2020
Đón nhận khổ đau
26/09/2020
Thứ Bảy Tuần XXV Mùa Thường Niên
Lc 9, 44b-45
ĐÓN NHẬN KHỔ ĐAU
Sống trên cuộc hồng trần này, mầu nhiệm về khổ đau luôn là điều bí nhiệm. Các nhà hiền triết, các bậc thánh nhân, các nhà tiên tri và tri thức thần bí… từ ngàn đời đã trăn trở tìm kiếm để cho đau khổ một ý nghĩa. Sách sáng thế cho thấy đau khổ là hậu quả tất nhiên của tội lỗi, của việc con người không vâng phục những lời dạy bảo của Thiên Chúa, hay nói khác đi đầu mối của nó chính là sự kiêu ngạo, bất tuân đường lối, thánh ý Người.
Chúa Giêsu đã đón nhận khổ đau, Ngài đã biến khổ đau thành hiến lễ tình yêu, do đó khổ đau đã trở thành nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy vác lấy thập giá mình mà đi theo Ngài. Mỗi ngày có nỗi khổ riêng của ngày đó, hạnh phúc hay không, bình an hay không, là tùy con người có biết đón nhận khổ đau với tình yêu hay không.
Đối với niềm tin Kitô của chúng ta, đau khổ còn luôn có một giá trị trong việc tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa – thánh ý đã muốn cho con người được hạnh phúc nhờ sống yêu thương như chính Thiên Chúa là tình yêu. “Đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các mộn đệ rằng: “Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời”” (c. 43b – 44).
Trong Tin Mừng hôm nay, khi loan báo cuộc khổ nạn của Ngài, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài hãy đối đầu với khổ đau, nếu khổ đau là thành phần thiết yếu của cuộc sống. Vấn đề không phải là chối bỏ hiện thực của khổ đau hay tìm cách tránh né khổ đau, mà là đối đầu với nó. Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta cách thế đối đầu với khổ đau, đó là chấp nhận khổ đau với tình yêu. Ðau khổ mà không có tình yêu thì chỉ là hỏa ngục mà thôi.
Xem chừng tất cả các vấn đề của con người đều được gắn liền với khổ đau. Vì không muốn chấp nhận khổ đau mà con người gây ra bao nhiêu tội ác, vì không muốn hy sinh mà một người mẹ đang tâm giết đứa con trong lòng mình, vì không muốn thấy người thân đau khổ mà người ta giết họ một cách êm dịu, vì không muốn đối đầu với thực tại khổ đau mà người ta tìm quên trong men rượu, ma túy và mọi thứ kích thích khác: hỏa ngục là như thế đó.
Người ta bỡ ngỡ, kinh ngạc về điều gì? Chúng ta hãy đọc lại những trình thuật bên trên của cùng chương 9: Sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô: “Ngài là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20b), Đức Kitô “tiên báo cuộc thương khó lần nhất”; Khoảng tám ngày sau, Ngài hiển dung trên núi cao (Ta-bo) (Lc 9, 28 – 36); rồi hôm sau, Chúa Giêsu chữa lành bệnh đứa trẻ bị bệnh kinh phong khiến mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Thiên Chúa (Lc 9, 37 – 43) – và chính lúc này đây, Chúa Giêsu “tiên báo cuộc thương khó lần hai” cho các môn đệ, nhưng “các ông vẫn không hiểu.” Tin mừng nói “các ông không hiểu, vì nó còn bị che khuất” (mắt các ông còn bị ngăn cản).
Tại sao mắt các ông lại bị ngăn cản? Thưa, vì những vinh quang đã làm mờ mắt các ông. Dù gì khi theo Chúa Giêsu, các môn đệ hiển nhiên vẫn có những tính toán; như Phê-rô đã có lần thưa với Chúa Giêsu: “Thưa thầy, chúng con đã bỏ tất cả mọi sự mà theo thầy, chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27).
