2021
QUYỀN NĂNG CỦA THẦY GIÊSU
31 24 X Thứ Ba Tuần XXII Thường Niên.
1Tx 5,1-6.9-11; Lc 4,31-37.
QUYỀN NĂNG CỦA THẦY GIÊSU
Ma quỷ biết Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi sự thiện hảo, đáng yêu mến. Thế nhưng chúng lại không chấp nhận để Thiên Chúa can thiệp vào đời chúng; với một lòng thù hận không thể rút lại, chúng không chấp nhận một mối tương giao nào với Thiên Chúa. Thế mà giờ đây chúng vẫn phải đối mặt với Ngài. Đó chính là nỗi thống khổ cùng cực của ma quỷ, của hoả ngục: muốn hoá thành hư không để khỏi đau khổ mà không thể được. Đó là lý do của tiếng kêu thét: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?”
Tin mừng hôm nay, thánh sử Luca đã đề cập tới quyền năng thần linh của Chúa Giêsu tại Ca-phác-na-um. Chúa Giêsu tỏ quyền năng qua lời giảng dạy, qua các phép lạ, qua việc xua trừ tà thần… để minh chứng rằng: không những Thiên Chúa đang ở với Ngài, mà chính Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là Đấng “Thiên Chúa ở cùng” con người. Vì thế, Ngài dùng quyền năng duy chỉ tìm kiếm cho vinh quang Cha Ngài và hoàn tất ý định của Thiên Chúa Cha mà thôi.
“Ngài xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Galilê”. Thánh sử Luca giới thiệu về địa điểm hoạt động trong một ngày điển hình của Chúa Giêsu tại thành này như tóm lược hoạt động cứu thế của Ngài.
Ở đây, chúng ta không thấy thánh sử nhắc đến các môn đệ, vì ông chưa thuật lại việc kêu gọi các đệ tử. “Ngày sa-bát, Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng”, đó là thói quen của Chúa Giêsu khi Ngài đến hội đường trong các dịp lễ hội “Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh”(4,15). “Dân chúng sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Ngài có uy quyền”, không như các kinh sư khác, dân chúng nhận ra quyền năng trong chính lời giảng dạy của Chúa Giêsu, khiến họ xầm xì, bàn tán và ngạc nhiên. Lời nói của Ngài có sức mạnh lạ thường. Lời đầy quyền năng và lời trừ quỷ thần ô uế kế tiếp là một trong những biểu hiện của lời quyền năng ấy. Giáo huấn và chữa lành có liên hệ mật thiết với nhau.
“Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập”. Người Do Thái ưa dùng từ “thần ô uế” nghĩa là xấu xa. Điều đó chỉ rõ sự đối kháng giữa sức mạnh ác thần và sức mạnh Thánh Thần. Ở đây, thánh sử Luca viết về một người bị quỷ ô uế nhập. Việc chữa lành đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi Ngài giảng dạy dân chúng là thực hiện việc trục xuất quỷ ô uế này, giải thoát con người khỏi sự kiềm chế của sự dữ. Quỷ ô uế la to “Ông Giêsu Nagiaret…. ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?…ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Qua lời này, chúng ta thấy tên quỷ nhận ra người trừ tà là ai và biết rõ sứ vụ của Ngài, nên nó chống cự lại. Nó tự hỏi đã đến giờ thế giới của sự ác, của tối tăm, của ma quỷ sụp đổ chưa ? Chúa Giêsu có đến tiêu diệt nó sớm quá chăng? có trước thời hạn không? Tên quỷ này còn biết danh xưng của Đức Giêsu “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ở đây không phải là lời tuyên xưng đức tin, nhưng như một lời cám dỗ về địa vị, về thiên tính của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không muốn quỷ nói ra danh xưng đó vì “giờ” của Ngài chưa đến, nên Ngài quát mắng tên quỷ ” Câm đi! ” và ra lệnh ” Hãy xuất khỏi người này!”. Đây là một lời hăm dọa và cũng là lệnh truyền. Lời Ngài có uy quyền khiến ma quỷ phải tuân lệnh. Quỷ vật người ấy ngã xuống, nhưng không làm hại người bệnh và xuất ra. Quỷ xuất ra cách công khai. Mọi người đều thấy và nhận ra quyền năng trong lời nói của Chúa Giêsu “Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải xuất”.
