2020
Tình đáp tình
17 03 Tr Thứ Ba tuần 33 Mùa TN.
Thánh Elizabeth Hungari, Ts. Lễ nhớ.
Kh 3,1-6.14-22; Lc 19,1-10
TÌNH ĐÁP TÌNH
Cuộc đời của thánh Elizabeth thật ngắn ngủi, nhưng lòng thương yêu ngài dành cho người nghèo và người đau khổ thật lớn lao đến nỗi ngài được Giáo hội đặt làm quan thầy của các tổ chức bác ái Công giáo và của dòng Ba Phanxicô. Là con gái của vua Hung Gia Lợi, thay vì chọn một đời sống xa hoa nhàn hạ, thánh Elizabeth đã đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình. Quyết định đó đã để lại trong tâm khảm của bao người dân Âu châu niềm cảm mến sâu xa.
Khi lên 14 tuổi, ngài kết hôn với ông Louis ở Thuringia (một quận chúa của Ðức), là người mà ngài rất yêu mến, và có được ba mặt con. Dưới sự linh hướng của các tu sĩ Phanxicô, ngài sống đời cầu nguyện, hy sinh và phục vụ người nghèo cũng như người đau yếu. Không những thế, ngài còn muốn trở nên một người nghèo thực sự qua cách ăn mặc thật đơn sơ. Mỗi ngày, ngài phân phát thực phẩm cho hàng trăm người nghèo trong vùng mà lúc nào cũng đầy nghẹt trước cửa nhà.
Sau sáu năm thành hôn, ngài thật đau khổ khi nghe tin chồng tử trận trong cuộc Thập tự Chinh. Buồn hơn nữa, gia đình nhà chồng lại coi ngài là người hoang phí tiền bạc của hoàng gia nên đã đối xử với ngài thật thậm tệ, và sau cùng họ đã tống ngài ra khỏi hoàng cung. Nhưng sau cuộc Thập tự Chinh, những người thân thuộc bên chồng trở về đã phục hồi quyền lợi cho ngài, vì con trai của ngài là người thừa kế chính thức.
Vào năm 1229, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một bệnh viện mà ngài đã thiết lập để vinh danh thánh Phanxicô. Sức khỏe của ngài ngày càng sa sút, và sau cùng ngài đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày sinh nhật thứ 24, năm 1231. Vì sự nổi tiếng về nhân đức của ngài nên chỉ bốn năm sau ngài đã được phong Thánh.
“Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình”, câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện hoán cải tận căn của một con người – một con người đã được đụng chạm tới tình yêu Giê-su. Cũng như muôn ngàn định nghĩa về tình yêu thì “tình cho không biếu không” vẫn là định nghĩa triệt để nhất. Tình vốn dĩ là cho không biếu không – bất chấp cả dư luận, bất chấp của cải, bất chấp danh dự, bất chấp tội lỗi, bất chấp xấu xa, khiếm khuyết…bất chấp tất cả. Câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện tình yêu tuyệt vời; người tung, kẻ hứng thật đồng điệu và đã mang lại kết quả tốt đẹp.
Tình yêu luôn có sáng kiến và đi bước trước: Trong trình thuật Tin mừng, chúng ta thấy lòng mộ mến một Rabbi Giê-su lý tưởng đã khiến Ông Dakêu, một quan chức đứng đầu thuế vụ, giàu có, chạy lên trước đám đông và trèo lên cây sung để được thấy Người. Ông trèo lên cây, nấp trong đám lá, không biết ông đang đắc ý về diệu kế cho vóc người thấp bé của ông hay đang hồi hộp sợ có ai phát hiện, nhưng có lẽ là cả hai. Ông ngồi trên cao và nhìn xuống.
