2021
YÊU THƯƠNG KẺ THÙ
09 03 X Thứ Năm Tuần XXIII Thường niên.
(Tr) Thánh Phê-rô Cơ-la-ve (Claver), Linh mục.
Hôm nay kỷ niệm ngày Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận tông tòa đầu tiên tại Việt Nam (Đàng Trong và Đàng Ngoài) và bổ nhiệm hai Giám mục coi sóc giáo đoàn Việt Nam với việc lo đào tạo linh mục bản xứ (09/9/1659).
Cl 3,12-17; Lc 6,27-38.
YÊU THƯƠNG KẺ THÙ
Khi gửi huấn thị cho các vị thừa sai lên đường đi Châu Mỹ La Tinh, Thánh Phanxicô Borgia đã viết cho họ rằng: nếu hoàn cảnh đưa đẩy họ đến việc phục vụ những người nô lệ, “thì điều duy nhất phải làm là lo giải phóng cho họ, chứ không phải là làm điều gì khác.”
Sự mù quáng của các Kitô hữu thời bấy giờ đã không cho phép ngài đòi hỏi gì hơn, như người ta có thể nói ngày nay, là cầm đầu cuộc đấu tranh cho công bằng. Đều này cũng không hơn gì sự mù quáng hiện nay của nhiều Kitô hữu đã không hiểu rằng việc phá thai mà hằng trăm hàng ngàn người đang làm là “một tội ác ghê tởm” như công đồng Vatican II tuyên bố.
Sau khi chân nhận rằng “có những lời chí trích chống lại việc chấp nhận cho có nô lệ,” Borgia ra lệnh “chỉ dùng những thổ dân tự do và tự nguyện, là những người hiểu rõ việc họ làm và tự do muốn lao động trong một thời hạn với một giá lương tương xứng mà ta sẽ thỏa thuận với họ.” Lối xử sự này là một điều chưa từng nghe thấy đối với nhiều người thời bấy giờ, vì ngay cả những người lương thiện thời ấy cũng nghĩ rằng ở Mỹ châu cần có những lao động lực lưỡng làm thay cho họ, và đó là những người Phi Châu bị cưỡng bức đem đi làm nô lệ.
Trong bối cảnh xã hội ấy, có một Giêsu hữu Tây Ban Nha đã sống một cách hào hùng, người đó là Phêrô Claver.
Phêrô Claver khám phá thấy một vấn đề lớn lao và rất nghiêm trọng. Ngài đã tìm ra một lối giải quyết theo cách thức của Mẹ Têrexa: trở thành nô lệ hơn cả những người nô lệ để trả lại cho họ phẩm giá con người. Sau khi thụ phong linh mục, ngài làm Năm Ba, rồi khấn lần cuối với lời khấn phụ: suốt đời làm nô lệ cho người da đen: “tôi Phêrô Claver, mãi mãi là nô lệ của những người Êthiôpi”. Chữ Ethiôpi lúc bấy giờ ám chỉ bất kỳ ai đến từ Châu Phi, tuy nhiên chữ này lại đầy ý nghĩa vì nó trói buộc Phêrô Claver, người đã muốn truyền giáo ở Phi Châu, theo dự án “Ethiopi” của chính thánh I-nhã.
Lúc ấy Phêrô Claver đã được 36 tuổi. Ngài sẽ sống thân phận nô lệ của những người nô lệ. “Ngài đã ở đó, hôm qua, để tiếp rước họ. Ngài đang ở đó, hôm nay, để tiếp nhận họ. Ngài sẽ ở đó, ngày mai, để chào đón họ, và ngày mốt nữa, suốt mọi ngày trong 40 năm trường”, như vị tu huynh An-phong Rodriguez, người gác cổng ở học viện Montesion 40 năm dài.
