2021
Tỉnh Thức Chờ Chúa
26 19 X Thứ Năm Tuần XXI Thường Niên.
1Tx 3,7-13; Mt 24,42-51.
Tỉnh Thức Chờ Chúa
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa bổ túc cho nhau: dụ ngôn thứ nhất nói về kẻ trộm đến bất ngờ trong đêm, do đó người chủ phải sẵn sàng luôn; sự sẵn sàng này được giải thích trong dụ ngôn thứ hai về người đầy tớ trung tín và khôn ngoan thi hành mệnh lệnh của chủ, cứ đúng giờ mà cấp phát lương thực cho người nhà.
Thật không dễ dàng mà có thái độ sẵn sàng theo đúng ý Chúa muốn. Vào thời các Tông đồ, có những tín hữu quá sốt sắng chờ đợi Chúa trở lại đến độ lơ là việc bổn phận của mình. Ðó là thái độ của tín hữu cộng đoàn Thessalonica mà thánh Phaolô đã phải khuyến cáo: “Thưa anh em, về ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, thì tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào”.
Sống chờ đợi Chúa lại đến không phải bằng thái độ thụ động, nhưng bằng thái độ tích cực. Thánh Phaolô mô tả thái độ đó như sau: “Anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, là con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ”.
Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Vì các tông đồ hay tranh luận với nhau về quyền bính; các giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao, chỗ trọng vọng trong Vương quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.
Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền bính là để phục vụ; trong nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền bính là kẻ càng biết phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, thì càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống cho người khác.
Do phép rửa, người Kitô hữu chúng ta được tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua, nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương là để phục vụ. Người ta tưởng không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ việc phục vụ.
Mọi người đều phải chết. Đây là một sự thật hiển nhiên ;vậy mà con người lại sống theo cách như là họ chẳng bao giờ phải chết cả. Họ cứ ăn chơi sa đọa, họ chạy theo tiên bạc danh vọng, sắc dục… Chính vì vậy lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh cho chúng ta biết và ý thức được thân phận của mình để chọn lựa cho mình đời sông luôn ở trong tư thế \sẵn sàng.
Suy cho cùng thì con người ta sống trên đời này là để chuẩn bị cho minh một cái chết! Hay nói cách khác là để chuân bị cho mình một cuộc sống mới mà nó sẽ bắt đầu sau cái chết. Mà đời sống mới này phụ thuộc hoàn toàn vào những việc lành phúc đức mà con người ta đã thực hiện khi còn sống. Chúa Giê-su đã nói: “Được lời lãi cả và thế gian này mà mất linh hồn thì nào có ích chi? ” (Mt 16,26). Như vậy nếu như trong đời sống trần gian này chúng ta có đạt được những thành công mỹ mãn, giầu sang tuyệt đỉnh… bao nhiêu đi chăng nữa mà cuối cùng chết đi trong tội lỗi, mất linh hồn thì thật là vô phúc và bất hạnh cho chúng ta, vì chẳng có thể lấy gì mà bù đắp, thay thế lại được!
Vì vậy lời Chúa hôm nay cảnh báo cho chúng ta phải luôn chu toàn bổn phận của mình đối với Chúa và với anh em hàng ngày trong cuộc sống dương thế này. Để khi cuộc sông trần gian kết thúc chúng ta xứng đáng hưởng Nước Trời. Nơi đầy hoan lạc và hạnh phúc mà Chúa đã thiết lập để dành sẵn cho những đây tớ trung tín và khôn ngoan của Ngài.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến… nên anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chúng ta chính là phục vụ. Càng phục vụ, chúng ta càng nhận ra được Chúa đang đến. Càng phục vụ, chúng ta càng nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua bí tích rửa tội là để san sẻ; tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban cho mọi người.
Sự tỉnh thức đích thực của người kitô hữu chúng ta chính là ý thức rằng: sống tích cực để yêu thương và phục vụ, và đó cũng là hạnh phúc đích thực của chúng ta, vì như Chúa Giêsu đã nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận”.
