Khí Sự Thật, vì Ngài đang nói về một sự thật đời đời: Đó là Thiên Chúa Ba Ngôi- sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ.
Chúa Giêsu khẳng định: “khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Ngài sẽ đưa anh em tới sự thật toàn vẹn” (c.13a). Một sự thật về Chúa Cha, về Chúa Giêsu và về Ba Ngôi Thiên Chúa. Một sự thật về Tình Yêu của Thiên Chúa và con đường cứu độ của Ngài. Sự thật ấy đời đời ở trong Ba Ngôi Thiên Chúa, ở nơi cung lòng Chúa Cha. Sự Thật ấy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa: “Ngài không tự mình nói ra, nhưng những gì Người nghe, Ngài sẽ nói lại và loan báo những điều sẽ xảy đến” (13b).
Như thế, Chúa Thánh Thần ở đây đóng vai trò giảng dạy và củng cố niềm tin cho các Tông Đồ. Ngoài ra, Ngài cũng tỏ lộ những điều sẽ xảy ra trong tương lai như một bằng chứng về quyền năng Thiên Chúa của Ngài.
Một sứ vụ khác của Chúa Thánh Thần là tôn vinh Chúa Giêsu “Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (c.14). Như thế, Chúa Thánh Thần là ngôn sứ mới, sẽ nói về Chúa Cha và ở đây Ngài cũng nói về Chúa Con. Ngài tôn vinh Chúa Con trong Chúa Cha, vì việc làm của Chúa Con là thực hiện trọn vẹn chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài chỉ nói lại, chỉ làm sáng tỏ những Mầu Nhiệm nơi Chúa Con, những lời nói hành động của Chúa Con mà các Tông đồ chưa thấu hiểu khi các ông còn ở trong trần gian, còn sống trong xác thịt yếu đuối.
Lãnh nhận niềm vui Phục sinh, mỗi người chúng ta được Hội thánh mời gọi làm cho niềm vui ấy được kéo dài trong từng ngày sống và lan toả đến những người chung quanh, bằng cách để Thánh Thần hướng dẫn đời mình. Nhờ đó, họ trở nên những chứng nhân về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa (Cv 1,8); và, hoa trái của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, quảng đại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, và tiết độ (Gl 5,22-23) sẽ trổ sinh trong cuộc đời của họ.
2020
Làm chứng về Thầy
LÀM CHỨNG VỀ THẦY
Thứ Hai tuần VI PS
Qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Mỗi ngày, ta được Chúa mời gọi trở nên tông đồ của Người trong môi trường đang sống, trong vai trò và bậc sống của mình. Chúng ta chỉ có thể đáp trả ơn gọi của mình khi biết dùng Lời Chúa dệt nên cuộc đời mình mỗi ngày. Hãy sinh hoa kết trái trong bậc sống và hoàn cảnh của mình. Hãy làm sáng danh Chúa trong gia đình, ngoài xã hội, nơi công sở, trên ruộng nương. Hãy làm chứng cho Tin Mừng bằng chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.
Nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu, ta thấy Chúa Giêsu sống và hoạt động với các môn đệ, qua những giờ phút đau thương của cuộc khổ nạn, rồi đến những ngày vui ngập tràn vì Chúa đã Phục Sinh vinh thắng… Tin Mừng hôm nay là những lời nhắn nhủ cuối cùng cho các môn đệ trước khi Chúa Giêsu về trời : “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu”.
Tiền đề lí luận để Chúa Giêsu đòi các môn đệ làm chứng cho Chúa đó là việc các ông “đã ở với Ngài”. Đây là điều kiện cần và đủ dành cho người “làm chứng cho Chúa”. Người ấy phải ở với Chúa. Không có kinh nghiệm “ở với Chúa”, không có kinh nghiệm “sống và hoạt động” cùng với Chúa, không có kinh nghiệm “nên một với Chúa” thì không thể làm chứng cho Chúa.
Theo Chúa đích thực làm cho ta ra khỏi thế gian và vì thế mà bị thế gian ghét bỏ, khai trừ. Nhưng trong những lúc gian nan thử thách như vậy, trong những giây phút cảm thấy trống rỗng và đau khổ trong cuộc đời của người đồ đệ, Chúa Thánh Thần, Ðấng an ủi, Ðấng bảo trợ, mà Chúa Giêsu sai xuống từ Thiên Chúa Cha, Ðấng ấy sẽ đồng hành với các môn đệ và trợ giúp họ, để các ngài được luôn trung thành làm chứng cho Chúa.
Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống của các môn đệ là nền tảng vững chắc cho niềm hy vọng của đồ đệ giữa những thử thách trên trần gian. Và chúng ta nhìn thấy điều này khi đọc qua những trang sách Tông Ðồ Công Vụ, sau khi được Chúa Thánh Thần ngự xuống, các tông đồ như được biến đổi hoàn toàn, từ lo sợ chạy trốn, chuyển sang can đảm, sẵn sàng hy sinh và cương quyết phục vụ. Trong lúc gặp thử thách, trước mặt những người quyền thế ngăn cấm không được làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, các tông đồ can đảm trả lời công khai: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người”.
Nếu chúng ta không ở với Chúa mà chúng ta làm chứng, thì những lời chứng của chúng ta chỉ là “nói lại điều người khác nói”, “trích lại điều đã trích”. Không ở với Chúa, không cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa thì việc làm chứng không có nền tảng, gặp một điều khó khăn sẽ bỏ cuộc tháo chạy. Khi sai các tông đồ đi làm chứng cho Ngài, Chúa Giêsu đã nói : “vì anh em đã ở với Thầy ngay từ đầu”. Các tông đồ ra đi và họ làm chứng về những điều họ đã cảm nhận…
Chúng ta dễ dàng thấy Chúa Giêsu sử dụng nền tảng cho lý luận tiền đề khi Ngài muốn các tông đồ làm chứng cho Ngài đó là : như Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng ban nguồn lực cho các tông đồ, Đấng đã nên một với Chúa Giêsu trong màu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa “đã làm chứng” về Chúa Giêsu ; thì các tông đồ những người đã nên một với Chúa Giêsu “cũng phải làm chứng” về Chúa Giêsu. Đã ở với Chúa, đã nên một với Chúa, tất nhiên đã đủ điều kiện làm chứng cho Chúa.
Ðây là kinh nghiệm sống chứng nhân của thánh Phaolô tông đồ khi ngài tâm sự trong thư thứ hai Corintô chương 4, câu 7 và các câu tiếp theo như sau: “Thiên Chúa làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên dung mạo Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình sành để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp, gian nan nhưng không tuyệt vọng, bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình của chúng tôi”.
Người Kitô hôm nay, khi kà môn đệ của Chúa Giêsu, cần xét lại thái độ sống chứng nhân của mình. Có hai thái cực cần tránh đi, không thể có thái độ vênh vang tự đắc, cũng không được qụy lụy chiều theo qui mô của kẻ chống đối Chúa, cần sống khiêm tốn nhưng đồng thời can đảm mạnh mẽ trong việc phục vụ, chấp nhận phiền phức mà trong lòng vẫn vui tươi.
Khi làm chứng cho Chúa Giêsu, chúng ta không nên chờ đợi sự dễ dàng nhưng phải sẵn sàng mang lấy cuộc thương khó của Chúa Giêsu nơi thân mình, sẵn sàng đón nhận sự chống đối thù hận của những kẻ không biết Thiên Chúa Cha và cũng không biết Chúa Giêsu Kitô. Trong sự yếu đuối mỏng dòn của chính bản thân, chúng ta luôn cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta. Chính Ngài làm chứng cho Chúa Giêsu và chúng ta cần để mình chìm sâu trong sức mạnh của Ngài để cùng với Ngài làm chứng cho Chúa.
2020
Người môn đệ sẽ bị ghét bỏ
16.5.2020
Thứ Bảy
Ga 15, 18-21
NGƯỜI MÔN ĐỆ SẼ BỊ GHÉT BỎ
Trang Tin Mừng hôm nay đã mở ra cách riêng cho người môn đệ và chung cho cộng đoàn của những người theo Chúa Giêsu một viễn ảnh chẳng mấy tốt đẹp: “Vì danh Thầy, họ sẽ bị thế gian bắt bớ và ghét bỏ”. Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, thế gian không có nghĩa là toàn thế giới, vì vũ trụ là công trình tác tạo do tình yêu của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã cho họ biết trước rằng làm môn đệ Ngài thì phải chấp nhận bị thế gian thù ghét. Nhưng thực tế, chúng ta một mặt tránh làm những gì khiến thế gian thù ghét mình, mặt khác còn tìm cách để thế gian yêu thương chiều chuộng mình. Hẳn là chúng ta không nên cố tình chọc tức thế gian, nhưng không nên quên lời Chúa nói: Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
Chúa Giêsu cũng không được miễn trừ khỏi cái lệ thường của thế thái nhân tình về sự ganh ghét của người đời. Chính vì vậy Chúa Giêsu cảnh tỉnh các môn đệ: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” Thế gian ở đây theo thánh Gioan là một thế giới đã bị quyền lực Xatan thống trị. Do đó, sự hiện diện của Chúa đã phân tách thế giới rạch ròi giữa ánh sáng và bóng tối, và Chúa trở thành cớ cho những kẻ ở trong bóng tối ghét bỏ Ngài và những người sống theo ánh sáng. Như vậy, cùng với Chúa Giêsu, các môn đệ Ngài luôn bị bách hại, tấn công, quấy rầy, nhưng Chúa đã mạnh mẽ trấn an: “Các con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian.”
