2021
TÌNH YÊU “MẤT TRÍ”
23.1
Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
Dt 9:2-3,11-14; Tv 47:2-3,6-7,8-9; Mc 3:20-21
TÌNH YÊU “MẤT TRÍ”
Trải qua hơn hai ngàn năm, tình yêu Giêsu vẫn còn mãi tiếp tục trải rộng nơi những con người biết đón nhận và tin tưởng vào tình yêu của Người. Tình yêu đó ngời sáng trong đêm tối của nhân loại như tình của các bậc quân vương (vua Luy), nữ hoàng (Elisabeth) đã không kể danh vọng địa vị để phục vụ người nghèo, hoặc tình của một Mac-ti-nô vị tông đồ bác ái không mệt mỏi, hay gần chúng ta nhất – tình của Tê-rê-sa Cancutta mẹ của những người hấp hối cùng khổ và được cả thế giới gọi là mẹ…. và còn rất nhiều nữa những con người mang trong mình tình yêu Giê-su, sẵn sàng hiến cả cuộc đời để phục vụ và mang hạnh phúc cho tha nhân, cho thế giới đang quay quắt trong đau khổ, hận thù, ích kỷ và bị chìm đắm trong những đam mê dục vọng và giả dối sai lầm.
Tin mừng hôm nay dù vỏn vẹn có hai câu, nhưng lại phản ánh cách rõ ràng mầu nhiệm hủy mình ra không của Chúa Giêsu vì ơn cứu chuộc con người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ.
Cụ thể, Chúa vừa cùng với các môn đệ trở về sau chuyến đi rao giảng Tin mừng cho đám dân chúng bơ vơ, vất vướng, chưa kịp ăn uống, nghỉ ngơi gì, thì những người họ hàng tới để bắt Ngài đưa về nhà vì nghĩ rằng Ngài bị mất trí.
Nếu ta nhìn vào công việc của Chúa Giêsu chỉ bằng con mắt trần gian, xác thịt thôi, thì chắc chắn ta cũng giống như những người họ hàng của Ngài, nghĩa là ta cũng dễ dàng cho rằng Ngài đã mất trí. Thật vậy, theo lẽ tự nhiên, chắc chắn chẳng ai dại gì mà lại từ bỏ cuộc sống an toàn, thoải mái với công việc ổn định của mình để chọn cho mình một cuộc sống bấp bênh, nay đây mai đó và gặp đủ thứ khó khăn, chống đối bởi người đời.
Nhưng nếu nhìn bằng con mắt đức tin, ta thấy mọi việc Chúa làm sẽ khác. Chúa đã chấp nhận một cuộc sống bấp bênh đến nỗi “con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” là vì phần rỗi của bao lớp dân nghèo. Vì họ mà Ngài chấp nhận sự chống đối của giới lãnh đạo tôn giáo Do thái và sự hiểu lầm của những người thân trong họ hàng, gia tộc. Ngài đã hy sinh tất cả – từ sự yên ổn của cuộc sống với miếng ăn, giấc ngủ đến sự an toàn về tính mạng – để dấn thân vì sứ vụ loan báo Tin mừng Nước Trời cho những người nghèo khó, tất bạt.
Ta thấy chính vì tình yêu cuồng si đối với con người đã khiến Chúa Giêsu – một vị Thiên Chúa – từ bỏ trời cao để trở thành một con người bình thường, thậm chí là tầm thường, cúi mình trước những tạo vật thấp hèn để cứu vớt, xoa dịu và nâng họ lên hàng con cái Thiên Chúa.
Chúa Giêsu có bị mất trí như người ta nghĩ? Chắc chắn là không. Nhưng nếu nói yêu là điên dại, theo nghĩa vì yêu thương mà trao trọn bản thân mình cho người khác, thì trong số những người điên dại này, người điên dại nhất chính là Chúa Giêsu. Cả cuộc đời Người sống nghèo khó, lang thang đó đây để rao giảng và bị bách hại để rồi cuối cùng chết nhục nhã trên thập giá vì yêu thương con người, cả những người không đáng được yêu, Người càng yêu thương họ hơn.