Sống đức tin, đức cậy, đức mến, trong khi chờ đợi Chúa đến, không có nghĩa là chúng ta bỏ quên sự dấn thân của mình. Mỗi người chúng ta cần phải luôn tỉnh thức với thái độ tích cực, đồng thời nỗ lực góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
2021
GIẢ THẬT – THẬT GIẢ
25 18 X Thứ Tư Tuần XXI Thường Niên.
(Tr) Thánh Lu-i.
(Tr) Thánh Giu-se Ca-la-xan (Calasanz), Linh mục.
1Tx 2,9-13; Mt 23,27-32.
GIẢ THẬT – THẬT GIẢ
Ở đời thường nhiều lúc chúng ta không biết đâu là giả, đâu là thật. Cái đáng thật thì chúng ta coi là giả, ngược lại cái giả thì chúng ta đinh ninh rằng đó là thật và đấn thân đi theo. “Vàng thau lẫn lộn”; đâu là giả, đâu là thật, ai đứng ra giải thích trong các trường hợp cấp bách, mốn biết cứ phải kiểm chứng sao? Vì vậy cái giả, cái thật trộn lẫn làm cho con người ta mất phương hướng, không biết tin vào ai, không dám đặt niềm tin vào ai.
Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án nữa của Chúa Giêsu chống lại các Luật sĩ và Biệt phái.
Với lời kết án thứ sáu, Chúa Giêsu ví các Luật sĩ và Biệt phái như những mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Tại Palestina, người dân có thói quen quét vôi trắng các mồ mả, nhất là vào dịp lễ Vượt Qua, để người ta có thể nhận ra và tránh xa khỏi bị nhơ uế ngăn trở cho việc phụng tự. Vẻ đẹp bên ngoài của các mồ mả che dấu thực tại ghê tởm bên trong. Cũng vậy, các Luật sĩ và Biệt phái bên ngoài xem ra là những người công chính, nhưng bên trong thì đầy sự giả hình và tội ác; việc họ giữ luật cách nghiêm nhặt chỉ là tấm màn che đậy một đời sống tương phản với những điểm cốt yếu của Lề Luật Thiên Chúa, đó là sự công bình, lòng bác ái và trung tín.
Trong lời kết án thứ bẩy, Chúa Giêsu tố cáo sự giả hình của các Luật sĩ và Biệt phái: họ xây mồ cho các tiên tri và sửa sang phần mộ những kẻ mà cha ông họ đã sát hại; họ than trách tội ác của cha ông họ trong quá khứ và tự phụ rằng nếu sống vào thời tổ tiên, họ sẽ không hành động như thế; nhưng họ quên rằng họ là con cháu của những kẻ đã sát hại các tiên tri, và giờ đây họ đang đi vào con đường đó bằng việc mưu hại Ngài.
Chúa Giêsu cũng chờ đợi nơi mỗi người chúng ta những thành quả tốt đẹp của việc cải hóa tâm hồn, nếu không, chúng ta cũng sẽ phải lãnh nhận số phận như các Luật sĩ và Biệt phái: cây khô sẽ bị chặt đi và bị ném vào lửa đời đời. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự giả hình, khỏi tính ích kỷ và tự mãn.
Từ thuở tạo thiên lập địa tới nay, cái thật cái giả luôn tồn tại song song, có cái thật, chắc chắn sẽ có cái giả và ngược lại. Cái thật thì luôn ở ngoài ánh sáng, cái giả thì ở trong bóng tối. Cái giả luôn luôn đẹp hơn, lộng lẫy hơn và bắt mắt hơn, cái giả thì đẹp về hình thức, cũng như kết cấu vẻ bề ngoài sang trọng. hầu đánh lừa thị hiếu của thiên hạ, làm cho thiên hạ tin rằng đó là thật. Bên cạnh đó cái thật thì không lộng lẫy xa hoa, có thể nói được là xù xì chất phác, không trọng vẻ bề ngoài, nhưng chất chứa một chất lượng tuyệt vời. Nó là thật thì nó luôn đảm bảo chất lượng, luôn làm cho người dùng hay sở hữ nó có thể yên tâm. Có thể nói cái thật thì không thể so sánh được với cái giả, và cuối cùng cái thật luôn là thật, nghĩa là chân lý luôn đúng. Cái giả tàn phai tàn nhanh theo thời gian, cái thật tồn tại vĩnh hằng. Cái giả đánh lừa thị hiếu, cái thật làm thỏa mãn lòng người.