Với tất cả những điều như thế, dân chúng đã nhận ra sức mạnh của Lời phát xuất từ con người Đức Giêsu. Lời chữa lành. Lời xua trừ tà thần. Lời giải phóng con người khỏi sự khống chế của sự dữ. Lời đem lại sự sống. Và họ đồn thổi danh tiếng Ngài ra khắp vùng đó.
Trong cuộc sống ngày nay, giữa một xã hội thực dụng và tội lỗi, tà thần lan tràn và len lỏi vào từng ngóc nghách của cuộc sống, tâm hồn của con người. Càng ngày càng có nhiều người tâm thần không ổn định, nội tâm bị cưỡng bức. Họ tìm đến y học, pháp thuật, ma thuật… mà quên đi Đấng có quyền xua trừ ma quỷ và chữa lành nội tâm họ. Họ tìm đến con người để được chữa lành thể xác nhưng lại quên đi một vị thần linh, một vị Thiên Chúa uy quyền, toàn năng trên mọi người, mọi vật, có quyền sinh tử cả xác và hồn. Con người ngày càng bị lệ thuộc, bị khống chế bởi tà thần khác nhau như : danh vọng, địa vị, tiền bạc, hưởng thụ… đến khi không được đáp ứng theo nhu cầu hoặc cuộc sống không có lối thoát, họ tìm cách kết liễu cuộc đời.
Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: “Câm đi, hãy ra khỏi người này”, thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ đương thời.
Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi”.
Lời Chúa là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.
2021
BỤT NHÀ CHẢ LẼ THIÊNG
30 23 X Thứ Hai Tuần XXII Thường Niên.
1Tx 4,13-18; Lc 4,16-30.
BỤT NHÀ CHẢ LẼ THIÊNG
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi.
Chúa Giêsu cuộn sách trả lại và ngồi xuống giảng giải. Ngài khẳng định: “ Hôm nay lời kinh thánh mà các ông vừa nghe đã ứng nghiệm” ( c.20). Như thế là một cách Chúa Giêsu giới thiệu mình chính là Đấng Mêsia, Đấng đến từ Thiên Chúa mang phúc lành cho toàn dân và hôm nay ơn cứu độ đã đến. Mọi người đều tán thành những lời ấy ( c.22). Họ tỏ ra hiểu được sứ điệp của lời Người vừa đọc và như sẵn sàng chuẩn bị đón chào con người của Ngài, là người vừa thốt ra lời hay ý đẹp.
Đến đây, chúng ta tưởng rằng việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu đã thành công ngay bước khởi đầu, ngay ngày “ ra quân”, thế mà họ lại xầm xì “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”. Một câu hỏi như muốn lột trần Chúa Giêsu bằng con mắt tự nhiên ghen tỵ của họ. Họ thức tỉnh chính họ rằng: con người bằng xương bằng thịt đang đứng trước họ chỉ là con người bình thường trong một gia đình lao động mà họ biết rất rõ veà thân thế và sự nghiệp. Đức Giêsu đã đọc được điều đó trong lòng họ, trong thái độ của họ nên Ngài vạch trần tỏ tường ghen tỵ ấy bằng một lời khẳng định : “ Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” ( c. 24). “ Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” ( Ga,11).
Đó là số phận của các ngôn sứ trong thời Cựu Ước và cũng là điềm báo cho số phận sau này của Chúa Giêsu. Ngài bị chính dân Ngài chối bỏ, giết chết bằng cách đóng đinh trên Thập Giá. Sống ngôn sứ là dám chết cho lời chứng của mình và cái chết là lối chứng hương hồn và sống động nhất. Như các ngôn sứ trong Cựu ước, như Gioan Tẩy Giả và nhất là như Đức Giêsu Đấng đã gióng lên tiếng yêu bằng cây Thập giá vinh quang. Đó là lối đường yêu thương của Thiên Chúa: Yêu đến cùng ( x. Ga 13,1).