Về hình thức, tưởng chừng như Ông là người đi bước trước, nhưng nội dung câu chuyện đã cho thấy người đi bước trước là Đức Giêsu – Người đã biết Dakêu từ trước. Người đã biết những mặc cảm cũng như những khát khao trong lòng Dakêu. Tình yêu và lòng thương xót đã khiến Đức Giêsu ngước lên nhìn Ông đang trốn mình trong tán lá – Hai thái độ – hai nội dung trái ngược: Dakêu tìm Chúa: thay vì ngước mắt lên trời, Ông lại ở ‘vị trí của mình trên cao’ nhìn xuống.
Đức Giêsu tìm Dakêu: Ngài ở dưới ngước nhìn lên; Thực ra, tình yêu và lòng thương xót của Người đã cúi xuống, chiếu cố đến Dakêu – con người thấp bé về hình vóc, nghèo nàn về phẩm hạnh trong mắt người Do-thái.
Tuy nhiên, xuyên suốt qua cái gì là bề ngoài giới hạn ấy, Đức Giêsu đã nhìn thấy giá trị đích thực với những phẩm chất cao quí của con người – một con người mang hình ảnh của Đấng Tạo hóa. Đức Giêsu đã đi bước trước trong việc cởi bỏ những mặc cảm tự tôn, tự ti trong lòng Dakêu để Ông mở rộng lòng mình đón nhận Chúa trong tình yêu chân chất. Ngài gọi Ông xuống, trở lại vị trị để sẵn sàng làm một cuộc hoán cải.
Tình yêu luôn cảm thông, bất chấp dư luận: Dakêu có thể bất chấp dư luận chê cười, khi ông – một quan chức có thế giá – lại leo lên một cây sung để nhìn trộm như một đứa trẻ. Có lẽ Đức Giêsu cũng rất thú vị với chất trẻ thơ nơi ông (Chúa đã chẳng hứa nước trời cho những ai nên giống trẻ thơ là gì!).
Tuy nhiên, cao cả hơn thế, Đức Giêsu đã bất chấp dư luận, không kể gì đến thân phận cao quí của một Rabbi nổi tiếng để kết giao với Dakêu – một kẻ tội lỗi, bị gạt ra bên lề trong xã hội Do-thái. Người đến trọ trong nhà Dakêu, ngôi nhà mà người Do-thái không dám bước vào vì sợ ‘ô uế’, để viếng thăm, đồng bàn và ăn uống với ông. Bởi vì mục đích của Ngài đến không phải để kiếm tìm người công chính mà là kẻ tội lỗi. Ngài là thầy thuốc không phải tìm chữa những kẻ khỏe mạnh mà là những người đau yếu. (Mt 2,17)
Tình yêu kết tráí: Dakêu khát khao được nhìn thấy Đức Giê-su có lẽ vì những tiếng tăm tốt lành của Người khiến lòng Ông mộ mến và mong đợi một điều gì đó(?) Đức Giêsu tìm Daêu như “người chăn chiên đi tìm một con chiên lạc” (Mt 18,12 – 14), như người đàn bà đi tìm đồng bạc đã mất” (Lc 15, 8 -10), như “người cha nhân hậu chờ đợi người con đi hoang trở về” ( Lc 15, 11 – 32). Tuy đã được nghe nhiều về Đức Giêsu, nhưng Dakêu không ngờ ông lại được vinh dự và yêu thương như vậy. Và từ trái tim đã đụng chạm đến trái tim. Tình yêu được đáp đền bằng tình yêu đã nảy sinh hoa trái tốt đẹp: “8Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Thật là niềm vui tràn vỡ vì “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham.10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” Cũng như Phao-lô, ông Dakêu đã cảm nghiệm được món lời hậu hĩ vì được biết Đức Giêsu (Pl 3, 8 – 9).
Vì thế, của cải đối với ông bây giờ không còn quan trọng nữa. Trước đây ông ra tay bóc lột, tích góp bao nhiêu, thì bây giờ ông sẵn sàng cho đi tất cả. Thật là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời! Một bước hoán cải tuyệt diệu!