Và ta thấy thế gian được hiểu là thế lực của sự dữ, của tất cả những gì đối nghịch cùng Thiên Chúa. Mà khi bước theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, mặc nhiên người môn đệ đã chấp nhận dấn thân vào một đối đầu không khoan nhượng. Trong đó, họ sẽ lãnh lấy phần thua thiệt để phải hy sinh cả mạng sống. Ðiều này không chỉ xảy ra trong Giáo Hội thời sơ khai, nhưng mãi mãi cho đến hôm nay vẫn luôn còn bị bách hại.
Chúa đã soi sáng cho chúng ta: “Vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15, 19). Thế gian mà Chúa nói đến ở đây là một thế gian đố kỵ và thù nghịch với Thiên Chúa, Đấng chân thật, tràn đầy tình yêu và sự sống. Thánh Phaolô cũng mô tả: Đó là một thế gian “ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn,.. vô ơn bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc” (2 Tm 3, 2 – 4). Kết cục của nó sẽ là sự diệt vong, hư mất đời đời.
Hơn nữa, mỗi giai đoạn lịch sử có những cách thế bách hại riêng. Không có những cuộc đổ máu công khai ảnh hưởng đến trào lưu văn hóa, văn minh thế giới, thì có những cuộc đổ máu âm thầm, bị khỏa lấp bởi những ngụy tạo nhân danh công lý. Thế giới càng văn minh thì hình thức bách hại càng tinh vi, tinh vi đến độ người bị bách hại chẳng nhớ ra rằng: mình đang khốn khổ, hứng chịu bắt bớ mà tưởng rằng đưa tay ra đón nhận ân huệ. Người ta đẩy mình đến chỗ tiêu diệt mà tưởng họ đang giúp mình xây dựng.
Bất cứ thời nào cũng có những bắt bớ và ghét bỏ. Thế nhưng, có phải vì viễn ảnh đen tối ấy mà các môn đệ của Chúa Giêsu thất vọng chùn chân: “Chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con”. Lời khẳng định của Chúa Giêsu sẽ soi sáng và nâng đỡ cho những ai đang đối mặt với thử thách: “Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”.
“Vì các con không thuộc về thế gian…nên thế gian ghét các con”. Người thế gian coi tiền bạc trọng hơn đạo đức, lọc lừa nhiều hơn là chân thật, ai cũng ích kỷ lo cho bản thân, thậm chí chà đạp lên người khác… Kitô hữu không thể sống như họ, cho nên bị họ thù ghét. Vậy, nếu vì phải sống theo lý tưởng tốt đẹp của mình mà bị thế gian thù ghét, chúng ta hãy chấp nhận.
“Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước”. Chúng ta chấp nhận bị thế gian thù ghét vì lý do chúng ta làm môn đệ Chúa, chúng ta phải vác Thập giá hằng ngày mà theo Chúa.
“Giả như anh em thuộc về thế gian, thế gian yêu thích những gì thuộc về nó. Nhưng anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian nên thế gian ghét anh em”.
Bắt bớ bây giờ không còn là một đe dọa, nhưng là dấu chỉ hy vọng, dấu chỉ thuộc về Ðức Kitô. Và cũng thật ý nghĩa trong câu nói của Tertulianô: “Máu tử đạo là những hạt giống nảy sinh ra các Kitô hữu”. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con những điều đó bởi vì họ không biết Ðấng đã sai Thầy, không biết nên đã làm. Vậy nếu biết chắc chắn họ đã không làm.
Thái độ trung thành anh dũng và vui mừng khi chịu thử thách của các vị tử đạo là lời giới thiệu hùng hồn đậm nét về Thiên Chúa. Trong cái chết tủi nhục của Chúa Giêsu trên Thập Giá, viên lãnh binh đã tuyên xưng: “Ông này thật là Con Thiên Chúa”.
Là những người tin vào Chúa Kitô, chúng ta không thuộc về thế gian đang trên đà diệt vong của nó. Nhưng Chúa cũng không cất chúng ta ra khỏi thế gian. Chúa đã chiến thắng thứ thế gian tội lỗi ấy rồi và Chúa đang mời gọi ta hãy can đảm dấn thấn để chiến thắng thế gian: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu kitô của chúng ta. Mang danh hiệu kitô là tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Thập giá của Chúa Kitô, nhưng chúng ta tin chắc rằng nhờ tham dự vào mầu nhiệm khổ nạn và Thập giá ấy mà chúng ta góp phần vào việc cứu rỗi và canh tân thế giới. Khổ đau mà các kitô hữu đang phải gánh chịu vì Danh Chúa Giêsu là hạt giống trổ sinh những hoa trái của niềm tin.