Đối với Phêrô Claver, khi được tin một chiếc tàu nô lệ sắp đến, ngài chờ sẵn ở cảng. Tàu vừa cập bến, ngài xuống giúp đỡ những người đau yếu, bệnh tật, thiếu ăn, thiếu mặc… Tiếp đến, ngài ở bên cạnh họ khi họ bị dồn vào vào những khu tập trung và bị đem bán như súc vật. Rồi khi họ đã được ông chủ nào đó mua về làm nô lệ, ngài thăm viếng, bênh vực khi họ bị đối xử bất công.
Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô nuôi dưỡng linh hồn ngài, và ban cho lời nói của ngài một hiệu quả tuyệt vời, soi sáng và an ủi những người khốn khổ không còn hy vọng. Được sự trợ giúp của những người trợ tả, người Phi Châu và Tây Ban Nha, Phêrô Claver thực hiện một cuộc Phúc âm hóa thật lớn lao, công cuộc duy nhất có thể làm được vào thời ấy. Ngài đã cứu giúp, dạy dỗ và rửa tội cho khoảng 100.000 người Phi Châu.
Năm 1650, cha Claver thoát chết sau cơn bệnh dịch hạch, nhưng sức khỏe trở nên yếu kém. Cha bị quên lãng trong căn phòng nhỏ hẹp trong tình trạng thiếu thốn chăm sóc. Cha từ trần ngày 8 tháng 9 năm 1654. Chính quyền thành phố – trong quá khứ đã không đối xử đẹp với cha, nhiều lúc còn tỏ ra khinh miệt cha – trong dịp này lại đã làm đám tang ngài thật trọng thể.
Ngài được Đức Thánh Cha Lêo XIII tuyên thánh năm 1888. Hội Thánh biểu dương ngài như một Phanxico Xavier của người da đen, đặt ngài làm quan thầy cho các xứ truyền giáo cho người Châu Phi, và cũng làm quan thầy cho xứ Colombia.
Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.
Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.
Yêu thương, tha thứ quả là điều vô cùng khó. Chỉ nguyên việc không tìm cách trả đũa kẻ gây ra những đau thương bất hạnh cho mình đã là khó, nói chi đến việc làm ơn, cầu nguyện cũng như chúc phúc cho những kẻ thù nghịch với mình.
Khó nhưng đó lại là tiêu chuẩn thực hành của người Kitô Hữu. Khó nhưng không phải là không làm được.
Trong Giáo Hội đã từng có biết bao vị thánh làm được điều mà Chúa đã dạy. Đó là thầy phó tế Stêphanô. Trước giờ chết, thày đã lớn tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu xin nhận lấy linh hồn con”; và “xin đừng chấp tội họ”. Thánh tử đạo Việt Nam Emmanuel Lê Văn Phụng đã nói với các con của mình rằng: Các con đừng tìm cách báo thù; quay sang các bạn hữu, ngài nói: “Các bạn hãy tha thứ vì chính tôi đã tha thứ”.
2021
MỪNG SINH NHẬT MẸ
08 02 Tr Thứ Tư Tuần XXIII Thường niên.
SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A, lễ kính.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Mk 5,1-4a (hoặc Rm 8,28-30); Mt 1,1-16.18-23 (hoặc Mt 1,18-23).
MỪNG SINH NHẬT MẸ
Giáo Hội không mừng ngày sinh của các thánh. Ngày sinh của con cái Adam là một ngày u buồn tràn đầy nước mắt, và cái di sản thảm khốc của tội lỗi mà chúng ta mang theo khi vào đời. Nhưng trong lịch sử phụng vụ công giáo, chúng ta thấy có ba lễ mừng sinh nhật: của chính Chúa Giêsu, của Trinh Nữ Maria và của thánh Gioan Tẩy giả.