Từ câu 25-27, Chúa Giêsu đưa ra dẫn chứng : Trong Cựu ước, những ai thuộc đoàn dân Chúa mà từ chối ơn lành, thì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ ấy cho dân ngoại như Êlia đã giúp bà goá Xa-rep-ta, như Êlisa đã chữa Naaman xứ Xyria. Những ví dụ này đánh động lòng chai cứng của người Do Thái, nhưng họ cứ chai lì trong sự bướng bỉnh, cố chấp nên thay vì họ thay đổi, sám hối, ăn năn thì họ lại tỏ ra phẩn nộ, điên cuồng.
Họ đồng phản ứng bằng cách: dứng dậy và lôi Chúa Giêsu ra khỏi thành, đưa lên đỉnh núi để tiêu diệt một con người dám nói lên sự thật, như gai nhọn đâm vào lòng họ. Họ muốn dập tắt tiếng nói lương tâm bằng hành vi giết chết một con người tiên tri. Nhưng họ không làm được vì giờ của Ngài chưa đến, vì con dường cứu độ của Ngài chỉ kết thúc ở Giêrusalem chứ không ở Nagiaret và Chúa Giêsu cứ tiếp tục con đường sứ vụ của Ngài “Ngài băng qua giữa họ mà đi” ( c.30). Ngài vẫn hiên ngang ra đi loan báo Tin Mừng, dù bị chống đối, phản kháng.
Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: “Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình”, đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
2021
CHO VÀ NHẬN
28 21 Tr Thứ Bảy Tuần XXI Thường Niên.
Thánh Au-gút-ti-nô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
1Tx 4,9-11; Mt 25,14-30.
CHO VÀ NHẬN
Là Kitô Hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi: ai ai cũng quen thuộc với tiểu sử tóm lược của Thánh Augustine Hippo, một tội-nhân-trở-thành-thánh-nhân. Nhưng có thực sự biết về cuộc đời thánh nhân thì điều đó mới có giá trị.
Dù khi xa cách Thiên Chúa hay hướng về Thiên Chúa, đời sống của ngài mau chóng đạt đến mức độ mãnh liệt. Nước mắt của mẹ ngài, những lời huấn đức của Thánh Ambrôsiô và, trên hết mọi sự, chính Thiên Chúa nói với ngài qua Kinh Thánh đã thay đổi tính đam mê thế gian của Augustine thành một cuộc đời đầy bác ái.
Từng đắm chìm trong sự cao ngạo về cuộc đời mình trong thời niên thiếu và từng say sưa cặn bã cay đắng của cuộc đời, nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Augustine, khi quay trở về, ngài đã phải chống trả với sự tấn công của ma quỷ bằng sự thánh thiện quyết liệt. Thời đại của ngài thực sự sa sút — về chính trị, xã hội và luân lý. Người ta vừa sợ và vừa mến ngài, giống như Thầy Giêsu. Ngài bị chỉ trích không bao giờ cùng: là bản tính khắt khe của loài người.
Cuộc đời ngài, do thiên ý, ngài đã chu toàn nhiệm vụ của một ngôn sứ. Như ngôn sứ Giêrêmia và các vị đại ngôn sứ khác, ngài bị bó buộc nhưng không thể giữ im lặng. “Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhắc đến Người, tôi sẽ không nhân danh Người mà lên tiếng nữa. Nhưng rồi như lửa bừng cháy trong tim, giam hãm thân thể tôi; và tôi cầm hãm không nổi, chịu đựng không thấu” (Giêrêmia 20:9).