Cũng thế, khi tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”, trong lòng các môn đệ vẫn mơ đến một Đấng Kitô – Messia của trần thế ‘đầy quyền lực và vinh quang’ sẽ khôi phục và làm cho Israel trở thành tiếng tăm lẫy lừng; và điều hiển nhiên là các ông sẽ có một tương lai huy hoàng với chức tước và bổng lộc vì lý do đó mà “Mắt các ông bị ngăn cản!” Và điều Chúa Giêsu nói: “Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời” (c.44b) khiến các ông không thể hiểu được, “không thể lĩnh hội được”.
Không chỉ với các môn đệ, ngày nay đối với chúng ta, đau khổ, thập giá vẫn luôn là điều khó hiểu. Nhất là chúng ta không thể hiểu nổi tại sao người công chính cứ gặp gian nan, khốn khó, thất bại và bị bách hại, còn phường gian ác lại cứ nhởn nhơ sung sướng.
Hơn nữa, trước mặt người đời, Thập giá luôn là điều khờ dại; vì con người sự thường ai mà không thích thảnh thơi, dễ dãi, ai mà không thích được thành đạt, ca ngợi, tôn vinh, ai mà không thích sung sướng, vui vẻ…. Nhưng Chúa Giêsu đã cho thấy một chân lý khác – chân lý của “một hạt lúa mì không thể sinh hoa kết trái nếu không phải chịu mục nát và thối rữa đi” và có “gieo trong lệ sầu mới gặt trong hân hoan vui sướng”.
Chính vì vậy mà khi các môn đệ đang phơi phới hân hoan, và mơ tưởng những ‘vinh quang phù phiếm’ thì Chúa Giêsu tuyên bố: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”; Đồng thời người cho biết ai muốn làm môn đệ bước theo dấu chân Người không thể không ôm ẵm, vác thập giá hằng ngày mà đi theo Người. (Lc 9, 23). Các môn đệ đã không hiểu không dám hỏi và cũng chẳng muốn đối diện với điều xem ra ‘ngược đời’ ấy. Và chỉ Thần khí của Đấng phục sinh – Thánh Thần của Thiên Chúa mới làm cho các môn đệ hiểu để rồi như Chúa Giêsu các ngài đã giơ tay ôm ẵm Thập giá để loan truyền Tin mừng tình yêu của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nhấn mạnh tính quan trọng của điều Ngài sắp nói bằng cách lưu ý các môn đệ phải “nghe cho kỹ” lời Ngài. Ngài tiên báo cuộc Thương khó sắp đến: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời”. Luca tường thuật rõ: các môn đệ không nhận ra ý nghĩa lời tiên báo vừa rồi của Chúa Giêsu, bởi vì đối với các ông, “lời đó còn bí ẩn”. Họ từng xây dựng một hình ảnh và đặt niềm tin về một Thiên Chúa quyền lực vinh quang, nên đã trở nên xa lạ hay khó chấp nhận một Thiên Chúa chịu đau khổ và chịu chết.
Khổ đau không bao giờ buông tha chúng ta. Chỉ có điều chúng ta đối đầu với chúng trong sự tiêu cực thì chính khổ đau sẽ vùi dập cuộc đời và nó sẽ làm cho chúng ta thất vọng. Còn nếu chúng ta đón nhận nó trong lòng mến Chúa và sứ vụ thì sẽ bình an và đôi khi hạnh phúc hiện lên từ những gian nan khốn khổ. Bởi lẽ, theo niềm tin của người Công Giáo thì: “Qua đau khổ mới được vào vinh quang”.
Như các môn đệ sau biến cố ‘vượt qua và Phục sinh’, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần mở trí, mở mắt tâm hồn để hiểu được con đường thập giá tình yêu mà Chúa Giêsu đã chọn để làm giá cứu chuộc muôn người.
Và rồi ta cũng xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta đủ tình yêu và sức mạnh để đi trọn con đường thử thách gian nan; Bởi vì như thánh Phaolô, người đã coi cuộc đời này là một trận chiến, một thao trường mà chúng ta phải chiến đấu để dành cho được ngành lá thiên tuế – ngành lá chiến thắng; Do đó mà không có sự dễ dãi, thoải mái hay hưởng thụ ích kỷ cho người môn đệ. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ có cho người biết gieo rắc tình yêu thương, Mà đường yêu thương là con đường hy sinh và dâng hiến.