Thật thế, chính những gì người thân nói Chúa Giêsu bị mất trí hay “lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đường hư mất” (1Cr 1, 18) thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa và là ơn cứu độ cho con người. Sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Thiên Chúa ẩn sau sự mất trí và điên dại của Đức Giêsu trên thập giá.
Chúa Giêsu – ‘Kẻ mất trí’, khi Người quá say mê miệt mài để chăm sóc đoàn chiên không người chăn dắt, chạnh lòng thương đám dân khốn khổ, nghèo hèn, những kẻ bị gạt ra lề xã hội, cho dẫu lắm phen họ phản bội Người; Người lang thang trên mọi đường phố, làng mạc Palestina để mang Tin mừng cứu độ không giờ ăn ngủ nhất định, không cả hòn đá tựa đầu.
Chúa Giêsu – ‘Kẻ mất trí’, cúi xuống rửa chân cho môn đệ như một người nô lệ và bày tỏ tâm tình yêu thương cho dẫu biết rằng chỉ một lát nữa thôi họ sẽ bỏ Người mà trốn chạy trong cơn quẫn bách; Người tha thiết cầu xin ơn tha thứ cho kẻ vu cáo, lên án, hành hạ, cười nhạo và giết chết Người trên cây thập giá.
Là những tín hữu của Chúa, nếu vì biểu lộ đức tin của mình qua những chọn lựa cụ thể trong cuộc sống mà ta bị người đời, thậm chí cả những người nhà chống đối, thì ta biết rằng ta đang được rập đời mình theo khuôn mẫu mầu nhiệm thánh giá cứu chuộc của Chúa. Con đường thênh thang chiều theo những sở thích, dục vọng xác thịt, thế gian là con đường dẫn đến sự hư mất đời đời. Còn con đường hẹp với những khốn khó, thử thách tư bề, thậm chí là khổ đau và nước mắt vì niềm tin vào Chúa, thì ta biết rằng con đường đó là con đường dẫn tới sự sống muôn đời.
Mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thành những người “điên dại vì tình yêu” theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Trở thành chứng nhân của Chúa qua đời sống khiêm nhường và yêu thương, quảng đại dâng hiến đời mình, hăng say nhiệt thành đem Tin Mừng đến những vùng ven của cuộc đời, của xã hội, vv. để mọi người được đón nhận tình yêu và ơn cứu độ của Chúa.
2021
CHỌN VÀ GỌI
22 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
Dt 8:6-13; Tv 85:8,10,11-12,13-14; Mc 3:13-19
CHỌN VÀ GỌI
Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay kể lại cách Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ. Chiêm ngắm ơn gọi của các ngài, sẽ làm cho chúng ta hiểu sâu xa hơn ơn gọi của chính chúng ta, bởi vì ơn gọi của các Tông Đồ là khuôn mẫu của mọi ơn gọi.
Trước hết, chúng ta được mời gọi nhận ra rằng, ơn gọi của các tông đồ phát xuất từ chính ý muốn của Chúa Giêsu: Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những ai Người muốn. Các ông đến với Người. (Mc 3, 13)
Cũng thế, ơn gọi của chúng ta đến từ chính ý muốn của Chúa: Chúa gọi đích danh từng người chúng ta và chúng ta tự nguyện đáp lại. Cho dù khi đến với Chúa trong một ơn gọi, chúng ta có nhiều động lực hay lí do khác nhau. Nhưng với thời gian, nhất là trong thời gian chuẩn bị hay thời gian huấn luyện trong sống Thánh Hiến, chúng ta được mời gọi đặt cuộc đời của mình trên nền tảng tận cùng là “Ơn Được Gọi”, nghĩa là chính ý muốn của Chúa. Nếu ơn gọi của chúng ta đặt trên một nền tảng khác, thì chắc chắn sẽ sụp đỗ, không sớm thì muộn; và sụp đổ ngay từ bên trong.