Đối với thánh Gioan Tẩy giả, vì được thánh hoá ngay từ khi còn trong lòng mẹ, việc chào đời của Ngài là một biến cố vui mừng đặc biệt. Riêng với Đức Trinh nữ Maria, những lễ kính Ngài là “Những lễ kính nhớ biến cố sinh ơn cứu rỗi, trong đó Giêsu và Mẹ Maria đi liền với nhau, như lễ sinh nhật Đức Maria, ngày mà hy vọng và vầng cứu rỗi ló dạng trên trần gian” (Marialis cultus. 7): bởi vậy, ngày lễ sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria, Giáo hội hân hoan ca tụng.
– “Lạy Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, việc Mẹ sinh ra loan báo niềm vui cho cả thế gian. Vì từ lòng mẹ phát sinh mặt trời công chính là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Đấng xóa bỏ án phạt mà ban chúc lành, tiêu diệt sự chết và ban sự sống đời đời cho chúng con” (ad Bened, ad laudes)
Niềm vui mừng trong ngày sinh của Đức Trinh Nữ Maria phát xuất từ niềm mong đợi lâu đời của nhân loại tội lỗi. Chính Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chúng ta niềm hy vọng này khi Chúa phán với con rắn cám dỗ:
– “Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng dõi ngươi và giòng giống nó. Giòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St 3,15).
Lời hứa ấy còn được lập lại nhiều lần để nuôi dưỡng niềm tin của dân Chúa. Chẳng hạn Isaia báo trước hình ảnh Đấng sẽ sinh ra Đấng cứu thế:
– “Này cô nương sẽ thụ thai và sinh con và bà sẽ gọi tên là Emmanuel” (Is 7,14).
Đấng cứu thế sẽ được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh (x. Lc 1,270. Như vậy Thiên Chúa đã dự liệu cho con Ngài. Một người mẹ đặc biệt. Maria còn được giữ cho khỏi vương nhiễm tội nguyên ngay từ buổi hình thai, để xứng đáng tước vị Mẹ Thiên Chúa. Theo truyền sử, cha mẹ Ngài là ông Gioakim và nà Anna, những người đạo đức thuộc dòng dõi vương giả David, và tư tế Aaron, nhưng lại son sẻ. Dầu sao đi nữa, chính Maria có một nét đẹp lạ lùng của ơn thánh. Giáo hội ca tụng Mẹ:
– Ôi Maria ! Mẹ đẹp tuyệt vời. Hơn hết mọi người.
Ngày Đức Trinh nữ Maria chào đời, mọi người thán phục. Hơn nữa biến cố này còn là khởi đầu cho ngày cứu rỗi, vì Ngài như “sao mai” dẫn lối loài người, như “rạng đông” báo hiệu mặt trời. Vì vậy ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Mẹ.
Đến thế kỷ X lễ mừng được phổ biến phắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các Ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật, để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức giáo hoàng Célestinô V đắc cử cai quản có 18 ngày nên chưa thực hiện được lới hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.
Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria loan báo niềm vui cho toàn thế giới, chúng ta cùng chiêm ngắm và tha thiết nguyện cầu cho được niềm vui thiêng liêng từ biến cố này.
“Bà đã thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần”.
Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha mẹ của ngài là thánh Gioankim và thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioankim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria đã chào đời là để thực hiện ý Thiên Chúa, Mẹ đã mở rộng cửa trời để đón nhận mọi người và lời xin vâng làm Mẹ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúng ta cử hành lễ sinh nhật Đức Mẹ, vì từ nơi ngài đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính, là Đức Kitô, Thiên Chúa chúng ta (Ca nhập lễ, lễ sinh nhật Đức Mẹ). Hôm nay mừng sinh nhật Đức Mẹ, nhân loại được hạnh phúc vì công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đã ló rạng qua việc chào đời của người nữ tử Sion mang danh Maria.
Sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria nhằm hướng tới ngày trọng đại: sinh ra Đấng Cứu Thế. Tiếp đến “Đấng được sinh ra làm con một người đàn bà và sống dưới Lề luật” (Gl 4,4) đã cho chúng ta được sinh lại làm con cái Chúa. Đức Maria sinh ra trong ơn thánh, không vướng mắc nguyên tội. Còn chúng ta được khỏi tội tổ tông nhờ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta mới được sự sống mới.