2020
Sống niềm tin vào Chúa
Thứ Sáu Tuần XXV Mùa Thường Niên
Lc 9, 18-22
SỐNG NIỀM TIN VÀO CHÚA
Trong Tin Mừng mỗi khi trình bày việc Chúa Giêsu đi cầu nguyện một mình thì thường là sau đó, Chúa có những quyết định quan trọng cho sứ vụ cứu thế của Ngài. Trước khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ theo Ngài, Ngài cũng lên núi và cầu nguyện suốt đêm. Tin Mừng hôm nay, cũng trình bày việc Chúa Giêsu đi cầu nguyện một mình trước khi Ngài đặt câu hỏi cho các môn đệ về căn tính của Ngài : “Đám đông nói Thầy là ai ?” “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
Các môn đệ đã trả lời cho Chúa Giêsu như một thông tin về đám đông đang nghĩ gì về Chúa. Ngài có thể như là : “Ông Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ vĩ đại Êlia, hoặc là một ngôn sứ nào đó đã sống lại.” Những nhân vật ấy đã từng xuất hiện giữa dân và có ảnh hưởng đặt biệt quan trọng trên đám đông dân chúng đang chịu cảnh áp bức của đế quốc.
Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”. Mỗi người chúng ta cũng cần phải tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và sống như Ngài.
Nhận ra Đức Kitô
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?” Dư luận dân chúng Do Thái chưa nhận rõ Đức Giêsu là Chúa.
Phêrô đã trả lời đúng, vì Chúa Giêsu quả là Đấng Kitô hay còn gọi là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi từ bao đời. Đấng ấy được xức dầu để lên làm vua của dân tộc Israel. Nhưng có thể Phêrô ngộ nhận về khuôn mặt của Đấng Mêsia đó. Chúa Giêsu không phải là Đấng Mêsia sẽ giải phóng dân Israel khỏi ách đế quốc Rôma, cũng không phải là người muốn lên làm vua trần thế. Nhưng Ngài sẽ phải chịu khổ hình bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại.
Như thế, Chúa Giêsu là Đấng Mêsia mang khuôn mặt của Người Tôi Trung đau khổ như được trình bày trong sách ngôn sứ Isaia đệ nhị.
Thật đau lòng về con người thời đại ngày nay, con số những người chưa nhận biết Đức Giêsu dường như ngày càng gia tăng.
Thật đau lòng, bởi nhiều người trong chúng ta, dù đã được rửa tội, là con cái Chúa và Hội Thánh, đọc kinh cầu nguyện, đi lễ, nghe Lời Chúa,…thế nhưng, qua cách sống của chúng ta, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung và mờ nhạt.
Chúa hỏi lại các môn đệ : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Hôm nay Chúa cũng hỏi lại chúng ta câu hỏi đó : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Vì thế, việc nhận ra Đức Kitô vẫn còn là một thách đố đối với với con người thời nay, cách riêng từng người tín hữu Kitô.
Tuyên xưng đức tin
Phêrô tuyên xưng đức tin “Thầy là Ðấng Kitô” được như thế là nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần mạc khải cho ông.
Chính nhờ lời tuyên xưng về căn tính của Thầy mình như Phêrô, đủ để làm chứng rằng : những ai đi theo Đức Kitô và làm môn đệ của Ngài, mới có thể xác tín được niềm tin của mình một cách chắc chắn, rõ nét; Bởi, niềm tin đó xuất phát từ nội tâm; bắt nguồn từ một cuộc gặp gỡ và khám phá ra Đức Kitô là Chúa và là Thầy; xuất phát từ lòng yêu mến Chúa cách chân thành, sâu xa và hoàn toàn mang tính thánh thiêng tuyệt vời.
Có niềm tin mạnh, chắc chắn Phêrô và kể cả các môn đệ khác mới sẵn sàng đi theo Đức Giêsu cho đến cùng, noi gương bắt chước đời sống của Thầy, sẵn sàng cùng chết với Thầy và cùng sống lại với Ngài trong vinh quang.