Nhưng Chúa muốn gọi chúng ta từ khi nào? Chúng ta nghe được tiếng gọi của Chúa vào một lúc nào đó trong cuộc đời, nhưng theo Thánh Phaolô, Chúa đã gọi và chọn chúng ta ngay từ trong bụng mẹ và từ trước muôn đời (Gl 1, 15 và Ep 1, 4). Xác tín được Chúa gọi, không chỉ một lần là xong, nhưng phải được xác tín lại hằng ngày; chúng ta cần làm mới lại ơn được gọi mỗi ngày, như thể ngày nào chúng ta cũng nghe được tiếng Chúa gọi.
Ta thấy Tin Mừng theo thánh Máccô nêu đích danh từng người được Chúa Giêsu kêu gọi: Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô, rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê -Người đặt tên cho hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi-, rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người. (c. 16-19)
Như thế, Chúa gọi đích danh từng người: Phêrô, Giacôbê, Gioan… Cũng vậy, Chúa cũng đã gọi tên từng người chúng ta một cách đích danh. Và các môn đệ được Chúa gọi, khi các ông vẫn như các ông là, nghĩa là vẫn còn đầy giới hạn, còn bất toàn như chính chúng ta. Vì thế, như các tông đồ và nhất là như tông đồ Phê-rô, ơn gọi của chúng ta đặt nền tảng trên tình yêu nhưng không và lòng thương xót của Chúa:
Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi… Bấy giờ Chúa Giêsu bảo ông Simôn: “Đừng sợ!” (Lc 5, 8 và 10)
Và con số được gọi là Mười Hai. Điều này có nghĩa là số người được gọi là xác định, không có may rủi. Mỗi lớp tập hay mỗi lớp khấn, chúng ta thường so sánh hơn kém, nhiều ít. Nhưng trong Chúa, số người được gọi là xác định từ trước muôn đời.
Và ta tự hỏi Chúa Giêsu gọi những kẻ Người muốn để làm gì? Như bài Tin Mừng theo thánh Máccô kể lại: Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỉ. (c. 14-15)
Ở lại với Chúa Giêsu và sau đó, được Ngài sai đi, làm nên hai chiều kích căn bản của đời sống chúng ta, đó là cầu nguyện và hoạt động. Hai chiều kích này đan xen vào nhau trong mỗi ngày sống của chúng ta (cầu nguyện hằng ngày), trong tháng sống (tĩnh tâm tháng), trong năm sống (tĩnh tâm năm) hay trong một giai đoạn huấn luyện hay hành trình ơn gọi đặc biệt.
Khi đã ở với Chúa Giêsu, trở nên môn đệ thực sự của Người, Người Tông đồ được Chúa Giêsu sai đi rao giảng với quyền trừ quỉ. Trong một thế giới đầy bóng tối và thế lực sự ác mặc sức tung hoành này, thấm nhuần tinh thần của Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng được sai đi loan báo Tin mừng để “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem trông cậy vào nơi thất vọng, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu” (Kinh hòa bình) hầu đẩy lui thế lực ma quỉ, xây dựng nước Thiên Chúa nơi trần gian. Do đó sự hiện diện của Kitô hữu trong môi trường mình sống phải là một Tin mừng cho người đương thời – Tin mừng có sức cứu độ con người.
Chúng ta vẫn sống hai chiều kích này mỗi ngày, hay nói đúng hơn, hai chiều kích này vẫn được ban cho chúng ta mỗi ngày, nhưng dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi nhận ra đó là những điều Chúa muốn, và rằng đó là những điều làm cho chúng ta trở nên giống Chúa, vì đời sống của Chúa cũng được dệt nên bởi hai chiều kích này: “Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi”; và Ngài lên núi chính là để cầu nguyện, như lời tường thuật của thánh Luca: “Chúa Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6, 12).