Chúng ta mừng Sinh nhật Đức Mẹ với niềm hạnh phúc vì luôn có Mẹ trong cuộc sống, như “Trong tiệc cưới Cana có thân mẫu Đức Giêsu” (Ga 2,1). Với Mẹ Maria chúng ta có được bông hồng cài áo. Đây là tập tục dễ thương của người Nhật, để tôn kính hiền mẫu, đã sớm du nhập vào Việt Nam.
Chúng ta mừng sinh nhật Đức Maria trong lời cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương sắp đặt cho nhân loại có một người Mẹ tuyệt vời, cùng hiệp lòng dâng lên Mẹ Maria những lời ngợi khen vì Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ muôn vàn ân phúc… “vì Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30).
Mừng Sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta cũng nhớ đến ngày sinh của chúng ta, để “Sao được cho ra cái giống người” (Tú Xương), hơn nữa cho ra người con Chúa. Cũng là lúc chúng ta nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, cố gắng làm vui lòng các ngài, như gương sáng của Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
2021
Chọn Nhóm Mười Hai
07 01/8 X Thứ Ba Tuần XXIII Thường Niên.
X Hôm nay, nhớ ngày Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, nguyên Giám mục Phụ tá qua đời (2009), chúng ta cầu nguyện cho ngài.
Cl 2,6-15; Lc 6,12-19.
Chọn Nhóm Mười Hai
Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel.
Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Giêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Khi biết đượ giới lãnh đạo Do thái đang tìm cách loại trừ mình, Đức Giêsu trải qua một đêm dài cầu nguyện với Cha Ngài và đến sáng ngày hôm sau, Ngài quyết định chọn 12 vị tông đồ. Những vị tông đồ được Chúa tuyển chọn là những con người rất đỗi bình thường giữa dân chúng, chứ không nổi bật hay lỗi lạc gì hơn dân chúng. Chúa chọn các ngài không phải các ngài có tài cán gì, nhưng vì các ngài có khả năng ứng đáp lời mời gọi của Chúa và chấp nhận để Chúa uốn ắn, điều chỉnh con người của các ngài.
Các ngài sẽ là biểu tượng và nên móng của một Israel mới mà Chúa sẽ thiết lập vì Israel cũ không còn khả năng dung nạp hay thông truyền ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa cho muôn dân nữa. Nói cách khác, trên nền tảng 12 tông đồ (đại diện cho mười hai chi tộc Israel) Chúa khôi phục nhà Israel và Israel mới đươc khôi phục có khả năng chuyển tải ơn cứu độ phổ quát cho muôn dân tộc.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”, hoặc “Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Chúa Giêssu đã gọi tên những kẻ Ngài muốn. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã yêu thương và kêu gọi chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi hư vô để làm người, làm con Chúa và được cùng chia sẻ hạnh phúc với Người. Mỗi người chúng ta là một chương trình hoạch định của Thiên Chúa để được hạnh phúc và Ngài ban ơn để chúng ta thực hiện chương trình đó. Đó là mục đích của đời người.
Vì vậy, Ki-tô hữu chúng ta đừng lãng quên Thiên Chúa, đừng tách mình ra khỏi tình yêu và sức sống của Người để cuộc đời bớt mù tối, bớt khổ đau. Đồng thời đáp lại tiếng Chúa mời gọi, Ki-tô hữu chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân tình yêu tiếp nối sứ vụ của Đức Ki-tô (cc. 17 – 19), xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho con người.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
2021
Cốt Lõi Của Ðạo
06 30 X Thứ Hai Tuần XXIII Thường Niên.
Cl 1,24-2,3; Lc 6,6-11.