Sống niềm tin vào Đức Giêsu : trở nên giống Ngài
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô là điểm quan trọng nhất của tất cả các môn đệ.
Nếu chúng ta tin ai, thì chúng ta phải biết rõ về người đó, đi theo người đó, hết lòng yêu mến người đó. Chúng ta thần tượng người đó, bắt chước từng nét từng nét của thần tượng.
Nếu mỗi người tín hữu Kitô hôm nay khi đã tin vào Đức Kitô, hãy cố gắng bắt chước Ngài nhiều hơn.
Chúng ta biết về Chúa, học hỏi nhiều về Chúa, nhưng chưa đủ. Chúng ta còn cần phải đi theo Ngài, sống như Ngài, say mê Ngài, yêu mến Ngài , gắn bó với Ngài.
Thử hỏi chúng ta đã được giống như Chúa Giêsu nhiều hay ít, giống ở những điểm nào.
Sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu bổ nhiệm ông làm người lãnh đạo Hội Thánh và là người gìn giữ chìa khóa Nước Trời.
Nhưng chỉ ngay sau đó, ông đã can ngăn Chúa đừng đi Giêrusalem chịu chết. Phêrô đã tuyên xưng đức tin vào Chúa, nhưng ông còn nhiều yếu đuối, nhiều thiếu sót trầm trọng.
Trên hành trình đức tin của chúng ta, còn nhiều chông gai, khiến chúng ta ngã gục, tội lỗi, sa ngã…chính những lúc sa ngã, Chúa vẫn mời gọi chúng ta “Hãy theo Thầy”.
Chúng ta đi theo Chúa không phải bởi sức mạnh của chúng ta, nhưng nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và hãy sống cuộc sống của một người môn đệ.
Hôm nay Chúa Giêsu, Đấng Mêsia đã sống lại từ cõi chết vẫn đang hỏi mỗi người chúng ta: “Còn con, con bảo Thầy là ai ?” Mỗi người chúng ta sẽ phải trả lời như thế nào trước câu hỏi của Chúa Giêsu mà Ngài vẫn đang hỏi chúng ta trong từng chặng của cuộc đời ? Tôi phải cần biết Ngài là ai đối với cuộc đời của tôi, bởi lẽ tôi sẽ không đi theo Đấng mà tôi không hề biết.
Dựa vào từng ngày từng ngày sống và từng chặng kinh nghiệm trong cuộc đời, chúng ta có thể khám phá ra khuôn mặt của Chúa Giêsu khác nhau. Có lúc Ngài là Đấng ban phát ơn lành cho tôi. Có lúc Ngài là bạn đồng hành với tôi khi tôi gặp đau khổ, tuyệt vọng và bị bỏ rơi nhất. Có lúc Ngài là người tôi yêu nhất khi tôi quyết định dấn thân vào đời sống tận hiến để phục vụ Tin Mừng.
2020
Dấu hỏi cho người khác
24/09/2020
Thứ Năm Tuần XXV Mùa Thường Niên
Lc 9, 7-9
DẤU HỎI CHO NGƯỜI KHÁC
Qua lời nói, việc làm, và nhất là cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng Vua Hêrôđê, ông tiến thêm một bước là muốn đến gặp Chúa Giêsu.
Hôm nay nhân loại vẫn thắc mắc và tìm hiểu về Chúa Giêsu. Người ta vẫn đang cố đi tìm hiểu về một con người Giêsu của lịch sử. Nhiều nhà khảo cổ học, lịch sử học vẫn ra sức nghiên cứu để trả lời cho nhân loại trước những câu hỏi tò mò về con người lịch sử của Chúa. Nhiều nhà văn, đạo diễn đã hư cấu, đưa ra những chi tiết giật gân về cuộc đời Chúa Giêsu nhằm thu hút mọi người mua sản phẩm của họ. Những điều như thế không bao giờ giúp cho nhân loại hiểu về Chúa Giêsu là ai.
