2021
Tỉnh Thức Chờ Chúa
17 13 Tr Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên.
Thánh nữ Ê-li-sa-bet nước Hung-ga-ri, lễ nhớ.
2Mcb 7,1.20-31; Lc 19,11-28.
Tỉnh Thức Chờ Chúa
Thánh Ê-li-sa-bết sinh năm 1207, là con của vua An-rê thứ 2, nước Hun-ga-ri. Ngài đã được hưởng giàu sang chức tước ở đời, nhưng cũng phải gặp nhiều gian nan thử thách.
Lên 4 tuổi, theo phong tục thời đó, thánh nữ đã được cha mẹ đính hôn với hoàng tử Lu-y miền Tu-rin-gen, và năm 14 tuổi, ngài đã thành hôn với Lu-y, lúc đó đã lên ngôi vua.
Hai vợ chồng chung sống thật hạnh phúc, và cùng nhân đức sốt sắng, cùng chung lý tưởng bác ái yêu người.
Đặc biệt thánh nữ rất thương người nghèo khổ bệnh tật. Ngài thương yêu chăm sóc họ như lo cho Chúa. Có thể nói ngài coi họ như Chúa Giê-su. Chính Linh mục Con-ra-đô là cha linh hướng của ngài đã minh chứng: “Ê-li-sa-bết bắt đầu nổi tiếng nhân đức. Suốt đời bà đã là người an ủi những người nghèo khó; nhưng bây giờ bà hoàn toàn bắt đầu trở thành vị cứu tinh của kẻ đói ăn. Bà ra lệnh xây cất một bệnh viện gần một lâu đài của mình; và tại đó, bà đã đón nhận nhiều người đau đớn và tàn tật; bà đã làm các việc từ thiện một cách quảng đại, đối với tất cả mọi người đến xin của bố thí ở đây cũng như trong toàn lãnh thổ thuộcquyền cai trị của chồng bà; bà đã phát hết hoa lợi do bốn hầu quốc của chồng bà cống hiến, đến nỗi sau cùng phải bán cả trang sức và y phục quý giá để giúp người nghèo”.
“Bà có thói quen mỗi ngày 2 lần, sáng và chiều đích thân đến thăm hỏi tất cả những bệnh nhân của bà, cũng như đích thân săn sóc những kẻ ghê tởm nhất trong bọn họ, cho họ ăn, giúp họ ngủ, cõng họ đi, cùng làm nhiều việc nhân đạo khác. Tất cảnhững việc nầy không làm phật ý chồng bà chút nào. Ông cũng là người đáng ghi nhớ…”
Trong số những người bệnh tật, thánh nữ thương mến các kẻ bị bệnh phong cùi hơn hết. Hằng ngày thánh nữ chăm sóc họ, lau rửa các vết lở loét cho họ. Ngài săn sóc cách riêng một trẻ nhỏ bị cùi trong nhà, đặt nằm ngay trên giường của Ngài…
Nhưng Chúa thường cho những kẻ Người thương được vác khổ giá với Người, để họ nên giống Người hơn, nhất là để cho họ được xứng đáng thông phần vinh hiển với Người. Năm 1227, chồng ngài đi chiến đấu bảo vệ Thánh Địa với Đạo Binh Thánh giá đã bị tử trận. Nghe tin như sét đánh!… Ngài đau khổ như muốn điên lên!… Nhưng rồi thánh nữ cũng chấp nhận hy sinh, sẵn lòng vâng theo Thánh ý.
Đau khổ mất chồng chưa kịp nguôi, thì gian nan khác dồn dập trút xuống thánh nữ ! Người em trai của chồng ngài lên chiếm ngôi vua, đuổi ngài và các con ra khỏi hoàng cung, lại cấm dân chúng không cho ngài trú ngụ. Ngài phải dẫn con đi lang thang rày đây mai đó, tá túc trong chuồng nuôi súc vật, hằng ngày đi ăn xin để nuôi con…
Khốn khổ tột cùng, nhưng thánh nữ cũng một lòng tin tưởng phó thác.