Thiên Chúa cho ta nhiều hơn những gì ta xin. Ngài cho một cách quảng đại, không xẻn so tính toán. Và Chúa cũng dạy ta hãy cho đi như vậy. Dụ ngôn ông chủ và những nén bạc một lần nữa minh chứng cho lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Trước khi có việc đi xa, ông chủ gọi các đầy tớ đến và trao cho họ những nén bạc. Người năm nén, người hai nén, người một nén. Với số vốn ban đầu, mỗi người đều có cách riêng làm cho nén bạc đó sinh lời. Thế nhưng trong số họ, có người không biết sinh lời đã đem chôn nén bạc xuống đất và còn phiền trách ông chủ hà khắc. Ông chủ phán xử bằng cách “ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”. Mới nghe qua câu chuyện, ta sẽ cho rằng ông chủ này thật bất công, nhưng có lẽ đó mới là ông chủ nghiêm minh và công bình.
Có một chàng trai nọ trồng mấy chậu hoa ở ban công trong khu chung cư. Sau một thời gian, những chậu hoa buông nhành xống tầng lầu bên dưới. Lúc đầu, chàng trai định kéo chúng lên rồi buộc chặt lại. Nhưng sau đó anh cảm thấy làm như thế là quá ích kỷ nên thôi. Thế là chậu hoa của anh nhanh chóng tạo thành chiếc rèm buông xuống lầu dưới trông rất đẹp mắt.
Thời gian trôi qua và rồi mùa xuân đến, chàng trai hết sức ngạc nhiên thấy có một dây nho bò lên ban công nhà mình. Anh nhoài người nhìn xuống thì thấy có một cô gái xinh đẹp đang ngẩng lên mỉm cười với anh. Thì ra cô gái ở lầu dưới cảm kích trước món quà thiên nhiên của anh nên đã trồng một dây nho và cho nó vươn lên trên như một sự đền đáp. Thế rồi họ làm quen với nhau, khi giàn nho cho mùa trái ngọt thứ hai cũng là lúc chàng trai và cô gái đón nhận tình yêu ngọt ngào của nhau.
Cho và nhận là quy luật trong cuộc sống. Sống ở đời, người ta “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Nhưng con người tự nhiên thường thích nhận nhiều hơn là cho đi, không ai chịu cho không để bị thiệt thòi mất mát.
Hàng ngày chúng ta nhận lãnh từ thiên nhiên vũ trụ, từ cuộc sống nhiều hơn những gì chúng ta cho đi. Mặt trời cho ta ánh nắng ban mai ấm áp, bầu trời cho ta làn gió mát. Cỏ cây hoa lá đem đến cho ta sự tươi mới. Thời tiết tuần hoàn, vũ trụ nhịp nhàng chyển dịch đó chẳng phải là món quà vô giá mà ta nhận lãnh hàng ngày sao. Cha mẹ, gia đình, bạn hữu cho ta mối tương giao đằm thắm gần gũi. Mỗi phút giây ta sống trên đời đều gửi đến cho ta một lời nhắn nhủ thiết thân. Mỗi sớm mai thức dậy, ta có biết cám ơn cuộc đời cho ta có thêm một ngày sống để yêu thương không? Với ý nghĩa đó, hóa ra chúng ta là người rất giàu có, rất nhiều cái để cho, nhiều điều để sẻ chia với tha nhân.
Trong sách Công vụ tông đồ, thánh Phaolô viết “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). “Cho” với một xác quyết rằng chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều ân sủng từ Thiên Chúa. Những ân sủng ấy dành để phục vụ mọi người chứ không phải để ích kỷ cho riêng mình. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.