Điểm son của Da-kêu là biết quý trọng điều khôn ngoan, là muốn tiếp cận với những nhà hiền triết. Yếu tố này đã khiến ông tạm gác lợi nhuận sang bên, gác bỏ rượu chè nhậu nhẹt… và háo hức tìm đến với Chúa Giêsu. Có như thế, Dakêu mới cải thiện cuộc sống thật tuyệt vời!
Hình ảnh Dakêu nói lên sự cố gắng và tấm lòng khao khát gặp Chúa của ông Giakêu. Và rồi, lòng khao khát và cố gắng của ông đã có kết quả. Không những ông thấy Chúa Giêsu, mà hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn đến nhà ông. Sau đó, đời sống của ông đã thay đổi. Trước đây ông áp bức vơ vét thì giờ đây ông đền bù và bố thí.
Dakêu cũng là hình ảnh mỗi người chúng ta: Chúng ta thường nghĩ mình chẳng làm gì nên tội: không giết người, không gian dâm, không trộm cắp… Tuy nhiên hãy coi chừng! Tội vì làm điều ác thì có thể chúng ta không mắc phải. Nhưng tội vì bỏ không làm điều tốt giúp đỡ tha nhân thì chẳng ai dám nghĩ mình không phạm. Vậy thì chúng ta cũng hãy noi gương Dakêu đi tìm Chúa để nhận được ơn Chúa giúp hoán cải.
2020
Sức mạnh của lòng tin
16 02 X Thứ Hai tuần 33 Mùa TN.
Thánh Magarita Tô Cách Lan.
Thánh Gertrude, Đt (Tr).
Kh 1,1-4.2,1-5a; Lc 18,35-43
SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN
Trang Tin Mừng hôm nay, ta thấy thánh Luca cho chúng ta thấy sức mạnh của lòng tin như thế nào khi nó được đặt vào một giá trị cao nhất là chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu : Nhân vật chính trong trình thuật phép lạ này. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, cúi xuống xoa dịu những đau khổ của con người nghèo hèn. Tuy vậy, khi thực hiên phép lạ, Ngài vẫn đòi hỏi lời tuyên tín của anh mù vào Thiên Chúa, nghĩa là anh mù có xem Ngài như một nhà phép thuật, có tài biến hoá, hay là một Thiên Chúa đầy quyền năng trên sự dữ, bệnh tật ? Ngài cứu vớt con người vì Tình Yêu. Ngài đến để cho họ được sống và sống sung mãn trong sự hiệp thông với Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
Một người ăn xin bị mù ở Giêrikhô đã hô vang khi nghe người dân nói Đức Giêsu đi ngang qua: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Lc 18,38). Dù bị người dân la mắng nhưng ông ta vẫn hô vang thêm một lần nữa. Qua đây, chúng ta thấy được sự khao khát được đón nhận tình thương của Chúa mạnh mẽ như thế nào nơi người đàn ông này. Ông ta đã tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giê-su.
Vì ông tin rằng chỉ có tình thương của Chúa mới đem lại cho ông cuộc sống mới là không còn sống trong bóng tôi nữa. Chính sự can đảm bày tỏ lòng tin của mình, ông đã được Chúa cứu: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!” (Lc 18, 42).
Người mù thành Giêrikhô muốn gặp được Đức Giêsu thật khó lắm thay! Anh ta muốn đến trước mặt Chúa để nói lên điều làm anh khao khát đến điên cuồng: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.” Thế nhưng những người chung quanh lại trở thành hàng rào ngăn cản anh đến với Đức Giêsu vì cho rằng anh ta không có “tiêu chuẩn” đó.
Cũng may cho anh, Chúa đích thân can thiệp, và anh được toại nguyện: anh được dẫn đến gặp Chúa để bày tỏ ước nguyện và Ngài đáp ứng nguyện vọng của anh ngay lập tức. Điều tốt lành suýt nữa đã không xảy ra cho anh chỉ vì sự cản trở vô ý thức của những người chúng quanh. Cuối cùng phép lạ cũng vẫn xảy ra nhờ cặp mắt đầy quan tâm của Chúa luôn nhận ra và cảm thông nỗi thống khổ của người khác, và nhờ lòng cậy trông đầy kiên nhẫn của anh mù nữa.