Song Chúa không bỏ kẻ kiên tâm vững dạ trông cậy Người. Khi đoàn Thập Tự Chinh trở về, họ bắt buộc em chồng ngài phải trả ngôi vua lại cho cháu là con của ngài. Thế là thánh nữ được khải hoàn trở lại hoàng cung, triều thần đón rước long trọng, dân chúng nhiệt liệt hoan nghênh…
Nhưng ngài không màng tới những bả danh vọng phù hoa đó. Ngài từ bỏ tất cả, đến sống trong một căn nhà lụp xụp gần tu viện thánh Phan-xi-cô, và xin nhập Dòng Ba, sống trọn đời hy sinh vì Chúa vì người nghèo, như lời Cha linh hướng của ngài nói: “Trước lúc bà chết, tôi đã giải tội cho bà. Tôi hỏi bà định thế nào về tài sản và động sản của bà, bà trả lời rằng tất cả những gì bà có thì thuộc về người nghèo và bà xin tôi phân phát tất cả cho họ, trừ chiếc áo dài tồi tàn mà bà vẫn mặc, và bà muốn được khâm liệm với chiếc áo dài đó. Sắp đặt xong mọi việc, bà đã rước Mình Thánh Chúa; và cho đến giờ kinh chiều, bà năng nói về những điều hay nhất mà bà đã nghe được trong các bài giảng, rồi rất sốt sắng, bà phó mọi người xung quanh cho Chúa và trút hơi thở cuối cùng một cách êm ái như ngủ đi vậy…”
Đó là ngày 17 tháng 11 năm 1231. Và năm 1235, Đức Thánh Cha Ghê-gô-ri-ô thứ 9 đã tôn phong thánh nữ lên hàng Hiển thánh.
Dụ ngôn nén bạc mời gọi mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm với tư cách là người có niềm tin. Ðức tin không là nén bạc để được cất giữ, nhưng phải được đầu tư để phát triển, sinh lợi. “Một đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nếu chúng ta chỉ đóng khung cuộc sống đạo trong bốn bức tường nhà thờ, nếu chúng ta chỉ giản lược đức tin vào những biểu dương bên ngoài, nếu đức tin chỉ là một mớ những giáo điều phải tin, những điều răn phải giữ, thì quả thực chúng ta đang chôn chặt đức tin như gia nhân đã chôn nén bạc mà chủ đã trao: chúng ta có giữ đạo, nhưng chưa thực sự sống đạo.
Cuộc đầu tư nào cũng bao hàm những bất tất, rủi ro; một đức tin sống động cũng hàm chứa nhiều hy sinh, mất mát. Nhưng chúng ta tin rằng chính lúc chúng ta mất mát là lúc chúng ta được lợi lộc, chính lúc chúng ta quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi là khi được vui sống. Ðó phải là bài trường ca trong cuộc sống của chúng ta.
Đừng để cho những đam mê lạc thú bất chính, những nhu cầu của thể xác như cơm, áo, gạo, tiền… chi phối chúng ta, làm cho chúng ta quên đi cùng đích cuộc đời của mình là về Nhà Cha trên trời. Trong khi chờ đợi ngày ấy, chúng ta cần phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng và ưu tiên tìm kiếm Nước Trời như Lời Chúa phán: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây?” (Mt 6,31). Vậy “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33)
Tỉnh thức là không “chè chén say sưa”,nghĩa là không quá mê đắm hưởng thụ các đam mê vật chất đời này. Tỉnh thức là không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không mê say tìm kiếm những giá trị tạm bợ ở đời này là danh, lợi, thú. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức là tuy đang còn sống trong thế giới vật chất hiện nay nhưng tâm hồn phải hướng về những giá trị thiêng liêng vĩnh cửu đời sau.
2021
TÌNH ĐÁP TÌNH
16 12 X Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên.
(Tr) Thánh nữ Ma-ga-ri-ta Scốt-len.
(Tr) Thánh Ghê-tơ-rút, trinh nữ.
2Mcb 6,18-31; Lc 19,1-10.
TÌNH ĐÁP TÌNH
Thánh Margaret ở Tô Cách Lan quả thật là một phụ nữ tự do–trong ý nghĩa tự do để trở nên con người đích thực. Ðối với ngài, điều đó có nghĩa được tự do để yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Margaret không phải là người Tô Cách Lan. Ngài là con gái của Công Chúa Agatha Hung Gia Lợi và Thái Tử Edward Atheling của Anglo-Saxon. Thời niên thiếu, ngài sống trong triều đình của người bác là Edward, vua nước Anh, người bảo vệ đức tin. Khi bị William xâm chiếm, trên đường chạy trốn, gia tộc ngài bị đắm tầu ở bờ biển Tô Cách Lan. Vua Malcolm của Tô Cách Lan làm quen với hoàng tộc này và ông đã say mê sự duyên dáng cũng như vẻ đẹp của Margaret. Và họ đã kết hôn ở lâu đài Dunfermline năm 1070.