Cốt Lõi Của Ðạo
Nhiều người Do thái thời Chúa Giêsu, nhất là các thành phần lãnh đạo trong dân cũng có lối hành đạo tương tự. Thật ra, đạo của mạc khải Do thái giáo cốt yếu cũng là đạo của tình thương; thế nhưng trong thực tế, cái cốt lõi ấy thường bị quên lãng để nhường chỗ cho biết bao nghi thức trống rỗng vô hồn; người ta sẵn sàng loại trừ tha nhân và chối bỏ tình thương để tuân giữ những nghi thức và luật lệ vô hồn ấy.
Trong hành trình đi loan báo Tin Mừng, người ngôn sứ trong Cựu Ước gặp biết bao từ khước, bị chống đối và thậm chí còn bị đe doạ đến tính mạng. Thánh Gioan Tẩy Giả vì nói lên tiếng nói chân lý, muốn bảo vệ luân lý đạo đức mà ngài đã bị chém đầu. Chúa Giêsu – Vị ngôn sứ quyền năng không thoát khỏi số mệnh đã dành riêng cho Ngài.
Mặc dầu Ngài đã đem Tin Mừng cho người nghèo, giải phóng kẻ bị áp bức và kẻ bị cầm tù, đem ánh sáng cho người mù, bảo vệ kẻ cô thế cô thân, và chữa lành bệnh tật. Cho dù Ngài chỉ nói lời yêu thương, khuyến cáo cảnh tỉnh người lầm lạc trở về, thế mà Ngài lại bị lên án và bị giết chết trên Thập Giá. Trang Tin Mừng Lc 6, 6-11 hôm nay nói lên mầm mống chống đối của những kẻ không ưa Ngài, muốn tìm cách hãm hại và loại trừ Ngài. Chúng ta hãy cùng Ngài bước vào cuộc đối đầu đã khởi sự.
Mở đầu vớí câu 6, Thánh sử giới thiệu một ngày làm việc của Chúa Giêsu : Ngài vào hội đường và giảng dạy. Đó là công việc của vị ngôn sứ và cũng vì việc này mà Ngài được Chúa Cha uỷ thác xuống trần. Ngài không nói lời của Ngài nhưng là lời phát xuất từ Chúa Cha và chính Ngài là Ngôi Lời hằng hữu muôn đời. Ngài nói lên tiếng nói Tình Yêu Thiên Chúa muốn chia sẻ hạnh phúc với con người.
Bài giảng của Chúa Giêsu hôm nay được gắn kết với hành động. “Ở đó có một người khô bại tay phải”: Bàn tay con người là dụng cụ lao động để kiếm sống. Bàn tay cũng là cách diễn tả tâm trạng: vui buồn, chúc phúc, thề hứa và cũng để cầu nguyện thờ lạy. Tay anh bị khô bại nên mất đi hết hiệu lực trên và đó là một thiệt thòi, một lỗ hỗng trong cuộc sống của anh. Hôm nay anh là nhân vật chính. Anh là nơi để Thiên Chúa thi ân giáng phúc nhưng anh cũng là nguyên nhân để người Pha-ri-sêu phản đối và tố cáo một con người: Chúa Giêsu. Họ đang rình xem Chúa Giêsu có chữa bệnh cho anh không, chỉ để tố cáo.
Trong đầu chương 6, người pha-ri-sêu chỉ dám mon men đến xem xét và lên án các môn đệ của Chúa Giêsu phạm luật sa-bát: bứt bông lúa. Nhưng hôm nay, họ đã cố ý rình mò hành vi của ông thầy và muốn tiêu diệt “Tận gốc”. Chúa Giêsu hiểu được tâm địa của họ, Ngài muốn dạy cho họ về luật yêu thương, luật để cứu sống để chữa lành, đối lại cách sử dụng luật của họ, luật được đặt thêm ra trong luật Môsê, chỉ để hại nhau, để lên án tố cáo và để giết chết.