Cho như thế không làm chúng ta nghèo nàn mất mát nhưng càng được giàu sang, được lớn lên trong tương giao với người khác. Cho và nhận đều mang tính tuần hoàn. Điều ta cho sẽ không mất đi nhưng trở lại với những dạng thức khác mới mẻ hơn, vì rằng “trong cái mất luôn có cái được”. Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh của sự nghèo khó nhưng lại rất giàu có. Gia tài của Ngài là Thiên Chúa, bạn hữu của Ngài là thiên nhiên vũ trụ, tinh tú trăng sao…Ngài đã nên thánh bằng cuộc sống nghèo nhưng vẫn tự do bát ngát, nên thánh với niềm xác tín rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Như thế, cái chúng ta cho không chỉ là của cải vật chất mà là chính con người chúng ta. Chúng ta có thể trao cho nhau những điều rất đơn giản, sự chăm sóc yêu thương, một lời nói động viên, một cái nhìn thông cảm hay một lời cám ơn, xin lỗi…
Điều quan trọng không được quên là, Chúa là Thiên Chúa của tình yêu, của lòng thương xót, luôn luôn tôn trọng tự do của con người, nhưng ngài cũng là Thiên Chúa của sự công minh, của sự phán xét.
Ngài phán xét về sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chính chúng ta sẽ chịu trách nhiệm về số phận đời đời của chúng ta. Trái với một số người cho rằng, con người chúng ta hoàn toàn bị chi phối bởi các định luật tất yếu, bởi các điều kiện có sẵn, như: môi trường, giới tính, sắc tộc, gia đình…, cho nên không còn trách nhiệm nữa. Đối với Chúa Giêsu, thì dứt khoát không phải như thế. Chúng ta có hoàn toàn tự do để chọn lựa số phận đời đời của chúng ta. Do đó, tự do là điều rất nghiêm túc, rất quan trọng.
Như thế, sự phán xét của Thiên Chúa hoàn toàn dựa trên những quyết định tự do của chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Rõ ràng người đầy tớ thứ ba rất ý thức về điều anh ta làm. Anh ta đã tự bào chữa một cách trâng tráo, nhưng anh ta biết mình đã muốn làm gì, và đã quyết định làm. Chính anh ta, hoàn toàn tự do, đã không muốn làm sinh lợi gia sản của chủ. Có thể nói, sự phán xét của ông chủ đã hoàn toàn nằm trong quyết định có tính toán của anh ta. Nói khác đi, anh ta đã tự kết án chính mình.
Sau cùng cũng nên nhớ rằng, sự phán xét của Thiên Chúa đã bắt đầu từ bây giờ. Chúa Giêsu luôn luôn nhấn mạnh với chúng ta là, hãy luôn luôn sẵn sàng chờ đón ngài trở lại. Chính ngày hôm nay, chính giây phút hiện tại sẽ làm nên số phận đời đời của chúng ta. Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng. Nếu chúng ta không biết làm sinh lợi những nén bạc đã nhận được, thì chính ngày hôm nay, chúng ta đã tự kết án chúng ta rồi vậy. Ngược lại, nếu chúng ta luôn tỉnh thức, sẵn sàng, bằng một đời sống bác aí với những việc làm cụ thể, có hiệu quả cho anh em, thì rõ ràng chúng ta đang chuẩn bị Nước Trời cho chúng ta.
2021
Tích Cực Sống Ðức Tin
27 20 Tr Thứ Sáu Tuần XXI Thường Niên.
Thánh nữ Mô-ni-ca, lễ nhớ.
1Tx 4,1-8; Mt 25,1-13.
Tích Cực Sống Ðức Tin
Người phụ nữ luôn kiên vững trong Niềm Tin vào Chúa và liên lỉ cầu nguyện giữa bao gian truân khốn khó trong đời sống Gia Đình.
Thánh Nữ Monica sinh năm 331 tại thành phố Tagaste, Phi Châu (bây giờ thuộc nước Algeria), trong một gia đình Công Giáo. Khi cò là một thiếu nữ, vâng lời cha mẹ, Monica lập gia đình với Ông Patricius, một người không công giáo. Ông Patricius là một viên chức hành chánh ở Tagaste. Monica sống với chồng và mẹ chồng. Ông Patricius hơn Thánh nữ nhiều tuổi. Hai ông bà sinh được ba người con: Augustinô, Navigio, và Perpetua. Mặc dầu thánh nữ muốn các con được chịu phép Thánh Tẩy theo lễ nghi Công Giáo, nhưng Patricius nhất định không chịu. Ông là một người tốt bụng, nhưng tính tình nóng nảy và thích sống đời sống ăn chơi phóng khoáng.