Anh bị mù về thể xác nhưng con mắt tâm hồn rất sáng. Anh nhạy bén và khao khát đi tiềm chân lý. Nghe tiếng ồn ào lạ thường của đám đông hôm nay, anh đoán có chuyện lạ xảy ra. Lòng ước muốn của anh được đáp trả bằng lời của một người nào đó về con người Giêsu, một vị Thầy mà có lẽ anh đã nghe nói tới hơn một lần. Khi vừa nghe tin đó, anh liền kêu lên : “ Lạy Ông Giêsu, con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Một lời cầu xin hòa trong lời tuyên xưng về danh phận Mêsi-a của Chúa Giêsu “ Con Vua Đavít”. Mặc dầu bị quát nạt, bị che lấp bởi tiếng ồn của quần chúng, anh cố kêu to hơn. Tiếng kêu của anh nói lên lòng xác tín và đụng chạm tới lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cuối cùng, lòng tin của anh đã được tưởng thưởng, được sáng con mắt thân xác, nhờ ánh sáng của con mắt đức tin. Anh bị xã hội con người loại bỏ, nhưng Thiên Chúa đã giơ tay cứu vớt anh và đưa anh trở về với xã hội của con Thiên Chúa “ Anh nhìn thấy, theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa đã thực hiện cho chính mình chỉ vì Tình Yêu, chứ không do công trạng. Lòng tin của anh đã khiến cho toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa và Thiên Chúa được tôn vinh.
Anh là chứng nhân của Tình Yêu Thiên Chúa và sẵn sàng làm chứng cho Tình Yêu ấy bằng chính đời sống của mình. Có lẽ trong đời sống Kitô hữu, chúng ta cần học đòi gương này nơi anh. Niềm tin kéo theo niềm tin. Anh đã khao khát, thao thức chạy kiếm Thiên Chúa trong đức tin, là hình ảnh mà ngày nay con người đang chối từ, loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống của họ.
Anh mù tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu trước mặt mọi người bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Anh được sáng mắt nhờ đức tin như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”, đối tượng đức tin duy nhất là Đức Giêsu Nadarét con vua Đavít mà anh đã đặt hết niềm tin vào. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã sáng mắt.
Thật vậy, nơi mỗi người chúng ta ai cũng bị mù. Chúng ta không bị mù về thể xác nhưng chúng ta lại bị mù về tinh thần, mù về phần linh hồn. Chúng ta đã để cho tiền tài, danh vọng. lạc thú… làm mù limh hồn chúng ta. Từ đây nó cũng kéo theo thân xác chúng ta luôn dẫn thân vào cái gì là khoái lạc, nhục dục, những gì là trụy lạc. Hơn thế nữa, chúng ta còn dày xéo tha nhân, sống ích kỷ và chỉ biết thu góp cho chính mình. Chúng ta đã đánh mất đi phẩm giá của mình và người khác. Cái mù này thật sự còn ghê gớm hơn cái mù thể lý.
Vậy chúng ta có dám như người Giêrikhô trong tin mừng đã đặt trọn vẹn lòng tin của mình nơi Chúa Giêsu để xin Ngài chữa lành? Chúng ta sẽ phải làm gì để chữa trị sự mù lòa của linh hồn chúng ta? Chúng ta hay năng chạy đến với Chúa Giêsu nơi bí tích Hòa giải để đón nhận sự chữa lành của Ngài. Chúng ta hãy năng chạy đến với Thánh lễ để lãnh nhận chính mình máu Chúa Giêsu để Ngài luôn đồng hành cùng với ta trong cuộc sống đầy cạm bẫy tội lỗi của thế gian và cũng để lắng nghe lời Chúa dạy mà sống mổi ngày một tốt, một vui và hạnh phúc hơn. Chúng ta hãy đặt trọn lòng tin của mình vào Chúa hơn là của cải của thế gian để từ đây ta được Ngài chữa lành và tăng sức mạnh cho ta trong cuộc sống này. Vì Chúa Giê-su đã từng nói, chỉ cần anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, anh em bảo cây cải này xuống biển mà mọc thì nó cũng sẽ làm.