Vua Malcolm là người tốt bụng, nhưng cộc cằn và không có học thức, cũng giống như quê hương của ông. Vì tình yêu của Malcolm dành cho Margaret mà bà có thể thay đổi tính tình nóng nẩy của ông, cũng như chỉ bảo cách đối xử và giúp ông trở nên một vị vua nhân đức. Bà đã biến triều đình thành một nơi lịch thiệp và mỹ miều. Ông đã để mọi việc trong nước cho bà quản trị và thường hỏi ý của bà khi có vấn đề quốc sự.
Margaret là một ơn huệ Chúa ban cho người dân Tô Cách Lan. Trước khi bà đến đây, có rất nhiều người dốt nát và nhiều hủ tục trong nước. Bà tìm cách cải tiến quê hương chồng bằng cách cổ võ việc giáo dục và nghệ thuật. Về cải cách tôn giáo, bà khích lệ tổ chức các thượng hội đồng và đích thân tham dự các buổi thảo luận nhằm chấn chỉnh những tệ đoan tôn giáo rất phổ thông thời ấy của tu sĩ cũng như giáo dân, tỉ như vấn đề buôn thần bán thánh, cho vay lời cắt cổ và loạn luân. Cùng với đức lang quân, bà xây dựng nhiều nhà thờ trong nước và chính tay bà thêu áo lễ cho các linh mục.
Margaret không chỉ là một hoàng hậu mà còn là một người mẹ gương mẫu. Thiên Chúa đã ban cho ông bà sáu con trai và hai con gái. Ðích thân bà trông coi việc giáo dục cũng như dạy giáo lý cho con. Người con út của bà sau này là Thánh David.
Mặc dù rất bận rộn với công việc nhà cũng như việc nước, bà cố giữ mình khỏi bị ảnh hưởng của thế gian. Ðời sống riêng tư của bà rất khắc khổ. Bà dành thời giờ để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Bà ăn uống thanh cảnh và ngủ rất ít để có thời giờ suy niệm. Hàng năm, hai ông bà tuân giữ hai mùa Chay, một lần trước Phục sinh và một lần trước Giáng Sinh. Trong thời gian này bà thường thức giấc vào nửa đêm để đi dự Thánh Lễ. Trên đường về, bà rửa chân cho sáu người nghèo và bố thí cho họ. Mỗi khi bà xuất hiện nơi công cộng là bị những người ăn xin vây quanh và không bao giờ bà từ chối họ. Người ta kể rằng, trước khi bà ngồi xuống dùng bữa tối, bà thường dọn thức ăn cho chín trẻ mồ côi và 24 người nghèo.
Năm 1093, Vua William Rufus bất ngờ tấn công vào thành Alnwick. Vua Malcolm và người con cả là Edward bị giết chết. Bà Margaret, cũng bị thương nặng, và bốn ngày sau khi chồng bà từ trần thì bà cũng trút hơi thở cuối cùng.
“Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình” (Tc), câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện hoán cải tận căn của một con người – một con người đã được đụng chạm tới tình yêu Giê-su. Cũng như muôn ngàn định nghĩa về tình yêu thì “tình cho không biếu không” vẫn là định nghĩa triệt để nhất. Tình vốn dĩ là cho không biếu không – bất chấp cả dư luận, bất chấp của cải, bất chấp danh dự, bất chấp tội lỗi, bất chấp xấu xa, khiếm khuyết…bất chấp tất cả. Câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện tình yêu tuyệt vời; người tung, kẻ hứng thật đồng điệu và đã mang lại kết quả tốt đẹp.
Tình yêu luôn có sáng kiến và đi bước trước: Trong trình thuật Tin mừng, chúng ta thấy lòng mộ mến một Rabbi Giê-su lý tưởng đã khiến Ông Gia-kêu, một quan chức đứng đầu thuế vụ, giàu có, chạy lên trước đám đông và trèo lên cây sung để được thấy Người. Ông trèo lên cây, nấp trong đám lá, không biết ông đang đắc ý về diệu kế cho vóc người thấp bé của ông hay đang hồi hộp sợ có ai phát hiện, nhưng có lẽ là cả hai. Ông ngồi trên cao và nhìn xuống. Về hình thức, tưởng chừng như Ông là người đi bước trước, nhưng nội dung câu chuyện đã cho thấy người đi bước trước là Chúa Giê-su – Người đã biết Gia-kêu từ trước. Người đã biết những mặc cảm cũng như những khát khao trong lòng Gia-kêu.