Đó là những thứ đời thường của con người. Trong bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng lên án mạnh mẽ các nhà kinh sư và những kẻ đạo đức giả. Ngài nhắc lại hai lần trong đoạn tin mừng “”Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình!”. Ngài dùng từ “Khốn” để cảnh báo kinh sư và người Pha-ri-sêu. Từ “khốn” nó đối lập với từ “may” “mừng”… Để nói lên một trạng thái không mấy là tốt đối với những người nhận từ này. Có thể nói đây là một lời chúc giữ tới hơn là một lời cảnh báo.
Lời này Chúa Giê su đã dành cho các người biệt phái và Pharisêu, họ là những con người giả dối, hình thức, làm mọi việc để đánh bóng thân xác mình thay vì vinh danh Chúa. Không chỉ bài tin mừng hôm nay, các bài tin mừng mấy ngày trước Chúa Giêsu cũng nặng lời với họ. Tin mừng ngày thứ hai Chúa cũng nói “Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng!. Và chúng ta đọc trong các tin mừng, chúng ta không khó để tìm ra những từ mà Chúa đã lên án những người Pha-ri-siêu.
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh, hiện đại, cái mà con người đang phải đối mặt đó là sự giả dối. Con người càng phát triển, sự giả dối càng tinh vi hơn, khó nhận biết hơn và chắc chắn mọi người mắc phải nhiều hơn. Không chỉ trên báo đài mà chúng ta có thể bắt gặp hằng ngày những đồ vật giả, những hình thức lừa đảo lấy giả làm thật, bằng giả, tất cả mọi thứ con người có thể làm giả kể cả con người họ cũng có thể làm giả.
Nhìn lại cuộc đời của mỗi người, chúng ta có nằm trong số những người đó không, chúng ta có chạy theo họ? Làm theo họ? hay chúng ta có bị ngã chiều? Hy vọng chúng ta không nằm trong số những người bị Chúa Giê-su gọi là “khốn” mà Ngài sẽ gọi chúng ta là: “phúc cho con” hay “mừng cho con”.
“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu đạo đức giả!”. Trong chương 23 của sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Chúa Giêsu nói tới bảy lần như vậy (c. 13.15.16.23.27 và 29): bài Tin Mừng hôm kia ba lần, bài Tin Mừng hôm qua hai lần và bài Tin Mừng hôm nay hai lần còn lại.
Chúng ta có thể coi đó là căn bệnh “đạo đức giả” hay “giả hình” với những biểu hiện khác nhau, cần được làm rõ để được chữa lành, không phải chỉ của những kinh sư và người Pharisêu, nhưng của loài người và từng người chúng ta.
2021
GIỚI THIỆU CHÚA CHO MỌI NGƯỜI
24 17 Đ Thứ Ba Tuần XXI Thường Niên.
THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Kinh Tiền Tụng các Thánh Tông đồ.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Kh 21,9b-14; Ga 1,45-51.
GIỚI THIỆU CHÚA CHO MỌI NGƯỜI
Lễ thánh Bartôlômêô được cử hành từ thế kỷ thứ VIII trong các xứ Francs, đến thế kỷ thứ IX-X thì lan sang Roma. Lễ cử hành vào ngày 24 hoặc 25 tháng tám; với người Byzance, ngày 25 trùng lễ kính chuyển hài cốt của Người, còn lễ chính là ngày 11 tháng 6, chung với thánh Banabê. Lịch thánh Piô V đã ấn định lễ này vào ngày 24 tháng tám.