Anh mù chính là mẫu gương cho mỗi người chúng ta: anh ý thức mình cần Chúa, anh cố gắng hết sức để được đến gần Chúa, bất chấp mọi ngăn cản. Kết quả là anh đã được Chúa đổi mới hoàn toàn; anh còn thay đổi được những tấm lòng hẹp hòi của những người chung quanh. Nếu chúng ta làm như anh mù này thì mặc dù mọi người ngăn cản chúng ta và mặc dù ban đầu xem ra Chúa không nghe tiếng chúng ta, nhưng cuối cùng Ngài sẽ dừng lại, ưu ái gọi chúng ta đến và biến đổi đời sống chúng ta.
Chúng ta cũng duyệt lại đời sống của mình, có còn ở trong bóng tối, như anh mù ở thành. Chúng ta tín thác vào Thầy Giêsu, Đấng sẽ kéo chúng ta về sự sáng trong lời cầu: Xin Chúa chữa niềm tin còn u tối… U tối của tội lỗi, của bất toàn và của yếu đuối thân phận của con người… U tối của những suy nghĩ, u tối trong cách hành xử với nhau.
2020
Chờ ngày cánh chung
13 28 X Thứ Sáu tuần 32 Mùa TN.
2 Ga 1,4-9; Lc 17,26-37
CHỜ NGÀY CÁNH CHUNG
Chúa Giêsu mô tả ngày chấm dứt cuộc sống trần thế của cuộc sống con người bằng câu chuyện thời ông Noe với trận lụt hồng thủy, hoặc câu chuyện lửa đỏ diêm sinh thiêu rụi tất cả thành Sôđôma vào thời ông Lót trong Cựu Ước…thật bất ngờ, ghê gớm và đáng sợ vào ngày Chúa tái lâm để xét xử con người trên trái đất.
Sự việc xảy ra thật bất ngờ đến độ người ta đang vui chơi, ăn uống, cưới vợ gả chồng,…thì lũ lụt xảy đến, mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống.
Sự việc thật bất ngờ khi mà hai người đàn bà đang xay cùng một cối bột, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hoặc hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.
Những điều đó sẽ xảy ra trong ngày Chúa quang lâm, hầu cảnh giác con người hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Và số phận của con người tùy thuộc vào chính cuộc sống của họ trên trần gian : kẻ lành được chọn, kẻ dữ sẽ bị loại trong ngày quang lâm.
Ngày cánh chung sẽ đến, nhưng bao giờ xảy đến không ai biết. Nhưng Chúa cho sự việc xảy ra như thế nhằm đốc thúc con người đừng quá chăm lo cho cuộc sống hiện tại, đừng quá chểnh mảng, lơ là trong công việc chuẩn bị cho ngày cánh chung, mà cần phải biết chăm lo cho cuộc sống mai sau bằng thái độ chuẩn bị và sẵn sàng.
Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh vốn quen thuộc với người Do thái, nhưng tựu trung chính cái bất ngờ vượt khỏi mọi phạm trù và trí tưởng tượng của con người vẫn là những nét chính của thực tại cánh chung ấy. Tất cả những hình ảnh và thí dụ được Chúa Giêsu sử dụng trong Tin Mừng hôm nay cho thấy rằng thực tại cánh chung, ngày tận thế, ngày của Chúa, vốn là một thực tại mà không ai biết trước được. Bằng nhiều hình ảnh và cách diễn tả khác nhau, Kinh Thánh luôn khẳng định tính bất ngờ của ngày thế mạt; do tính bất ngờ này, các Kitô hữu luôn được mời gọi để sống tỉnh thức.