2021
CAN ĐẢM NHƯ THÁNH NỮ ANÊ
21.1 Thánh Agnes, Đttđ
Dt 7:25; Dt 8:6; Tv 40:7-8,8-9,10,17; Mc 3:7-12
CAN ĐẢM NHƯ THÁNH NỮ ANÊ
Một trong những đức tính nổi bật của vị thánh trẻ Anê, tử đạo là lòng can đảm và kiên trì. Thánh nhân dù mới có 13 tuổi đời đã anh dũng hy sinh vì Chúa: “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người chết vì người mình yêu” (Ga 15, 13) và như thánh Phaolô viết:” Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi “.
Thánh Anê đã cảm nghiệm sâu xa lời thánh vịnh: “Máu tế thần, con quyết chẳng dâng, tên của thần, môi con không tụng niệm” (Tv 15, 4). Nên, dù mới có 12 tuổi đời, thánh nữ Anê đã rao giảng Ðức Kitô là Thiên Chúa. Thánh nhân không sợ sệt, không nhát đảm, người ta đã muốn làm hoen ố đời con gái của thánh nữ, nhưng Chúa luôn gìn giữ Người và con người của thánh nữ luôn tỏa hương thơm tươi tốt. Thánh Anê đã giữ mình tinh tuyền đến nỗi không một chàng trai nào dám động tới thân xác của Người. Thánh nhân luôn có một tâm niệm” Tôi chỉ tin một Ðức Kitô, Ðấng tôi hằng yêu mến “. Ngài luôn ý thức: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính Ngài nắm giữ (Tv 15, 5).
Thánh nữ phó thác sinh mạng và cuộc đời Ngài trong tay Thiên Chúa. Vì thế cái chết đối với Ngài chỉ thay đổi chứ không mất đi. Một nhát chém hay sự thiêu đốt không làm Ngài siêu lòng, nhưng là để Ngài được gặp mặt Chúa và sống bên Chúa suốt đời.
Thánh Anê đã được diễm phúc tử vì đạo. Xác thánh nhân được an táng tại biệt thự riêng của gia đình. Công chúa của Hoàng đế Constantin vào năm 321 được thánh nữ chữa khỏi một chứng bịnh, nên đã cho xây trên phần mộ của thánh Anê một ngôi nhà thờ nguy nga, đồ sộ. Chúa thưởng công cho Người:” Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi ! (Tv 15, 11).
Ta thấy Tin Mừng hôm nay vẽ nên khung cảnh hữu tình giữa thiên nhiên và con người. Dưới biển là Chúa Giêsu trên chiếc thuyền nhỏ; trên bờ là đám đông đang quây quần. Họ từ nhiều nơi tuôn đến, họ mang nhiều loại bệnh tật. Họ đang dồn con tim, mơ ước, trăn trở, và cả những đớn đau hồn xác của họ về phía Chúa Giêsu. Họ khát khao, mong chờ, hy vọng Ngài sẽ bù đắp, chữa lành và nâng đỡ họ.
Khung cảnh đẹp này hẳn đã đủ để thu hút tôi, bạn và anh chị sẵn lòng dành những giây phút đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong ngày sống để lãnh nhận Lời Chúa, để gặp gỡ Chúa. Hy vọng cuộc gặp gỡ hôm nay sẽ đầy tràn niềm vui và ý nghĩa nhờ sức hút tỏa ra từ Chúa Giêsu, từ những phận đời đang lũ lượt đi theo Người, lũ lượt đến với Người.
Trước hết, thật dễ dàng để ta nhận ra động lực thúc đẩy đám đông đến với Chúa: họ nghe biết những gì Chúa Giêsu đã làm. Hữu xạ tự nhiên hương, tiếng lành đồn xa.
