2021
Ý Nghĩa Của Lề Luật
04 28 X Thứ Bảy Tuần XXII Thường Niên.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Cl 1,21-23; Lc 6,1-5.
Ý Nghĩa Của Lề Luật
Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người. Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi.
Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.
Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị Luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ sabát, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ, luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: “Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”. Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. “Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”. đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
Sự xuất hiện của Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng Cứu độ đã đem lại luồng sinh khí mới cho xã hội Do Thái lúc bấy giờ. Người ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, vì Người dạy dỗ với uy quyền của Thiên Chúa đã khuất phục quyền lực ma quỉ cũng như biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa luôn đứng về phía con người. Ngài không dùng luật pháp để o ép con người. Đó cũng là điểm nhấn mà bài Tin mừng hôm nay đề cập đến.
Trong thế giới hôm nay. Có khi luật pháp được làm ra không phải là để phục vụ mọi người, mà chỉ nhắm đến quyền lợi của thiểu số mà thôi. Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để đè bẹp con người. Chúa Giêsu luôn lên tiếng cảnh báo thái độ như thế. Thật ra Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ Ngài không đến để hủy bỏ lề luật, nhưng đến để kiện toàn.
Tin mừng hôm nay nói đến cuộc tranh luận giữa những người Biệt phái và Chúa Giêsu về luật lệ ngày Hưu lễ khi các môn đệ đi qua đồng lúa đã bứt vài bông lúa vò ra mà ăn cho đỡ đói. Trước thái độ gây hấn của những người Biệt phái, lần nào cũng vậy Chúa Giêsu luôn đối đáp điềm tĩnh và hợp lý. Trường hợp người ta đến gài bẫy hỏi Chúa Giêsu có nên nộp thuế cho César không. Ngài cũng đã điềm tĩnh khôn ngoan trả lời: của Chúa thì hãy trả cho Chúa, của César hãy trả cho César. Lần khác, trường hợp người phụ nữ bị kết án tử hình phải ném đá chiếu theo luật, người ta cũng hỏi Chúa đồng thời cũng là cái bẫy. Chúa Giêsu cũng điềm tĩnh trả lời: Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá người này trước đi.
Và lần này về luật hưu lễ. Chúa Giêsu cũng dẫn chứng hành động của vua Đavít, và Ngài khẳng định hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Đó là ý nghĩa lề luật mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những người Biệt phái. Họ đã quên rằng chính Chúa Giêsu hiện diện giữa họ là mục đích, là chủ ngày Hưu lễ. Tuy nhiên trong tâm thức hẹp hòi và không tin vào sứ mạng của Chúa Giêsu, những người biệt phái lấy việc tuân giữ các chi tiết phức tạp của ngày hưu lễ làm tiêu chuẩn để xét giá trị của Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài.
Trong cuộc sống hôm nay, không thiếu những người chúng ta hôm nay rơi vào lỗi lầm này. Khi chúng ta chúng ta muốn dùng sức mạnh, địa vị, lời nói, phán đoán của riêng mình để đàn áp, phê phán thiếu công minh, nhân hậu thì rất dễ rơi vào sai lầm.
“Thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người” đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các mối tương trong xã hội. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ Ngài một thái độ dứt khoát rõ ràng : không thể vừa vâng lời Thiên Chúa lại vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
2021
Dứt Khoát Tận Căn
03 27 Tr Thứ Sáu Tuần XXII Thường Niên.
Thánh Grê-gô-ri-ô Cả, Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Thứ Sáu đầu tháng. Ngày đền tạ Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu.
Cl 1,15-20; Lc 5,33-39.
Dứt Khoát Tận Căn
Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp sau nổi tiếng hơn sự nghiệp trước. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma.
Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và ngài còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma.
Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt, săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.
Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua Lombard.
Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ – thật lộn xộn, vô trật tự – nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả”.
Cuốn sách của ngài, Cách Chăm Sóc Mục Vụ, nói về nhiệm vụ và đặc tính của một giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.
Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn để biện minh cho thái độ ấy. Trước hết, Ngài nói đến sự hiện diện của Tân Lang: bao lâu Tân Lang còn đó, thì việc chay tịnh được miễn chuẩn. Trong Cựu Ước, việc giữ chay gắn liền với việc mong đợi Ðấng Cứu Thế. Chay tịnh là thể hiện của lòng mong đợi. Gioan Tẩy giả đã lấy chay tịnh làm qui luật cơ bản cho cuộc sống của ông và của các môn đệ. Như vậy khi miễn chước cho các môn đệ của Ngài khỏi chay tịnh, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, họ không còn phải mong đợi gì nữa; thời cứu thế đã đến, con người không còn phải chay tịnh, trái lại, họ phải vui mừng hoan hỉ.
Dụ ngôn thứ hai Chúa Giêsu đưa ra để giải thích tại sao các môn đệ Ngài không phải giữ chay, đó là hình ảnh chiếc áo mới và rượu mới: Không nên lấy áo cũ mà vá vào áo mới, không nên đổ rượu mới vào bầu da cũ. Dĩ nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý bảo rằng cái mới thì đương nhiên tốt hơn cái cũ; Ngài không có ý so sánh cho bằng đưa ra một sự bất tương hợp. Bài học thật rõ ràng: không nên có thái độ nước đôi hoặc thỏa hiệp, mà phải dứt khoát tận căn. Bài học này được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần khi nêu ra những điều kiện để vào Nước Trời: “Hãy bán tất cả, bố thí cho người nghèo, rồi đến theo Ta”, “Ai cầm cày mà còn ngó lại sau, thì không xứng với Nước Thiên Chúa”, “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Tựu trung, vì Ngài, con người phải chấp nhận hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống mình.
Trình thuật Tin mừng hôm nay cho thấy hai hình ảnh cụ thể là sự hiện diện của Tân lang và rượu mới trong bầu da mới nhằm giải thích cho các biệt phái và luật sĩ hiểu rõ việc làm của các môn đệ và những đòi hỏi của Tin mừng. Hình ảnh đầu tiên mà Chúa Giêsu nói đến là sự hiện diện của Tân Lang: “Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng?”. Khi con người sống trong niềm vui vì có Tân Lang hiện diện thì mọi người có thể sống niềm vui đó một cách trọn vẹn khi chia sẻ với nhau những bữa tiệc mà không phải sống nhiệm nhặt, chay tịnh và người ta có thể vui mừng hoan hỷ cách trọn vẹn. Cũng vậy, các môn đệ của Ngài lúc này không phải ăn chay, cầu nguyện vì họ đang có Thiên Chúa hiện diện cùng họ, chia sẻ cuộc sống với họ.
Kế đến, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh thứ hai là áo mới và rượu mới: “Không ai xé miếng vải áo mới mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, áo mới đã bị xé, mà mảnh vải áo mới lại không ăn hợp với áo cũ. Cũng chẳng ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; chẳng vậy, rượu mới sẽ làm vỡ bầu da, rượu chảy ra và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới phải đổ vào bầu da mới, thì giữ được cả hai”. Hình ảnh này giải thích cho các biệt phái và luật sĩ thấy việc các môn đệ của Chúa Giêsu không phải giữ chay. Như vậy Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải lựa chọn giữa cái cũ là lối sống đạo, những lề thói xưa cũ của người Do thái và những cái mới là những đòi hỏi của Tin Mừng. Khi chúng ta mang đầy những ích kỷ, gian tham vào trong cuộc sống hiện tại của mình thì như chúng ta xé miếng vải mới vá vào áo cũ. Sự không tương thích đó làm cho cuộc sống của ta thêm khập khiễng. Trái lại, chúng ta được mời gọi từ bỏ lối sống cũ đó là những gian tham, ích kỷ để đi trên một con đường mới là canh tân theo các giá trị của Tin Mừng, sống theo Lời Chúa dạy và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Để tránh việc phải đổ rượu mới vào bầu da cũ cũng như việc lấy vải mới mà vá vào áo cũ, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần từ bỏ lối sống cũ, vụ hình thức bên ngoài để có thể đón nhận những mạc khải của Tin Mừng và lời mời