Vì thế, mặc dầu vẫn kính nể đời sống tốt lành của Monica, những lại không thích lối sống mà ông cho là quá đạo đức, nhiệm nhạt. Hơn nữa mẹ của Patricius cũng bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do của Patricius, con bà. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Monica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.
Tuy nhiên, vì có đời sống đức tin vững mạnh và luôn sống theo tinh thần Phúc Âm theo tình thương của Chúa Kitô, Monica vẫn kiên trì chịu đựng mọi sự khó hằng ngày theo thánh ý Chúa. Monica vẫn một lòng yêu mến và kính trọng chồng và mẹ chồng; trong cách sống bà luôn nêu gương sáng cho các con và giáo dục các con theo tinh thần Phúc Âm của Chúa, dậy các con biết làm Dấu Thánh Giá, đọc kinh và cầu nguyện. Vì có lòng thương người và hay giúp đõ những nười nghèo khó, Monica được mọi người trong vùng yêu mến; hơn nữa, mọi người lại nể phục Monica như một người vợ và người mẹ rất gương mẫu.
Monica phải sống những chuỗi ngày trong đau khổ cả về tinh thần lẫn thể xác, trong nước mắt và cầu nguyện tha thiết với Chúa. Sau cùng, chính Ông Patricius và bà mẹ chồng cũng ăn năn hối hận và xin lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và trở nên người Công Giáo vào năm 371. Ít lâu sau trong năm 371, ông Patricius qua đời trong niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Hai người con là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập giáo hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.
Nhưng Chúa vẫn để Monica tiếp tục vác Thánh Giá theo chân Chúa. Thánh Giá đó là chính người con trưởng của bà, ông Augustinô. Augustinô là một người rất thông minh, lanh lợi và hoạt bát, lại thích giao du bạn bè và thích sống đời sống tự do, phóng khoáng như người bố trước đó. Vì thế, dù mẹ nói mấy mặc lòng, Augustinô nhất định không chịu gia nhập đạo thánh Chúa, vì ông không thích lối sống theo lề luật của Chúa và Giáo Hội. Trái lại ông thích sống theo các quan niệm của các triết thuyết và giáo phái có quan điểm sống tự do và buông thả hơn.
Sau khi học xong, Augustinô trở nên một Giáo Sư và càng ngày càng nổi tiếng tại quê hương Tagaste của ông. Sau một thời gian Augustinô di chuyển đến thành phố phồn thịch là Carthage ở Bắc Phi, cũng là nơi Augustinô đã theo học trước đó (Carthage là phần đất gần thủ đô Tunis của nước Tunnisia bấy giờ).
Thế rồi vào năm 383, lúc Augustinô 29 tuổi, vì muốn bay nhảy cho “thỏa chí tang bồng”, muốn thăng tiến đường công danh sự nghiệp, muốn nghiên cứu và học hỏi thêm, lại muốn xa cách người mẹ cúc lúc nào cũng theo sát bên mình khuyên nhủ, Augustinô quyết định rời bỏ quê hương Phi Châu để đi Rôma (thủ đô của Đế Quốc Rôma thời đó, cũng là trong tâm văn minh của thế giới đương thời).
Nhưng dù đi đâu xa xôi mặc lòng, Augustinô cũng không thể xa được người mẹ quyết tâm đi theo con mình đến bất cứ chân trời góc biển nào. Vừa đi theo tìm con, vừa khóc lóc, cầu xin Chúa cho con mình hồi tâm ăn năn trở về với chúa và Giáo Hội.
Khi Augustinô rời bỏ Rôma để đến Milan (ở miền Bắc nước Ý và là một Thành Phố cũng nổi tiếng thời đó về văn chương và nghệ thuật), Monica cũng đi theo.