Thử hỏi, Chúa Giêsu đã làm gì khiến Ngài thu hút dân chúng đến thế ? – Lần theo mạch văn, ta tìm được phần nào câu trả lời: Ngài rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa và gọi các môn đệ đầu tiên (1, 14-20), chữa bệnh tại Capharnaum (1, 21-45), làm cho các Kinh sư và Pharisêu phải bẽ mặt trong các cuộc tranh luận (2, 1 – 3,5).
Dân chúng miền Galilê và Giuđa năm xưa vui mừng hớn hở vì tìm được nguồn hy vọng hòng thoát khỏi những bế tắc trong lối sống ; tìm được sức mạnh hòng nhanh chóng khuất phục thế lực quỷ thần ; tìm được ý nghĩa đời mình hòng sống an hạnh trong tình yêu và niềm vui.
Kế đến, nhìn vào bản thân: tôi, bạn và anh chị, ta không chỉ nghe biết những gì Chúa đã làm, mà chắc chắn ít nhiều trong hành trình đời mình, ta đã chân nhận ít nhiều những gì Chúa đã làm cho chính bản thân ta, cho những người thân thuộc của ta. Ta cũng chẳng phải khó nhọc để tìm đến với Chúa như người xưa. Nhưng xem ra, sức hấp dẫn của Chúa Giêsu chưa thể lớn bằng các tạo vật khác, nên ta còn đứng xa, còn chưa quan tâm đủ, còn chưa thật sự khát khao gặp gỡ Ngài. Hơn nữa, dương như chính ta cũng chưa đủ sáng, chưa đủ thông để nhận ra mình đang mang những tật bệnh hồn xác, đang phải đối diện với cuộc sống đầy hiểm nguy bởi đủ thứ lạc thuyết và đam mê, nên chưa thấy cần phải chữa trị, chưa thấy mình phải tìm thầy chạy thuốc.
Thậm chí, khi xuôi ngược trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, liệu những gì ta nói và những việc ta làm có đáng để người nghe chúng ta được thúc đẩy tìm đến với Chúa Giêsu như kinh nghiệm của đám đông trên đây chăng ?
Cùng nhau ta ở lại với Chúa Giêsu thêm ít phút nữa. Mỗi người hãy để Lời Chúa hôm nay soi chiếu mọi ngõ ngách, mọi nơi mọi chốn, kể cả những góc khuất lâu năm meo mốc của đời ta, của hồn ta, để ta được chữa lành các tật bệnh ; được thanh tẩy các nhơ uế ; và nhất là được có đủ uy tín mà giới thiệu Chúa Giêsu cho anh chị em ta. Chính nơi Chúa, ta tìm về để lãnh nhận Tin Mừng và cũng từ Chúa, ta đi ra loan báo Tin Mừng.
Hôm nay phụng vụ Giáo hội kính nhớ Thánh Anê, Trinh nữ tử đạo, đã cho chúng ta mẫu gương của một người môn đệ trung tín với Đức Kitô. Với một niềm tin yêu son sắt không hề bị lay chuyển, thánh nhân đã chấp nhận chết chứ không bao giờ phản bội Người. Tư cách của người môn đệ Chúa Kitô trong cuộc sống người môn đệ Chúa Kitô luôn được mời gọi để lựa chọn, quyết định và thực hiện những điều hợp với ý Chúa, cho dù có phải khó khăn gian khổ hay bị bách hại cũng không bao giờ được sờn lòng để đáp lại tình yêu và hồng ân Chúa ban là cho ta được làm con cái Người, làm kẻ nghĩa thiết với Người.