Chúng ta chỉ có thể biết về Chúa Giêsu bằng đức tin của mình. Đức tin không phải do nổ lực suy tư của bộ óc nhưng trước hết đó là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Lời của Chúa Giêsu nói với Tôma cũng là lời mang đến niềm an ủi lớn lao cho chúng ta : “Vì con đã thấy Thầy nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời chúc phúc này đòi hỏi người tin cần thay đổi lối nhìn, lối nghĩ, theo kiểu đời thì mới có thể nhận ra Chúa Giêsu là ai và Thiên Chúa ấy có ý nghĩa như thế nào cho cuộc đời của chúng ta. Nếu không thì chúng có thê như Hêrôđê, vẫn gặp thấy Ngài nhưng mãi mãi vẫn không biết Ngài là ai !
Đọc lại khi khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu, khởi sự bằng việc Chúa nhận phép rửa Gioan trên sông Giođan. Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa đang tiến về phía mình, Gioan đã giới thiệu với dân chúng biết về Chúa Giêsu: “đây chiên Thiên Chúa đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29). Lời giới thiệu của Gioan đã khẳng định sứ vụ và ơn cứu độ của Chúa sắp được tỏ hiện giữa trần gian.
Sau những năm tháng Chúa Giêsu ẩn dật sống dưới mái ấm gia đình Thánh Gia. Người bắt đầu công khai lộ diện công bố Tin Mừng cứu độ giữa dân chúng, danh tiếng Chúa đã vang cùng khắp nơi, vì Người đã đem tin lành đến cho muôn dân, qua những phép lạ Người đã làm cho dân chúng, những lời giáo huấn của Chúa đã cuốn hút khán giả đến lạ thường, dân chúng chỉ còn biết nghe quên cả ăn nghỉ, nhìn thấy đoàn dân đông đảo đi theo Người, khiến Chúa phải chạnh lòng thương họ, chữa lành nhiều bệnh nhân. (Mt 14, 13-21).
Người đã hai lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều qua cử chỉ bẻ bánh đầu tiên của Chúa, từ đó mọi người cùng chuyền nhau bẻ bánh và trao cho nhau, cứ thế từ năm chiếc bánh và hai con cá đã được nhận ra hàng ngàn chiếc bánh, hàng nghìn con cá. (Mt 15, 32-39). Bốn sách Tin Mừng còn ghi chép nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu đã làm trong dân chúng. Riêng Tin mừng Thánh Gioan viết câu kết: “Còn có nhiều điều khác Ðức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”. (Ga 21 ,25)
Những việc Chúa làm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Hêrôđê cũng biết tất cả những việc Chúa làm, và ông cũng muốn tìm cách để gặp Người. Nhưng điều đáng tiếc Hêrôđê đã không tìm đến để gặp Chúa, vì trong ý nghĩ của Hêrôđê muốn tìm cách gặp Chúa không giống như các trường hợp khác được ghi chép trong các sách Tin Mừng như: niềm tin của người phụ nữ bị bệnh băng huyết lâu năm chen lấn giữa đám đông để mong chỉ đụng được vào gấu áo của Người (Mc 5, 25-34), như anh chàng Bartimê thành Giêricô mù từ thuở mới sinh kêu gào gọi tên Giêsu khi Người đi ngang qua anh ta (Mc 10, 46-52) hay trường hợp ông Gia-kêu nghĩ ra cách trèo lên cây sung để dễ dàng nhìn thấy Chúa (Lc 19, 1-10).
Đặc biệt hơn với lòng tin của viên đại đội trưởng xin Chúa chữa cho đầy tớ đang nằm liệt bệnh ở nhà (Lc 7, 1-10). Tất cả họ đến gặp Chúa trong tâm tình yêu mến phát xuất tự trong đáy lòng họ. Họ đến với Chúa vì họ tin tưởng vào ơn cứu độ Chúa sẽ ban cho họ. Với Hêrôđê ông ta muốn tìm cách gặp Người chỉ vì hiếu kỳ, muốn được nhìn thấy Người làm phép lạ để ông ta xem. Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả vì Gioan đã mạnh dạn lên tiếng về thái độ của Hêrôđê muốn chiếm đoạt vợ của em mình (Lc 3, 19), tuy Hêrôđê nể phục Gioan nhưng ông không biết sửa những điều mình làm sai, qua những lời Gioan đã góp ý với ông, Hêrôđê đã bị nhục dục làm chủ, chỉ vì một lời hứa với con gái người tình, mà ông đã ra lệnh chém đầu Gioan (Mc 6, 17-29).