gọi sống theo gương của Chúa Giêsu, luôn sống cho và sống vì người khác. Chúng ta cũng cần thay đổi cách sống đạo và giữ đạo của chính mình hôm nay. Giữ đạo không chỉ là việc chăm chỉ đến nhà thờ mỗi ngày mà còn phải là việc không ngừng học hỏi và trau dồi giáo lý, tránh các lạc thuyết sai lạc đức tin làm lung lay đời sống đức tin của mình; đồng thời giúp cho người khác hiểu rõ hơn về giáo lý, giáo dục đức tin cho những người chúng ta có trách nhiệm và loan báo Tin mừng của Chúa cho tha nhân. Chúng ta cũng được mời gọi sống đạo qua việc làm bằng cách sống ngay thẳng, chân chính trong mọi hoàn cảnh, biết mở lòng đón nhận anh chị em mình, chia sẻ giúp đỡ những người đang gặp khó khăn về tinh thần hay vật chất.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại niềm tin cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Thỏa hiệp vốn là cơn cám dỗ triền miên trong cuộc sống đạo của chúng ta: Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, nhưng lại đeo đuổi những gì nghịch với Tin Mừng; đi theo Chúa Kitô, nhưng lại không muốn sống theo giáo huấn của Ngài; muốn là thành phần của Giáo Hội, nhưng lại chống báng Giáo Hội. Thỏa hiệp để được cả đạo lẫn đời như thế cũng chỉ là đánh mất bản thân mà thôi. Lời sách Khải huyền đáng được chúng ta suy nghĩ: Thà ngươi nguội lạnh hay nóng hẳn đi; nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta mửa ngươi ra khỏi miệng.
2021
Sự Hiện Diện và Tác Ðộng của Chúa
02 26 X Thứ Năm Tuần XXII Thường Niên.
Ngày Quốc Khánh. Cầu cho Tổ Quốc được bình an thịnh vượng.
Thứ năm đầu tháng. Ngày các Linh mục.
Cl 1,9-14; Lc 5,1-11.
Sự Hiện Diện và Tác Ðộng của Chúa
Ý nghĩa của mẻ cá và ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay sẽ được sáng tỏ, nếu chúng ta nắm bắt được quan niệm của người Do thái về biểu tượng của nước, nhất là của biển cả. Người Do thái tin rằng biển cả là nơi cư ngụ của Satan và những lực lượng chống đối Thiên Chúa. Trong niềm mong đợi chung, người Do thái tin rằng chỉ có Ðấng Cứu Thế được Thiên Chúa sai đến mới có đủ uy quyền để chế ngự biển cả và giải thoát tất cả những ai đang bị chôn vùi trong đó.
Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy được quyền năng giải thoát của Ngài khi thực hiện mẻ cá lạ lùng trước mặt các ông. Chiếc lưới được thả vào lòng biển khơi để vớt cá lên, đó là hình ảnh của công cuộc cứu thoát mà Ngài đang thực hiện. Ngài đến là để lôi kéo con người khỏi vực sâu của tội lỗi và sự dữ. Chính trong ý nghĩa ấy, Chúa Giêsu dùng kiểu nói “đánh lưới người” mà Ngài sẽ trao phó cho các môn đệ và Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập; trở thành ngư phủ đánh lưới người có nghĩa là tham dự vào công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu.
Qua mẻ cá lạ lùng, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng tự sức họ, họ không thể làm được gì. Thánh Phêrô đã ý thức được điều đó: “Chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Thánh Phêrô không chỉ nói lên cái giới hạn bất toàn của con người, mà còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình: “Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
Ý thức về thân phận ấy và sống cho đến cùng thân phận ấy là cả một cuộc chiến đấu cam go. Hơn ai hết, thánh Phêrô đã cảm nghiệm được sự yếu đuối mỏng giòn của con người khi chối Thầy; cả cuộc đời ngư phủ đánh lưới người của Phêrô chỉ trở thành hữu hiệu với ý thức ấy. Càng thấy mình yếu hèn, con người càng sống gắn bó với Chúa; càng thấy mình vô dụng, con người càng trở nên hữu hiệu trong quyền năng của Chúa. Ra đi tản mát khắp nơi để trở thành ngư phủ đánh lưới người, tất cả các môn đệ đều nhớ lại bài học của mẻ cá lạ ấy và tâm niệm lời Chúa Giêsu: “Không có Thầy, các con không làm được gì”.