Thật ra, ngày của Chúa hay thời cánh chung đã thực sự khởi đầu với chính cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta đang thực sự đi vào trong ngày ấy, nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trong lịch sử. Chúa Giêsu đã đến để đổi mới mọi sự như thánh Gioan Tông đồ đã viết trong sách Khải huyền, hoặc như thánh Phaolô đã viết trong thư 2Cr: “Ai ở trong Chúa Kitô cũng đều trở thành một tạo vật mới, cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”.
Thời cánh chung đã thực sự khởi đầu với chính cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta đang thực sự đi vào trong ngày ấy, nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trong lịch sử. Chúa Giêsu đã đến để đổi mới mọi sự như thánh Gioan Tông đồ đã viết trong sách Khải huyền, hoặc như thánh Phaolô đã viết trong thư 2Cor: “Ai ở trong Chúa Kitô cũng đều trở thành một tạo vật mới, cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”.
Chúa Kitô Phục sinh đang có mặt và tác động trong lịch sử loài người; chính Ngài đang phơi bày sức mạnh của tội lỗi là hận thù, ích kỷ, bạo động, và khơi dậy cũng như nâng đỡ những sức mạnh của chân lý, công bằng, liên đới, yêu thương. Bất cứ ai sống theo Ngài, người đó sẽ cảm thấy mình là tạo vật mới có sức thắng vượt quyền lực của sự dữ và tăm tối.
Giáo Hội đang làm chứng cho thế giới thấy rằng Giáo Hội đang làm chứng cho thời cánh chung, nghĩa là sống trong ngày của Chúa. Dấu chứng ấy khả tín hay không là tùy ở cuộc sống có khả tín hay không của các Kitô hữu. Cuộc sống lương thiện, công bằng, yêu thương, phục vụ, quảng đại của các Kitô hữu chắc chắn sẽ tạo một dấu cho mọi người thấy rằng họ là những tạo vật mới, rằng Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong họ.
Chúa Kitô Phục sinh đang có mặt và tác động trong lịch sử loài người; chính Ngài đang phơi bày sức mạnh của tội lỗi là hận thù, ích kỷ, bạo động, và khơi dậy cũng như nâng đỡ những sức mạnh của chân lý, công bằng, liên đới, yêu thương. Bất cứ ai sống theo Ngài, người đó sẽ cảm thấy mình là tạo vật mới có sức thắng vượt quyền lực của sự dữ và tăm tối.
Và ta thấy Chúa cũng nhắc nhở chúng ta, dừng quá bám víu vào thế gian, hoặc vun quén cho sự sống thế tục của mình, nhưng phải lo đến cuộc sống đời đời của mình bằng việc sống đẹp lòng Chúa hơn.
Số phận của chúng ta được định đoạt trong ngày phán xét : được chọn hay bị loại. Tất cả tùy thuộc vào thái độ sống hiện tại của chúng ta : tin hay từ chối đức tin, yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân hay khước từ tình yêu với Chúa và với tha nhân.
2020
Sống giây phút hiện tại
2 27 Đ Thứ Năm tuần 32 Mùa TN.
Thánh Josaphat, Gmtđ. Lễ nhớ
Plm 1,7-20; Lc 17,20-25
SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
Thánh Giosaphat, vị Giám mục theo lễ điển Ðông phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất Giáo hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống giáo về hợp nhất với Rôma.
Vào năm 1054, một sự chia cắt chính thức được gọi là đại ly giáo đã xảy ra giữa Giáo hội Ðông phương ở Constantinople và Giáo hội Tây phương ở Rôma vì những bất đồng về thần học và đời sống độc thân của giáo sĩ. Cho đến năm thế kỷ sau, một giáo chủ Chính Thống giáo ở Kiev và năm Giám mục Chính Thống giáo quyết định đưa hàng triệu người Chính Thống giáo dưới quyền về hợp nhất với Rôma. Khi thượng Hội đồng ở Brest Litovsk khai mạc vào năm 1595 thì thánh Josaphat Kunsevich lúc ấy chỉ là một cậu bé trai, nhưng đã được chứng kiến các kết quả tích cực cũng như tiêu cực của thượng Hội đồng.