Bartôlômêô (có nghĩa là con của Tolamai) là một trong Nhóm Mười hai, các phúc âm thường nhắc chung với Philipphê (Mt 10,3). Người ta thường cho rằng Bartôlômêô cũng là Nathanael, nhưng điều này không có cơ sở. Nếu phải là Nathanael, chắc hẳn người có gốc ở Cana (Ga 21,2) và đã được Philipphê đem đến trình diện Chúa Giêsu (Ga 1,45). Một số tài liệu ngụy thư cho rằng thánh Bartôlômêô đã sang giảng Phúc âm ở Tây An (theo Eusèbe) hoặc các vùng gần Ethiopie (theo Rufin và Socrate), hoặc thậm chí còn tới Đại Arménie (theo kinh nghiệm các Tông đồ).
Hình như Ngài đã bị lột da sống, theo luật hình Ba Tư, sau đó bị chặt đầu rồi đóng đinh thập giá. Người ta cho rằng hài cốt của Ngài được tôn kính ở Roma, nơi đảo Tibérine, và ở Francfort nước Đức. Thánh Bartôlômêô được coi là người bảo vệ các bệnh nhân, các ông bà bán thịt, thợ thuộc da và thợ đóng sách. Lời nguyện trong ngày ca ngợi “đức tin ngay thực” của thánh Bartôlômêô. Hiển nhiên điều này muốn liên hệ đến lần Nathanael gặp Chúa Giêsu được Phúc âm Gioan kể lại (1,45-49). Theo lời Chúa nói: “Đây là một người Israen đích thực không giả dối”, và Nathanael đáp lại : Rabbi, Thầy là con Thiên Chúa, là vua Israen. Người môn đệ mới đã hào hứng nhận ra nơi Chúa Giêsu : Thầy, Con Thiên Chúa và vua Israen.
Câu kết của lời nguyện trên lễ vật xin Chúa cho Giáo hội “trở nên bí tích cứu rỗi muôn dân”. Bài giảng của thánh Gioan Kim Khẩn -Phụng vụ bài đọc trích dẫn- nhấn mạnh rằng, để loan truyền phúc âm ra khắp thế giới, Chúa đã muốn dùng “mười hai con người ngu dốt, nhát đảm, sợ sệt, hầu chứng tỏ rằng sự yếu đuối của Chúa còn mạnh hơn mọi người”. Từ đó, cũng như mọi tông đồ trong Phúc âm, Giáo hội có thể cùng lặp lại với thánh Phaolô : Tôi có thể làm tất cả mọi điều trong Đấng bổ dưỡng tôi. Trong yếu đuối, chửi bới, áp bức, bách hại cũng như lo lắng. Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh (2 Co 12,10 -đáp ca Phụng vụ bài đọc).
Thánh Bartôlômêô, với tên gọi là Nathanael trong bài tin mừng hôm nay, được Philiphê giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ thế gian đến với mình. Ông chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng, Người đã biết rõ về ông là người trung thực, bản tính chất phác, ngay thẳng, có thiện chí tìm gặp Chúa, nên Người nói: “Đây đích thực là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1,47).
Khi Philipphê nói với Nathanaen rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanaen tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Chúa Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Chúa Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người Do Thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói: “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư ? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao ? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống ?
Chúa Giêsu nói với Nathanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh”: Trong Tin Mừng Ga, Chúa Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ: có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là: Nathanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.
Lời của Chúa Giêsu khiến Nathanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.
Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39; 19, 3.21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12, 13).
Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (2Sm 7, 14).
Nathanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”: bấy giờ Chúa Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.
Chúa Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28, 12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu kia chạm tới trời; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Chúa Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.
Nathanaen đã được biết Chúa Giêsu và được Ngài kêu gọi nhờ sự giới thiệu của Philipphê. Tôi cũng được biết Chúa và được Ngài gọi nhờ sự giới thiệu của nhiều người. Nhưng ít khi tôi nhớ ơn họ và cầu nguyện cho họ. Hôm nay tôi hãy cầu nguyện cho những ân nhân đó; và nguyện sẽ giới thiệu Chúa cho những anh chị em khác của tôi nữa.
Nathanaen hỏi “Làm sao Ngài biết tôi ?” Chúa Giêsu đáp “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi”: Chúa cũng biết con từ lâu và biết rất rõ. Con xin phó thác đời con cho Chúa.