Chúa Giêsu tỏ ra rất tế nhị với Simon. Người không nhận định gì về tình trạng tâm hồn của ông, Người không khuyến cáo; trái lại Người để cho ông làm một hành vi đức tin. Kết quả là Simon nhận ra sự cao cả, sự tốt lành và quyền lực của Chúa Giêsu, nên ông đã dễ dàng, như theo bản năng, từ bỏ các tội lỗi của ông. Khi đó, ông trở nên hoàn toàn tự do, ông có thể hiểu lời mời gọi của Người. Lời mở đầu: “Đừng sợ!” chứng tỏ sự can thiệp của Chúa Giêsu mang màu sắc một cuộc thần hiển thực thụ. Lời hứa của Chúa Giêsu: “Từ nay, anh sẽ là người thu phục người ta như bắt cá” được thêm vào kinh nghiệm mà Simon đã có về tính vững chãi của lời Chúa Giêsu nói. Simon nhận biết Chúa Giêsu như là Đấng muốn người ta đón tiếp Tin Mừng. Trong một cách thức chưa rõ mấy, Chúa Giêsu cho ông hiểu rằng ông phải tham gia vào lối hành động này, nhưng luôn dựa vào quyền lực của Người.
Qua sự kiện mẻ cá lạ lùng, Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người ngư phủ lão luyện là Phêrô lại vâng lời một bác thợ mộc để thả lưới dù suốt đêm hôm trước vất vả chẳng bắt được gì. Lạ hơn nữa là việc Phêrô vâng lời Thầy thả lưới đã đem lại kết quả nằm mơ cũng không thấy: cá nhiều đến nỗi lưới hầu như rách, hai chiếc thuyền đầy khẳm muốn chìm. Không chỉ dừng lại ở sự kiện lạ lùng đó, Ngài muốn đưa Phêrô và các môn đệ đi xa hơn nữa, đó là Ngài muốn các ông đi “thả lưới bắt các linh hồn”. Lời đầy quyền năng của Đức Kitô không chỉ làm các môn sinh “tâm phục khẩu phục” mà vâng lời Thầy một cách hoàn toàn tin tưởng phó thác, mà còn đi xa hơn, vượt lên trên những giới hạn của trần thế này để đáp lại những đòi hỏi của Nước Trời.
Khi biết nhìn đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta, quyền năng cũng như lòng tốt của Ngài, chúng ta mới nhận ra sự nghèo nàn và cần ơn cứu độ của chúng ta. Simon đã nhân ra điều đó, ông không sợ hãi gì nữa; cho dù kẻ khác có nghĩ ông là một kẻ tội lỗi, điều này cũng quan hệ gì. Ông đã bước được một bước quyết liệt trong việc giải phóng bên trong. Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người. Con thuyền của Phêrô chính là Hội Thánh. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục dạy chúng ta trên chiếc thuyền này, dọc theo dòng các cuộc cử hành Phụng vụ, và nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.
Chính Thiên Chúa ban ơn gọi cho loài người. Mọi người phải bỏ mọi sự mà đáp trả quảng đại. Như thế là thực hiện một bước điên rồ, nhưng chính bước điên rồ này làm nên con người. Simon đã thực hiện sự từ bỏ này khi thả lưới trái với kinh nghiệm thông thường, rồi sau đó, khi bỏ mọi sự mà bước theo Chúa Giêsu. Nhờ dám “đánh liều cuộc đời”, Simon trở thành người mà Thiên Chúa nhắm khi cho ông xuất hiện trong cuộc đời. Trong gia đình Kitô hữu, giáo dục con cái biết sống quảng đại là cách thức tốt nhất để chuẩn bị cho con cái sống quảng đại, để nhờ đó, chúng thực hiện được chương trình của Thiên Chúa.