Hàng triệu Kitô hữu đã không đồng ý với các Giám mục về sự hiệp thông với Công giáo, và cả đôi bên đều tìm cách giải quyết sự bất đồng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng vũ lực. Do đó cả hai phía đều có nhiều người đã tử đạo. Giữa những xáo trộn ấy, thánh Josaphat là một tiếng nói hòa bình.
Khi còn niên thiếu, nhờ sự khuyến khích của hai vị linh mục dòng Tên nên ngài đã gia nhập tu viện ở Vilna năm 1604. Trong thời gian này, ngài quen thân với Joseph Benjamin Rutsky, là người trở lại Kitô giáo sau một thời gian theo phái Calvin. Cả hai đều muốn sự hợp nhất trong Giáo hội và cải tổ đời sống tu trì.
Sau đó, Josaphat được gửi đi trông coi một cơ sở ở Rôma, còn Rutsky được làm tu viện trưởng ở Vilna. Khi Rutsky được làm giáo chủ của Kiev, thì Josaphat lại được thế chỗ Rutsky làm tu viện trưởng. Nhân cơ hội này, Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ, nhưng đường hướng cải tổ phản ảnh một đời sống nghiêm nhặt và khắc khổ của ngài, nên không mấy ai hưởng ứng. Ngay cả một Tu hội còn dọa ném ngài xuống sông!
Khi là vị Giám mục đầu tiên ở Vitebsk và sau đó ở Polotsk vào năm 1617, đức Giám mục Josaphat phải đối diện với nhiều khó khăn. Có thể nói Giáo hội lúc ấy thật thối nát, giáo sĩ tái hôn đến hai ba lần, và họ không lo lắng gì đến việc mục vụ hoặc đời sống gương mẫu. Trong vòng ba năm, đức Giám mục Josaphat phải chấn chỉnh lại Giáo hội qua các thượng Hội đồng, phân phát sách giáo lý khắp nơi, và áp đặt những quy luật cho hàng giáo sĩ. Nhưng đáng kể hơn cả là chính đời sống của ngài mà hầu như lúc nào cũng đi rao giảng, giáo dục đức tin, thăm viếng những kẻ đau ốm.
Bất kể công việc và tiếng tăm của đức Giám mục Josaphat, những người Chính Thống giáo ly khai đã bầu một Tổng Giám mục của họ ngay ở cùng một thành phố. Thật đau lòng cho đức Giám mục Josaphat khi thấy những người ngài phục vụ bị phân ly trong những cuộc bạo loạn. Ngay cả giáo phận cũ của ngài ở Vitebsk cũng chống đối sự hợp nhất và chống chính ngài. Ðau khổ hơn cả, là chính người Công giáo mà ngài tìm cách hợp nhất cũng chống đối ngài, chỉ vì họ không thích lễ điển Byzantine mà ngài chủ trương thay vì lễ điển Rôma. Vì sợ hãi hoặc vì ngu dốt, vị trưởng ấn của Lithuania, tin lời đồn đãi rằng ngài xúi giục dân chúng nổi loạn, nên thay vì giúp đỡ thì lại lên án đức Giám mục Josaphat. Thực sự ngài chỉ dùng đến quyền lực khi các người ly khai chiếm nhà thờ Mogilev và ngài xin nhà cầm quyền giúp phục hồi lại quyền bính.
Vào tháng mười 1623, đức Giám mục Josaphat quyết định trở về Vitebsk để đích thân lắng dịu vấn đề. Ngài biết rất nguy hiểm nhưng cho biết, “Nếu tôi xứng đáng được phúc tử đạo, thì tôi không sợ chết.”