2021
LOẠI BỎ TÂM ÁC
- 1 Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
Dt 7:1-3,15-17; Tv 110:1,2,3,4; Mc 3:1-6
LOẠI BỎ TÂM ÁC
Tin Mừng hôm nay là một trong 5 cuộc tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về việc giữ luật trong ngày Sabát. Khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Ngài đã gặp những cuộc phản ứng chống đối bằng những hành vi và lời nói công khai của nhóm Pharisêu, đại diện cho tầng lớp những người sống “vị luật” thời bấy giờ. Trong ngày sa bát người không được làm bất cứ việc gì kể cả việc đi bộ cũng có giới hạn.
Vì vậy, trong cuộc tranh luận thứ 5 này, chúng ta sẽ nhận ra cao điểm của cuộc “chạm trán” ấy, như mở đầu con đường Thập giá mà Chúa Giêsu sẽ đi qua.
Ta thấy Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu Lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: “Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ”. Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được.
Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Chúa Giêsu gọi anh bại tay ra giữa đứng (c. 3). Ngài muốn người Do Thái nhìn thẳng và nhận ra vấn đề vì thế Ngài hỏi họ: “Ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi ?” (c. 4). Câu hỏi của Ngài như một lời chất vấn lương tâm, dẫn họ lần bước trở về tính thiện ban đầu mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn con người. Tác giả mô tả tình trạng của họ : “ làm thinh”.
Họ làm thinh có lẽ không dám trả lời trái với lẽ lương tâm, nhưng cũng là cách phản đối, từ chối con đường yêu thương mà Chúa Giêsu đặt ra trong ngày sa bát giữa “ lành – dữ; cứu mạng – giết đi”. Thánh sử nói rõ : lòng họ đã chai lì trước lời mời lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu vì thời đó, người Do Thái quan niệm bệnh tật là do ma quỉ và tội lỗi gây ra nên Chúa Giêsu muốn trải rộng nguyên tắc đem lại sự sống giải phóng con người khỏi ách nô lệ của Satan là ngày được cứu người, được phép làm điều tốt điều lành. Đó là ngày Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho dân Người, nhất là những người nghèo.
Với sự lặng thinh cứng lòng của người Do Thái, chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu “giận dữ rao mắt nhìn và buồn khổ”. Đây là tấm lòng của một Thiên Chúa yêu thương gần như bất lực trước tự do của con người. Khi thấy họ cố “ bịt mắt bưng tai” trước lời mời cứu độ và hành vi yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đón nhận thái độ ấy trong sự cương quyết bày tỏ tình yêu Cứu độ : Người bảo anh bại tay “ giơ tay ra!” (c.5) và tay anh được chữa lành.
Khi Tình Yêu được bày tỏ thì quyền lực chống lại nó cũng lộ ra “ Người Pharisêu bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Chúa Giêsu” (c.6).
Con người hợp nhau để chống lại Thiên Chúa. Cái ác đồng lòng phá đổ sự thiện tội lỗi hợp lực, bóng đen bao trùm để dập tắt ánh sáng. Nhưng khi tội ác lên đến đỉnh điểm là Thập Giá thì Tình Yêu Thiên Chúa cũng được mở ra cho nhân loại qua trái tim Chúa Giêsu bị đâm thâu trên đồi Can vê.
Trong cuộc sống hàng ngày đôi lúc chúng ta cũng có thái độ như người Do Thái khi đến nhà thờ hoặc khi làm những công việc đạo đức. Lúc đó thay vì chúng ta tìm ý Chúa, chúng ta lại dò xét và bình phẩm lẫn nhau. Thay vì kết tình thân ái giữa mọi người, chúng ta lại gây chia rẽ bằng việc “ xuyên tạc” lời nói và hành vi của người khác. Thay vì để tâm suy gẫm Lời Chúa, để Lời Chúa thấm vào tâm hồn, thì chúng ta lại âm mưu toan tính sao cho mình có lý hoặc luôn tìm phần thắng, phần lợi về cho mình. Chúng ta hãy xem thái độ của Chúa Giêsu như thế nào trước tâm địa độc ác của họ.