Ta thấy ngư phủ Phêrô sẽ có một thị kiến giống ngôn sứ Isaia: ông sẽ được thấy một điều đáng kinh ngạc. Thị kiến và ơn gọi của Phêrô đến từ lời nói của Chúa Giêsu và kết quả của Lời ấy là một mẻ lưới đầy cá. Phêrô sẽ làm như Isaia và Giêrêmia khi các ông nghe được tiếng mời gọi. Ông trở nên sợ hãi trước Đấng phán ra lời có thể làm cho lưới đầy cá. Ông nhận thấy sự hiện diện phi thường và sức mạnh thánh thiêng của Chúa Giêsu và thấy mình bất xứng. Chúa Giêsu lại lên tiếng một lần nữa: Người mời gọi Phêrô hãy đánh cá kiểu mới. Từ nay trở đi, ông sẽ rời mắt khỏi lòng biển, luồng gió và thời tiết để quan tâm đến những người ông sẽ gặp gỡ và sẽ thấy những cơ hội để mang về cho Chúa Giêsu nhiều môn đệ hơn nữa. Ơn gọi của Phêrô không làm cho ông bớt bất xứng, nhưng nếu ông chú tâm lắng tai nghe lời của Đấng đang mời gọi ông, ông sẽ trở thành kẻ “thu phục người ta cho Chúa”
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng nhìn vào tác động của Chúa qua Giáo Hội. Ngài vẫn hiện diện trong con thuyền Giáo Hội, và ngoài mọi suy nghĩ, tính toán của chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục thực hiện những điều cả thể, ngay cả những lúc Giáo Hội tưởng mình bị bó tay không làm được gì. Lời nhắn nhủ của Ðức Hồng Y Etchegaray đáng cho chúng ta suy nghĩ: Người ta dễ chú ý đến tiếng động của cây rừng ngã đổ, mà lại quên đi âm thanh nhỏ bé của những mầm non đang mọc lên.
2021
Chữa Trị Bệnh Tật
01 25 X Thứ Tư Tuần XXII Thường Niên.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
Cl 1,1-8; Lc 4,38-44.
Chữa Trị Bệnh Tật
Bối cảnh trang Tin mừng Luca hôm nay tái hiện lại những phép lạ mà Đức Giêsu đã làm tại nhà mẹ vợ ông Si-môn (Phê-rô). Trình thuật kể rằng, sau khi Chúa Giêsu đã rao giảng ở hội đường, thì các Thầy trò dẫn nhau về thăm nhà mẹ vợ ông Si-môn. Khi đến nơi thì thấy bà mẹ vợ ông đang sốt nặng, tức là đang ở trong một tình trạng nguy kịch, không thể làm gì được. Mọi người đang lo lắng, và họ nài xin Chúa Giêsu chữa lành cho bà. Vậy là Đức Giêsu đã “ra lệnh” cho cơn sốt dứt ngay, và bà trở nên mạnh khỏe để phục vụ mọi người.
Và trình thuật kể tiếp, chiều đến có rất nhiều người “đưa đến” cho Chúa Giêsu những người bệnh tật và bị quỷ ám, và Ngài đã cứu chữa họ hết thảy. Ngài đã nhiệt tình giúp họ, chắc hẵn là rất mệt mỏi, vì tin mừng kể lại có rất đông người đến. Tuy vậy, sáng sớm Chúa Giêsu đã đến nơi hoang vắng cô tích để cầu nguyện, nhưng họ lại tìm đến người và xin Ngài ở lại cùng họ. Chúa Giêsu đã nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Trình thuật tin mừng hôm nay, chúng ta chú ý đến 2 điều:
Những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho không phải bởi lời cầu xin của chính đương sự, nhưng bởi lời cầu xin, bởi lòng của những người khác.
Mọi người muốn giữ Chúa Giêsu lại cho riêng họ, khi nhận được ơn phúc, nhưng Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy, “Loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” không chỉ dành riêng cho một nhóm nhỏ, nhưng cho tất cả mọi người.