Tình yêu và lòng thương xót đã khiến Chúa Giê-su ngước lên nhìn Ông đang trốn mình trong tán lá – Hai thái độ – hai nội dung trái ngược: Gia-kêu tìm Chúa: thay vì ngước mắt lên trời, Ông lại ở ‘vị trí của mình trên cao’ nhìn xuống. Chúa Giê-su tìm Gia-kêu: Ngài ở dưới ngước nhìn lên; Thực ra, tình yêu và lòng thương xót của Người đã cúi xuống, chiếu cố đến Gia-kêu – con người thấp bé về hình vóc, nghèo nàn về phẩm hạnh trong mắt người Do-thái. Tuy nhiên, xuyên suốt qua cái gì là bề ngoài giới hạn ấy, Chúa Giê-su đã nhìn thấy giá trị đích thực với những phẩm chất cao quí của con người – một con người mang hình ảnh của Đấng Tạo hóa. Chúa Giê-su đã đi bước trước trong việc cởi bỏ những mặc cảm tự tôn, tự ti trong lòng Gia-kêu để Ông mở rộng lòng mình đón nhận Chúa trong tình yêu chân chất. Ngài gọi Ông xuống, trở lại vị trị để sẵn sàng làm một cuộc hoán cải.
Tình yêu luôn cảm thông, bất chấp dư luận: Gia-kêu có thể bất chấp dư luận chê cười, khi ông – một quan chức có thế giá – lại leo lên một cây sung để nhìn trộm như một đứa trẻ. Có lẽ Đức Giê-su cũng rất thú vị với chất trẻ thơ nơi ông (Chúa đã chẳng hứa nước trời cho những ai nên giống trẻ thơ là gì!). Tuy nhiên, cao cả hơn thế, Đức Giê-su đã bất chấp dư luận, không kể gì đến thân phận cao quí của một Rabbi nổi tiếng để kết giao với Gia-kêu – một kẻ tội lỗi, bị gạt ra bên lề trong xã hội Do-thái. Người đến trọ trong nhà Gia-kêu, ngôi nhà mà người Do-thái không dám bước vào vì sợ ‘ô uế’, để viếng thăm, đồng bàn và ăn uống với ông. Bởi vì mục đích của Ngài đến không phải để kiếm tìm người công chính mà là kẻ tội lỗi. Ngài là thầy thuốc không phải tìm chữa những kẻ khỏe mạnh mà là những người đau yếu. (Mt 2,17)
Tình yêu kết trái: Gia-kêu khát khao được nhìn thấy Đức Giê-su có lẽ vì những tiếng tăm tốt lành của Người khiến lòng Ông mộ mến và mong đợi một điều gì đó(?) Chúa Giê-su tìm Gia-kêu như “người chăn chiên đi tìm một con chiên lạc” (Mt 18,12 – 14), như người đàn bà đi tìm đồng bạc đã mất” (Lc 15, 8 -10), như “người cha nhân hậu chờ đợi người con đi hoang trở về” (Lc 15, 11 – 32). Tuy đã được nghe nhiều về Chúa Giê-su, nhưng Gia- kêu không ngờ ông lại được vinh dự và yêu thương như vậy. Và từ trái tim đã đụng chạm đến trái tim. Tình yêu được đáp đền bằng tình yêu đã nảy sinh hoa trái tốt đẹp: “8Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Thật là niềm vui tràn vỡ vì “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” Cũng như Phao-lô, ông Gia-kêu đã cảm nghiệm được món lời hậu hĩ vì được biết Chúa Giê-su (Pl 3, 8 – 9).
Vì thế, của cải đối với ông bây giờ không còn quan trọng nữa. Trước đây ông ra tay bóc lột, tích góp bao nhiêu, thì bây giờ ông sẵn sàng cho đi tất cả. Thật là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời! Một bước hoán cải tuyệt diệu!
Thật là niềm vui tràn vỡ vì “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” Cũng như Phao-lô, ông Giakêu đã cảm nghiệm được món lời hậu hĩ vì được biết Chúa Giêsu (Pl 3, 8 – 9). Vì thế, của cải đối với ông bây giờ không còn quan trọng nữa. Trước đây ông ra tay bóc lột, tích góp bao nhiêu, thì bây giờ ông sẵn sàng cho đi tất cả. Thật là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời! Một bước hoán cải tuyệt diệu!