Trên đường đi theo con, Monica thường đến gặp các linh mục và tu sĩ, và bất cứ ở đâu cũng xin các Ngài cầu nguyện người con “cứng lòng” của mình. Nhiều người lúc đó quen biết tính tình của Augustinô, thì coi như đã “hết thuốc chữa”. Nhưng bà Monica thì không bao giờ thất vọng, luôn vững tin rằng Chúa sẽ cứu vớt con mình. Một ngày kia, Bà gặp một linh mục để xin cầu nguyện. Cha này đã nói với Monica: “Không thể nào có một ngưòi con mà bà mẹ đã đổ ra bao nước mắt để khóc thương và cầu nguyện cho, lại có thể hư mất được!” Nhờ lời khuyến khích của vị linh mục này mà Monica càng vững lòng trông cậy nơi Chúa và cứ tiếp tục cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện với nước mắt và hy sinh hãm mình.
Cuối cùng sau 17 năm trường, sống trong khóc lóc, hy sinh, hãm mình, làm việc bác ái và cầu nguyện nhiệt tình với Chúa, Monica đã cứu được người con “vô hy vọng” của mình. Vào năm 386, lúc 33 tuổi, Augustinô đã nhận ra “chân lý vĩnh cửu” và tin vào Phúc Âm tình thương của Chúa là chân thật và là con đường cứu rỗi.
Augustino đã từ bỏ tất cả chủ trương sai lạc, quyết tâm gia nhập Giáo Hội Chúa và xin chịu phép Thánh Tẩy do chính tay Đức Tổng Giám Mục thành Milan lúc đó là Ambrosio, cũng là một người gia nhập đạo Thánh Chúa lúc 34 tuổi, ngay khi đươc bầu lên làm Tổng Giám Mục Milan và là Thánh Ambrosio, một vị Thánh Giáo Phụ thời danh của Giáo Hội, mà chúng ta mừng kính Ngài vào ngày 7 tháng 12.
Sau khi gia nhập Giáo Hội Chúa, Augustinô đã từ bỏ mọi tham vọng và vui thú trần gian, trở về quê hương Phi Châu, bước vào cuộc đời tu trì khổ hạnh, rồi được chọn làm Giám Mục thành phố Hippo. Sau 34 năm tận tụy chăn dắt đoàn chiên Chúa, Ngài đã được Chúa gọi về Nước Chúa vào năm 430, lúc Ngài 76 tuổi.
Thánh Augustinô viết nhiều tác phẩm về thần học và triết học. Ngài được kính như một Thánh Giáo Phụ thời danh và là Thánh Tiến Sĩ trong Giáo Hội. Chúng ta kính lễ Ngài vào ngày 28 tháng 8 hằng năm (ngay sau lễ kính Thánh Monica 27 tháng 8). Thánh Augustinô cũng nổi danh là nhà triết học nhân bản, các tác phẩm có tính cách triết học của Ngài vẫn được các Giáo sư và sinh viên trong các trường đại học ngày nay trên thế giới nghiên cứu. Ôi sự kỳ diệu của ơn Thánh Chúa!
Riêng Monica, sau khi con mình trở về với Chúa và Giáo Hội, bà vô cùng vui mừng tạ ơn Chúa và đã cùng các con trở về Phi Châu. Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu, trên đường trở về quê hương, Chúa đã cất Monica về với Chúa tại Ostia, một hải cảng gần cửa sông Tibre ở Roma, vào năm 387, hưởng thọ 56 tuổi.
Thánh Nữ Monica đã được Chúa thương thực hiện những gì bà cầu xin, mà nhiều người cứ cho là vô vọng. Bà thật là một tấm gương tuyệt diệu cho mọi người chúng ta, nhất là các Bà Mẹ Công Giáo, để tất cả chúng ta luôn biết kiên trì hãm mình cầu nguyện trong niềm tin tưởng và tuyệt đối phó thác mọi sự trong tình thương và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa là Cha nhân từ của mọi người chúng ta.
Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.
Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.
Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.
Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.
Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.