Những người ly khai coi đây là cơ hội để trừ khử Josaphat và làm ngài mất uy tín nếu họ xúi giục được phe của ngài nổi loạn trước và coi đó là cái cớ để chống lại. Sự đe dọa tính mạng của ngài quá lộ liễu đến nỗi ngài phải lên tiếng, “Quý vị muốn giết tôi sao. Quý vị phục kích tôi trên đường phố, trên cầu cống, trong chợ búa, ở khắp mọi nơi. Chính tôi đây. Tôi đến với quý vị như một mục tử. Quý vị biết là tôi rất vui mừng để hy sinh cho quý vị. Tôi sẵn sàng chết cho sự hợp nhất của Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô và các Giáo Hoàng kế vị.”
Khi người ly khai thấy kế hoạch thất bại, họ lập mưu bằng cách đưa một linh mục tên Elias đến nơi tụ họp của phe đức Giám mục để lên tiếng sỉ vả bất cứ ai đi ngang qua, nhất là vu khống đức Giám mục Josaphat và Giáo hội Công giáo, cốt để chọc tức.
Biết được thâm ý của họ, đức Giám mục Josaphat giữ im lặng và cầu nguyện nguyên ngày. Qua ngày hôm sau, Elias lại đến nữa và các người phục dịch của đức Giám mục đã bắt nhốt Elias trong một căn phòng khi ngài đi vắng. Trở về nhà, thấy vậy ngài đã mở cửa phòng cho Elias trốn đi. Nhưng đã quá trễ. Ðám ly khai chỉ chờ có thế để báo động cả thành phố đến bao vây với gậy gộc trên tay.
Khi bước ra sau vườn, ngài thấy đám du côn đánh đập các người phục dịch và các linh mục khác, ngài lớn tiếng kêu: “Này các con, các con làm gì những người đó vậy? Nếu các con muốn chống đối cha, thì có cha đây, đừng đụng đến những người ấy!” Sau tiếng hô to, “Hãy giết tên theo Giáo Hoàng,” bọn họ đánh đập đức Giám mục Josaphat với gậy gộc, sau đó họ dùng rìu và cuối cùng bắn vào đầu ngài. Thi thể đầy máu của ngài bị họ kéo lê ra sông và quăng xuống đó cùng với xác con chó của ngài.
Những anh hùng vô danh trong thảm kịch này là các người Do Thái ở Vitebsk. Họ đã liều mạng xông vào tòa Giám mục để can gián và cứu những người trong tòa Giám mục khỏi bị sát hại. Nhờ sự can đảm của họ, nhiều người đã được cứu sống. Cũng chính những người Do Thái này đã công khai lên án các tên sát nhân và thương tiếc đức Giám mục Josaphat, trong khi người Công giáo ở thành phố lại trốn chui trốn nhủi vì sợ hãi.
Lẽ thường ta vẫn thấy sự bạo động luôn luôn có hậu quả trái ngược. Vì hối hận và kinh hoàng về cuộc bạo động khiến họ mất đi một vị Giám mục thánh thiện nên công chúng lại hướng về sự hợp nhất với Rôma. Và sau cùng, đức Tổng Giám mục mà phe ly khai dựng lên là Meletius Smotritsky cũng đã hoà giải với Rôma.
Vào năm 1867, đức Giám mục Josaphat là vị Thánh đầu tiên của Giáo hội Ðông phương được Rôma tuyên phong Hiển thánh.
Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở các tín hữu khi tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”. “Chúa lại đến”, đó là niềm xác tín của người Kitô hữu. Tuy nhiên, ngày đó có phải là năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết ngày giờ nào.
Chính vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi.
Và ta tháy đó cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên Chúa thời cánh chung: Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của con người chính là khả năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi tưởng quá khứ và dự phóng tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường sinh bất tử. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch ra cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu.
Và khi ai nào đó sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Chúa Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.