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ta được mời gọi chạy đến với Chúa Giêsu để được giải thoát và chữa lành, cụ thể qua bí tích Giao hòa. Bởi chưng, sứ mệnh của Chúa Giêsu là tha thứ còn việc của chúng ta là sám hối.
2021
Sự Mù Lòa Thiêng Liêng
15 11 X Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên.
(Tr) Thánh An-béc-tô Cả, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
1Mcb 1,10-15.41-43.54-57.62-64; Lc 18,35-43.
Sự Mù Lòa Thiêng Liêng
Thánh Albertô Cả qua đời tại Cologne ngày 15 tháng 10 năm 1280, và lễ nhớ ngài là ngày giỗ của ngài. Ngài được Đức Giáo Hoàng Grégoire XV phong chân phước ngày 15 tháng 9 năm 1622, và được Đức Piô XII phong thánh với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh ngày 16 tháng 12 năm 1931. Ngài cũng là “thánh bổn mạng của tất cả những ai chuyên nghiên cứu các khoa học vật lý và tự nhiên” (Piô XII).
Thánh Albert sinh tại Lauingen (Bavière), trên bờ sông Danube, khoảng năm 1206. Cha ngài là một sĩ quan cận vệ của vua Fréderic II. Năm 1222, chàng thanh niên Albert vốn tỏ ra có nhiều đức tính, đặc biệt óc quan sát và sự ham thích thí nghiệm, nên được gửi đến thành phố đại học Bologne. Tại đây ngài gặp vị tu sĩ lỗi lạc Jourdain de Saxe, bề trên tổng quyền Dòng Đaminh, biệt danh là “tiếng còi hụ của các trường học” và ngài xin gia nhập giòng Anh Em Thuyết Giáo.
Năm 1229, tại Padua, thày nhận áo dòng thánh Đa-minh từ chính cha Jourdain de Saxe, và cha nhận ra thày là một con người “thực sự cao quí, cả thể chất lẫn tinh thần” (Thư gửi Diane d’Andalo).
Năm 1228, thầy Albert sống tại Cologne, thành phố đại học, tại đây thầy vừa dạy học vừa theo đuổi việc nghiên cứu. Nhận thấy rõ sự xâm nhập ồ ạt của khoa học Hi Lạp và Ả Rập ở phương Tây, “Thầy Albert” là người tiên phong lao mình vào việc nghiên cứu các bản văn ─ đã dịch sang tiếng la tinh ─ của ba “triết gia – y sĩ” lỗi lạc trong việc truyền bá tư tưởng Aristote: Avicenne, Averroes, và Maimonide. Thế là Aristote được thánh Albert đánh giá là “triết gia siêu hình tinh tế”, và không bị phủ nhận, trái lại còn được chấp nhận và “Kitô hóa”. Triết học Aristote bấy giờ trở thành “nữ tì” của tín lý Kitô giáo, vì theo Maimonide trong Hướng dẫn những người lầm lạc, thì “suy tư triết học không mâu thuẫn với mạc khải, trái lại còn giúp hiểu mạc khải rõ hơn.”
Từ 1245 đến 1248, thầy Albert giảng dạy ở Paris và tiếp tục việc học hỏi và nghiên cứu, luôn luôn trung thành với việc suy gẫm mỗi ngày một trang Kinh Thánh. Cho tới hôm nay, nhiều nơi trong thủ đô còn gợi nhớ đến vị thánh tiến sĩ: công trường Maubert (viết tắt của chữ Magister Albertus), đường Maỵtre-Albert… Trong số các học trò của ngài có thánh Thomas d’Aquin, vị “tiến sĩ thiên thần” tương lai.
Cuối năm 1248, thánh Albert trở về Cologne, tại đây ngài lập Trường Thần học Cao cấp (Studium Generale). Thánh Thomas theo ngài làm học trò, được ngài gửi sang Pháp với lời nhắn nhủ sau: “Bây giờ con hãy trở về Paris, vì con thông minh hơn thầy.” Có thiên khiếu hoà giải, thánh Albert đứng ra làm trọng tài cho nhiều vụ xung đột, trong đó có cuộc xung đột giữa thành phố Cologne với vị tổng giám mục của ngài. Năm 1254, ngài được chọn làm bề trên tỉnh dòng Đaminh vùng Teutonie, gồm nước Đức, Alsace, Bỉ và Hà Lan. Khi ấy ngài phát động phong trào nghiên cứu. Ngài nói với các hội viên tu sĩ của ngài: “Anh em hãy là ánh sáng thế gian và nhà vô địch đức tin”. Ngài cũng trông coi việc tuân giữ hiến pháp Dòng và không ngần ngại ra những hình phạt khi cần.