Ngày nọ, một người bạn đến tìm nhà giảng thuyết Mc-Leod Campbell và hỏi: “Này anh, xin anh nói cho tôi hay; làm thế nào mà anh luôn tìm thấy Chúa ?” Nhà giảng thuyết trầm ngâm một lúc rồi nói: “Làm thế nào mà tôi luôn tìm thấy Chúa ư ? Không đâu, tôi không luôn tìm thấy Chúa đâu, nhưng tôi biết là Chúa luôn tìm thấy tôi!”
Ba-tô-lô-mê-ô đã được Chúa Giêsu nâng đỡ, và ông đã dứt khoát lựa chọn bước theo ơn gọi làm tông đồ cho Chúa: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên-Chúa, chính Thầy là vua Ít-ra-en” (Ga 1,49). Nên, Chúa Giêsu đã đưa ra lời mọi và tuyển chọn Bartôlômê làm môn đệ, và cho ông thấy nhiều việc cao trọng hơn thế nữa (Ga 1,50).
Ngày lễ thánh hôm nay, Chúa gọi mỗi Kitô hữu với những ơn gọi khác nhau. Bổn phận của chúng ta là giới thiệu Chúa đến với mọi người bằng đời sống đạo đức, thánh thiện, biết chia sẻ, yêu thương, biết sống hòa thuận với anh chị em trong gia đình, xứ đạo, anh chị em lương dân, và những người đang đau khổ bất hạnh trong cuộc sống, và giữa cơn đại dịch Covid 19 đang gây nỗi đau thương mất mát cho cộng đồng nhân loại và xã hội đường thời ngày nay.
Đó là trách nhiệm và bổn phận của mỗi Kitô hữu chúng ta thể hiện căn tính người môn đệ của Chúa bằng đời sống chứng nhân và hành động của mình, để giới thiệu Chúa cho mọi người.
2021
KÊU TO VÌ THÙNG RỖNG
23 16 X Thứ Hai Tuần XXI Thường Niên.
(Tr) Thánh Rôsa Lima, Trinh nữ.
1Tx 1,1-5.8b-10; Mt 23,13-22.
KÊU TO VÌ THÙNG RỖNG
Có những người nữ đánh Ðông, dẹp Bắc. Có những người nữ là những nhà ngoại giao đại tài không thua kém gì phái nam nhi. Lại có những người nữ chỉ miệt mài âm thầm, làm nghề nội trợ lo cho chồng con cơm ngon,canh ngọt. Vâng, thiên chức làm vợ,làm mẹ là thiên chức quí trọng,bất cứ người nữ nào cũng ước mong có được. Nhưng, cũng có những người nữ sống cao hơn lối sống thông thường,lối sống nói theo một cách nào đó là đi vào tầm cao mới, chiều sâu mới .
Lối sống của những con người hy sinh,từ bỏ vì” tình yêu Chúa Kitô thúc bách.”.
Rosa Lima là vị thánh nữ đầu tiên của Châu Mỹ. Cha mẹ thánh nữ người Tây Ban Nha, nhưng vì kinh tế khó khăn, gia đình gặp cảnh túng nghèo,nên cha mẹ thánh nữ phải bỏ quê cha đất tổ đến Pérou tại thủ đô Lima vào năm 1543 để kiếm kế sinh nhai.
Và vào năm 1586, Rosa đã chào đời tại thủ đô Lima. Tên của thánh nữ là” Hoa Hồng thủ đô Lima”.Cuộc đời của thánh nhân được đan kết bằng những cố gắng hy sinh, những đau khổ, những chiến đấu không ngừng để vươn tiến và để nên thánh. Muốn cho đời mình trở nên hương thơm đúng nghĩa của Hoa Hồng thành Lima, Rosa đã có một đời sống gương mẫu, đạo đức, thánh thiện ngay từ hồi còn nhỏ.