Đặt trường hợp nếu Hêrôđê có dịp gặp Chúa Giêsu, thì chắc chắn ông sẽ bị Chúa Giêsu phê phán cách kịch liệt hơn. Trong suốt ba năm Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Hêrôđê không được hạnh phúc nhìn thấy Chúa, chỉ một lần duy nhất được diện kiến Chúa khi Người bị bắt giải từ dinh tổng trấn Philatô sang cho Hêrôđê. (Lc 23, 8).
Qua con người và cuộc đời của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta cảm nhận rằng Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ, giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Thiên Chúa không là gì khác ngoài Tình Yêu. Ngài có thể làm tất cả vì Ngài Toàn Năng, nhưng đúng hơn, Ngài chỉ có thể làm những gì mà tình yêu có thể làm, và Ngài không thể làm những gì trái với tình yêu, vì bản chất của Ngài là yêu thương.
Chúng ta được mời gọi trở nên một Đức Kitô khác để người khác nhìn vào chúng ta thấy chúng ta là hiện thân của Chúa. Xin cho chúng ta ngày mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, trở nên hiện thân của Chúa giữa cuộc đời này hơn.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.
2020
Rao giảng Tin Mừng
23/09/2020
Thứ Tư Tuần XXV Mùa Thường Niên
Lc 9, 1-6
RAO GIẢNG TIN MỪNG
Ngoài năng lực và quyền phép mà Chúa Giêsu trao cho, các môn đệ hầu như chẳng có gì gọi là của họ trong hành trang khi lên đường rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Điều này có thể khiến độc giả khó hình dung mức độ thực tế trong yêu cầu của Chúa Giêsu hoặc khó hiểu được để chấp nhận yêu cầu xem ra phi thực tế này.
Tuy vậy, với tâm tình yêu mến và khát khao gặp gỡ Chúa qua Lời Ngài, tôi, bạn và anh chị ta cùng đọc lại và dừng lâu hơn trong từng câu chữ, hy vọng với ơn sáng soi của Thần Khí Chúa, ta nhận ra, hiểu được, đón nhận và sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay.
Trước hết, bản văn cho biết Nhóm Mười Hai được Chúa Giêsu cho tham dự vào sứ mạng rao giảng Nước Thiên Chúa của Ngài. Sứ mạng này là hồng ân nhưng không và không thể được thực hiện nếu các ông không có ơn trên, nếu các ông không tuân thủ những quy định và hướng dẫn của Chúa Giêsu. Vì thế, Chúa Giêsu đã trao năng lực và quyền phép của Ngài cho họ; đồng thời đưa ra những chỉ thị cụ thể để họ thực hiện như không mang gì khi đi đường, ở lại nơi được tiếp đón cho đến lúc ra đi, dứt khoát rời khỏi ngay nơi bị chối từ.
Kế đến, ta cùng tìm hiểu ý hướng của Chúa Giêsu trong các việc trên. Sứ mạng rao giảng Nước Thiên Chúa hoàn toàn không phải là sáng kiến của con người, nhưng nằm trong kế hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Vì vậy, uy tín con người hoặc năng lực phàm nhân không thể được tận dụng, mà chắc chắn phải là ân sủng từ trời. Chia sẻ sứ mạng của thầy, Nhóm Mười Hai chỉ có thể thực hiện sứ mạng ấy với năng lực và quyền phép của Thầy.
Trên đường sứ vụ, Chúa Giêsu không muốn các môn đệ bị phân tâm bởi những hành trang vật chất và tiện nghi, dù chỉ là những thứ thiết yếu như chiếc gậy để tự vệ và vài món đồ để dự trữ, phòng xa. Ngài muốn họ hoàn toàn cậy trông vào tình yêu toàn năng và sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài muốn họ đón nhận sự bấp bênh, sự thiếu an toàn, sự lệ thuộc vào Thiên Chúa và vào con người.