Vì thế, Ngài nói với người bại tay: “ Anh chỗi dậy ra đứng giữa dây!” (c. 8). Hình ảnh chỗi dậy như rũ bỏ giữ luật vì luật, giữ luật theo nghĩa đen trong hằn học, bực bội mà thiếu vắng tình yêu đồng loại. Lần này, Chúa Giêsu đi trực tiếp vào vấn đề và quyết định nói rõ, nói thẳng cho họ biết cốt lõi và tinh thần của luật: “ Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt ?”
Chúa Giêsu muốn đưa ngày sa-bát về ý nghĩa nguyên thuỷ của nó “Ngày sa-bát được lập ra vì người ta…” (Mc 2, 27) vì bổn phận bác ái trổi vượt trên hình thức tuân giữ ngày nghỉ. Đàng khác, Ngài cũng nhận là Ngài làm chủ ngày sa-bát (Mc 2, 28) khi làm việc lành, việc thiện trong ngày sa-bát là chúng ta bắt chước Thiên Chúa yêu thương tạo dựng vũ trụ, và Thiên Chúa còn tiếp tục cai quản vũ trụ và ban sinh khí cho con người. Ngày sa-bát đích thực là ngày con người sẽ nghỉ ngơi như Thiên Chúa và cộng tác với Ngài, hiệp thông với tâm tình của Ngài.
Sau khi đã giáo huấn và nhắc nhở họ về mục đích của ngày sa-bát, Chúa Giêsu đã rảo mắt nhìn họ tất cả. Một cái nhìn như nhắc nhở sự trở về, sự thức tỉnh lương tâm chai lỳ khô cứng của họ. Chúa Giêsu liền bảo người bại tay: “ Giơ tay ra!” Anh ta làm theo và tay anh được lành. (c. 10). Lời Ngài có uy quyền trên bệnh tật và lời Ngài đã chứng minh Tình Yêu Thiên Chúa qua hành vi cụ thể chữa lành. Việc chữa lành của Chúa Giêsu đã đưa anh khô bại tay trở về cuộc sống đời thường nhưng lại là lúc làm cho mầm mống ghen tỵ, hiềm khích của người Pha-ri-sêu gia tăng. Thánh sử Luca viết tiếp, họ giận điên lên và bàn nhau xem có làm gì được Chúa Giêsu không (c.11). Một kế hoạch được lập ra. Một âm mưu được khởi đầu chỉ vì lòng ghen ghét.
Thái độ của người Pha-ri-sêu xưa cũng là hành vi của chúng ta ngày nay. Nhiều lúc trong cuộc sống nơi công sở, nhà máy, trường học, chúng ta vẫn có nhiều âm mưu diệt trừ lẫn nhau: một lời nói xấu, gièm pha, một hành vi phản đối hoặc thái độ “ mackeno”. Thậm chí một vài người có hành vi loại trừ Thiên Chúa như: tôn thờ chủ nghĩa vật chất, ham mê những quyến rũ của lạc thú trần gian và có những thái độ chống phá Giáo hội như : đặt điều vu khống, bắt bớ, bách hại những người ngay lành, thấp cổ bé miệng, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, trẻ em…
Chúa Giêsu đã đến và đưa con người trở lại cái cốt lõi của đạo. Tin Mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày Hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày Hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đúng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Hưu lễ cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân. Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày Hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chính là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Ðọc kinh, dự lễ, tham gia sinh hoạt giáo xứ mà không sống yêu thương, điều đó có thật sự là sống đạo chưa? Sống đạo đích thực là sống yêu thương: một lời kinh đích thực phải phát xuất từ cõi lòng rộng mở yêu thương; một của lễ đẹp lòng Chúa phải là một nghĩa cử yêu thương dành cho tha nhân. Xin Chúa giúp chúng ta mỗi ngày thêm thấm nhuần cái cốt lõi của đạo là yêu thương.