Dù rằng cha mẹ chiều chuộng,yêu thương, ủ ấp, nâng như nâng trứng,hứng như hứng hoa, Rosa vẫn tỏ ra đơn sơ, khiêm nhượng và thùy mị. Ðời sống của thánh nữ gương mẫu ngay trong lối ăn mặc,cử chỉ,thái độ khiêm tốn và lời nói đoan trang, hiền dịu. Tới trường, Rosa chuyên chăm học tập, trau dồi học vấn về mọi môn học, thánh nữ lưu tâm cách đặc biệt đến văn chương. Cha mẹ già yếu,ốm đau, Rosa nghỉ học để phụ giúp gia đình và chăm nom phụng dưỡng cha mẹ để đền ơn đáp hiếu các Ngài. Cuộc sống của thánh nữ là một cuộc chiến đấu không ngừng: chiến đấu với ngoại cảnh,chiến đấu với chính con người của thánh nhân .
Thánh nữ đã phải chống lại ý định của cha mẹ bắt ép Ngài lập gia đình để có cháu nối dõi tông đường. Thánh nữ còn phải đương đầu với việc không hiểu của cha mẹ, ngăn cản không cho Rosa đi vào tu viện để thánh nhân có cơ hội hiến trọn toàn thân cho Chúa Giêsu.
Dù không được vào Dòng như ý muốn, thánh nữ đã xin mặc áo Dòng ba thánh Ðaminh,con đường hiến mình cho Chúa giờ đây vẫn được thánh nhân thực hiện trong cuộc sống tận hiến giữa đời. Niềm ước mong hiến trọn cuộc đời cho Chúa càng nổi bật khi vào những năm tháng cuối đời thánh nhân đã dành một phòng trong nhà để đón tiếp các trẻ mồ côi,lang thang, cơ nhỡ và những người già yếu bệnh tật. Ðây là hình thức làm việc xã hội đầu tiên trong đất nước Pérou.
Cuộc đời của thánh nữ Rosa Lima có thể nói được là đã họa lại càng ngày càng giống hình ảnh của Chúa Giêsu đúng như lời Thiên Chúa phán trong những trang đầu sách khải nguyên: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta “. Giấc mơ của thánh nữ đã được thực hiện trong chính cuộc đời của Người : Rosa đã đục, đã đẽo, đã gọt dũa và đã chạm trổ, khắc ghi hình ảnh Chúa Kitô trong chính con người của mình.
Hình ảnh của một con người sống thùy mị, đoan trang và đơn sơ là hình mẫu của chính thánh Rosa Lima để lại cho nhân loại. Mỗi vị thánh có một cảm nghiệm, một lối sống, một cách suy nghĩ khác nhau. Không có vị thánh nào lại sống rập khuôn theo vị thánh khác, mỗi vị thánh đều sống lý tưởng mình đã chọn cách độc đáo,cá biệt và có một phong cách riêng. Nhưng tất cả các vị thánh đều có một mẫu số chung là gọt dũa, khắc ghi và đục bỏ những gì là không cần thiết,những gì là sần sùi, sao cho giống, thật giống hình ảnh Ðức Kitô cứu thế. Thánh nữ Rosa Lima đã làm trọn công việc đó. Ngài muốn chúng tất cả nên giống Ngài trong đời sống thánh thiện như Chúa hằng mong muốn.
Thánh nữ đã qua đời vì bệnh ung thư sau những năm dài miệt mài, say xưa làm việc bác ái tông đồ vào ngày 24/8/1617. Chúa thưởng công thánh nữ bằng vô số phép lạ Người làm sau khi chết.
Thánh nữ vừa tròn 31 tuổi đời. Cái tuổi còn tràn đầy nhựa sống và sức sống. Chúa đã hái đóa Hoa Hồng tuyệt đẹp trong vườn hoa muôn mầu muôn sắc của Giáo Hội để đời đời, Người diện kiến và ca tụng Chúa trên nước trời. Ðức Thánh Cha Clêmentê X đã phong thánh cho Ngài vào năm 1671 .