Hơn thế nữa, trong tương quan với anh chị em, Chúa Giêsu muốn các môn đệ không tìm kiếm tiện nghi hay sự trọng vọng khác biệt. Ngài muốn các ông trở nên mọi sự cho mọi người qua lối sống gần gũi, hòa mình vào cuộc sống của dân để giúp dân dễ đón nhận Tin Mừng.
Không những thế Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài bình thản và dứt khoát chấm dứt tương quan khi đối diện với thách đố lớn nhất là sự dửng dưng, vô cảm, chối từ, thậm chí là chống đối nơi những con người đã được nghe loan báo về Nước Thiên Chúa.
Để thực thi sứ mệnh cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã tuyển chọn mười hai môn đệ và sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Như các thể chế ở trần gian khi thành lập, họ cũng sai các đệ tử của họ đi tuyên truyền chủ trương đường lối của họ. Còn Chúa Giêsu khi sai các ông đi, Người đã “ Ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật”.
Đây là điều đặc biệt mà mọi tổ chức người đời không có được.Người cũng dặn các ông hãy ra đi với đời sống đơn sơ thôi, đừng cầu kỳ rườm rà với hành trang mà làm giảm sút công việc chính yếu là rao giảng Nước Thiên Chúa: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bì, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo”.
Các ông được sai đi, những người đã được ở với Chúa, được Người dạy bảo, đã mang theo cách ăn nết ở, cả tấm lòng yêu thương của Thầy mình. Lại còn được ban thêm “Năng lực và quyền phép” từ ơn trên. Như vậy là các ông ra đi còn có sức mạnh của Chúa đồng hành trên mọi nẻo đường.
Vì thế từ những con người đơn sơ nghèo nàn chất phác đã trở nên những con người cách mạng vĩ đại của nhân loại. Một cuộc thu phục con người bằng tình yêu. Mười hai con người hôm xưa chính là mười hai trụ cột của ngôi nhà giáo hội Thiên Chúa. Ngày nay nơi ngôi nhà này đã có 4.000 giám mục, 400.000 linh mục và hàng tỷ người tín hữu. Họ cùng một niềm tin, đức cậy đức mến tất cả đều có sức mạnh Chúa Thánh Linh ở cùng. Họ là những cái xà, cái kèo, những viên gạch viên đá làm nên ngôi nhà giáo hội mà như thánh Phaolô mô tả: “Trong Người toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa”.
Đòi hỏi của Chúa Giêsu với Nhóm Mười Hai trông có vẻ ngược đời. Bởi lẽ, dù không phải sống trong cảnh xa hoa, giàu có, nhưng những nhu cầu thiết yếu như: giày dép, lương thực, tiền bạc… xem ra là những phương tiện cần thiết để chu toàn sứ vụ. Thế nhưng, điều Đức Giêsu muốn nơi các tông đồ là sự dấn thân trọn vẹn: hãy bỏ tất cả những quyến luyến, những vướng bận của vật chất để chỉ tập trung cho sứ vụ mà thôi. Vì chỉ khi sống và thực hành được điều đó, Nước Trời mới được loan truyền cách mau lẹ nhất.
Hơn nữa, không vướng bận đến của cải vật chất cũng có nghĩa là để cho Chúa làm chủ cuộc đời và sứ vụ của mình. Nước Trời được loan báo, người bệnh được chữa lành (Lc 9,2) thì không phải do công lao hay những phương tiện vật chất mang lại nhưng tất cả là do quyền năng của Chúa. Người môn đệ chỉ là công cụ trong việc thực thi Lời Ngài mà thôi.
Do vậy, sống tinh thần nghèo khó, sống khiêm tốn và phó thác mọi sự trong tay Chúa là điều mà người môn đệ Đức Kitô cần học và hành trong suốt cuộc đời của mình. Sống nghèo trong Đức Kitô để thế giới được giàu, vì lúc đó ta biết lấy cái giàu của Thiên Chúa để phân phát cho tha nhân.