Quả vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà mẹ vợ ông Phê-rô, bà đang sốt nặng và bà không thể cầu xin Chúa Giêsu chữa lành cho mình. Trình thuật nói “họ xin Ngài chữa cho bà”, họ ở đây chắc hẵn là những nguời thân của bà, những người hàng xóm láng giềng với bà; chính nhờ lời cầu xin của họ, hay nói đúng hơn nhờ lòng tin của họ mà Chúa Giêsu đã cứu chữa bà. Cũng vậy “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ”. Những người được chữa lành này, ta thấy cũng không phải bởi sự cầu xin của chính họ, nhưng là của những người đưa họ đến với Chúa Giêsu.
Chắc hẵn, ở nơi chính những bệnh nhân ấy, họ cũng có lòng tin vào Chúa Giêsu, nhưng chính họ không thể tự mình đến, hoặc có thể họ không dám đến vì những mặc cảm nơi mình, hoặc cũng có thể là chưa đủ tin vào quyền năng Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây là, những người được chữa lành ở ngôi nhà nhỏ hôm ấy có một sự cộng tác rất tích cực của những người khác, những người biết dẫn người khác đến với Chúa và dẫn Chúa đến với họ. Cuộc sống nơi mỗi người ki-tô hữu chúng ta cũng vậy, luôn được mời gọi để cầu nguyện cho người khác, hướng dẫn người khác đến với Chúa và giúp họ cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. Đó cũng chính là sứ mạng ngôn sứ nơi người tín hữu, sứ mạng đã lãnh nhận khi lãnh bí tích thanh tẩy.
Và điều thứ hai, trong trình thuật hôm nay muốn nhắc chúng ra rằng: Ơn Cứu Độ nhờ Tin mừng không phải chỉ dành riêng cho cá nhân, hay chỉ dành cho nhóm thân hữu của chúng ta, nhưng cho tất cả mọi người. Những người trong làng của mẹ vợ ông Phê-rô muốn giữ Chúa Giêsu ở lại với họ, bởi họ thấy những phép lạ điềm thiêng mà Chúa Giêsu đã làm trên họ, họ muốn sở hữu những ân huệ ấy cho riêng cộng đồng của họ, cho làng của họ thôi. Con người là vậy, luôn muốn có và khi có thì luôn muốn chiếm hữu cho riêng mình và rất khó cho chia sẻ với ai.
Đó là sự cám dỗ của thế tục, của tính người, tính xác thịt. Chúa Giêsu không lên án vì sự ích kỷ hẹp hòi của họ, bởi Ngài biết thân phận con người là thế và Ngài đã nói: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” Đây là một bài học lớn cho mỗi người tín hữu chúng ta, chúng ta sống là cùng và sống với người khác, do vậy, Hội Thánh không mời gọi con cái mình sống thánh thiện để lên Thiên Đàng một mình, nhưng lên cùng người khác. Chúa Giêsu đã nói và nêu gương cho chúng ta trong cách sống “Tôi còn loan báo cho những thành khác, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Đến lượt mình, chúng ta cũng không giữ Chúa cho riêng mình, nhưng biết giới thiệu và đem Chúa đến cho người khác, bởi tôi được “tái sinh” là để làm việc đó “giới thiệu Chúa cho người khác”.
Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ”. Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
Chúa Giêsu có thể chữa lành mà không cần phải cúi xuống trên từng người như thế. Bằng quyền năng, Ngài chỉ có thể phán một lời là tất cả mọi người có thể được lành bệnh. Nhưng Ngài đã không làm như vậy, Ngài muốn đụng chạm đến từng nỗi đau trên thân xác và tinh thần của bệnh nhân. Cũng như Ngài vẫn đang lắng nghe và đụng chạm đến từng tiếng lòng thổn thức của những con tim đau khổ trong từng người chúng ta. Việc chạm vào tay của Chúa Giêsu không chỉ đơn giản như chạm vào bàn tay của một người vô danh. Cho dù bạn là bất cứ ai thì Ngài cũng chỉ muốn chạm vào bạn một cách riêng tư nhất.