Thùng rỗng kêu to – nhiều khả năng độc giả có cảm nhận ấy sau khi đọc xong bản văn Tin Mừng hôm nay. Thật vậy, hầu như toàn bản văn được phủ bằng màu xám bởi Chúa Giêsu thẳng thắn trách cứ các hành động sai trái của nhóm biệt phái và kinh sư bằng những lời chúc dữ khốn cho các người…
Chúa kể rạch ròi các tội mà hai nhóm này đã phạm như ngăn cản các tín hữu trên đường nên thánh (c.13-14), làm hỏng đức tin của các tân tòng (c. 15), gây cớ vấp phạm nghiêm trọng trong việc giải thích và thực hành Luật (c.16-22). Những tội này, xem ra có vẻ xa lạ. Những loại người mà Chúa Giêsu nhắm đến cũng dường như đã khá cũ xưa. Vậy phải chăng hôm nay hôm nay Chúa không gửi sứ điệp Tin Vui nào cho tôi, cho bạn và cho anh chị ? Không phải thế. Tin Mừng luôn mang tính thời sự, luôn mới, luôn có giá trị với mọi người, mọi thời, mọi cảnh, mọi nơi.
Trước tiên phải nói rằng, các tội mà biệt phái và kinh sư phạm đều liên quan đến cái nhìn lệch lạc về Luật và Ân sủng, hay nói đúng hơn là sự nhầm tưởng quá nguy hại về Thiên Chúa và về bản thân họ. Họ tưởng họ đã nắm vững Luật, đã thực hành luật cách nghiêm nhặt thì họ có quyền giải thích luật theo ý họ, có quyền chỉ vẽ cho người khác thực hành luật theo hiểu biết của họ. Họ tưởng Ơn Chúa là hoa trái của những nỗ lực bản thân, của những thực hành theo kiểu công thức hóa học. Họ tưởng Chúa là ông chủ giữ kho ơn thánh để rồi chỉ cần đọc vài câu kinh như thần chú thì ắt sẽ Chúa sẽ phải ban ơn.
Hậu quả của cái nhìn lệch lạc trên đây là lối sống giả hình đến quá thô thiển, đáng kinh; là sự mù lòa đáng thương của những người tự cho mình đang sáng mắt. Lối sống giả hình và mù quáng này khiến họ trở thành những người diệt giáo thay vì truyền giáo, những người phá đạo thay vì sống đạo. Họ chẳng khác gì những thùng rỗng kêu to, phát ra những bản nhạc tra tấn lỗ tai và làm đau tim người khác. Như thế, ta hiểu tại sao Chúa Giêsu dành cho các kinh sư và biệt phái những lời chúc dữ khốn cho các người.
Khốn cho các người, lời này đáng lo và đáng sợ quá. Có khi nào lời ấy được dành cho tôi, cho bạn, cho anh chị hôm nay: khốn cho con !?
Nếu nhìn các kinh sư và pharisêu như những phụ mẫu chi dân về tinh thần, về tôn giáo thì tôi, bạn và anh chị, chúng ta cũng ít nhiều chịu trách nhiệm hướng dẫn tha thân ở nhiều cấp độ khác nhau từ gia đình, giáo xứ, giáo phận, dòng tu, … Vậy, sự giả hình, sự mù quáng nhuốm mùi biệt phái pharsêu có ít nhiều hiện diện trong cuộc sống của ta không?
Ta có nói rất hay, rất dài, rất kỹ về Chúa và về đạo, nhưng kinh nghiệm về Chúa, kinh nghiệm sống đạo của ta lại chẳng bao nhiêu không? Ta có tận tâm tận lực vẽ bày cho tha nhân phải thế này thế nọ mới được vào Nước Trời, nhưng lối sống của ta và nhất là những biện minh mù quáng cho lối sống thiếu Chúa của ta có khiến anh chị em chao đảo, xa lìa đức tin, xa lìa giáo hội và mất Chúa đời đời chăng? Đặc biệt, khi thi hành sứ vụ của một Tác Viên Tin Mừng, ta miệt mài tìm về cho Chúa những anh chị em mới trong đức tin, nhưng ta lại làm cho họ thất vọng, suy sụp, trốn chạy khi chứng kiến những gì ta đã sống, đã làm cho cộng đoàn tiếp nhận họ chăng?
Mỗi người chúng ta cùng thành tâm phơi mình trước ánh sáng của Lời và Thánh Linh Chúa, để ta nhìn rõ, hiểu thấu, cảm sâu và can đảm thực thi điều Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hôm nay.