Năm 1256, thầy Albert đến thành phố Anagni thuộc quyền giáo hoàng, gần Rôma, để bênh vực trước Đức giáo hoàng Alexandrô IV cho vụ kiện các Dòng Khất Sĩ bị tố cáo bởi các giáo sĩ “triều” cho rằng họ là những kẻ lừa đảo khi dám kết hợp việc nghiên cứu với sự nghèo khó. “Các ông là tai ương của thời đại mới!” nhà thần học của Paris tên là Guillaume de Saint-Amour tuyên bố. Thánh Albert và thánh Bonaventura đáp lại: “Trái lại, chúng tôi là niềm hi vọng cho thời đại mới!” Đức giáo hoàng xử các “khất sĩ” thắng kiện, và phong Albert làm giám mục Ratisbonne. Nhưng đây là một thất bại! Sau hai năm giám mục (1160-62), ngài từ chức.
Ở tuổi 60, thầy Albert tiếp tục viết các tác phẩm và sẵn sàng cho các hoạt động truyền giáo. Năm 1263, ngài thất bại trong cố gắng phát động cuộc thập tự chinh thứ tám trong vùng nói tiếng Đức, sau đó ngài lại tiếp tục việc giảng dạy: ở Wurzbourg (1264), ở Strasbourg (1267) và ở Cologne (1270). Năm 1274, là năm thánh Thomas Aquinô qua đời, thánh Albert tham dự Công đồng Lyon, tại đây “Người phương Đông và phương Tây ─ theo ghi nhận của vị thánh tiến sĩ – cùng nhau hát chung Kinh Tin Kính bằng tiếng la tinh rồi bằng tiếng Hy lạp”. Năm 1277, khi giám mục Tempier của Paris kết án những luận đề của thánh Thomas, thánh Albert trở lại Paris để biện hộ cho học trò của mình. Thánh nhân tuyên bố về thánh Thomas Aquinô như sau: “Ngài vẫn đang sống giữa chúng ta bằng sự uyên bác và thánh thiện của ngài.”
Những năm cuối đời, thánh Albert Cả mắc những chứng bệnh nghiêm trọng: mắt bị mù và mất trí nhớ. Ngài luôn ở nơi cô tịch “để cầu nguyện và ca hát”, theo lời kể của người viết sử, H. Hedford. Ngài qua đời tại Cologne ngày 15 tháng 11 năm 1280, hưởng thọ gần 80 tuổi, để lại mọi tài sản của mình cho các công cuộc từ thiện.
Con người đã được Thiên Chúa sáng tạo đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống chúng ta với Lời Chúa, nhưng không phải chỉ đối chiếu, mà còn cần phải sửa chữa, vứt bỏ những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêricô. Ðây không phải là dụ ngôn, mà là biến cố có thật. Chúng ta có thể quan sát hai thái độ thực hành. Trước hết là thái độ của những người cản trở không cho anh mù gặp gỡ Chúa, những người này cho rằng chỉ có họ mới được quyền đi bên cạnh Chúa. Thật ra, trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, trên bình diện thông ban ân sủng, cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi hỏi Thiên Chúa. Tất cả đều là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền dành lại ân sủng đó cho riêng mình.
Thái độ thứ hai chúng ta có thể nhận thấy nơi anh mù. Ý thức thân phận của mình, anh không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, mà anh chỉ khiêm tốn cầu xin: “Lạy ông Giêsu, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi”. Sự mù lòa thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù lòa: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được”, anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: “Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa”. Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: “Ánh sáng của các con phải chiếu soi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Ðấng ngự trên trời”.
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh và giải thoát chúng ta khỏi sự mù lòa thiêng liêng, để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng ấy trước mặt mọi người.
2021
HÃY KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
13 09 X Thứ Bảy Tuần XXXII Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Kn 18,14-16;19,6-9; Lc 18,1-8.
HÃY KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
Lời cầu nguyện cũng phải xuất phát từ một tấm lòng chân thành, mong điều tốt đẹp đến với bản thân và những người xung quanh. Có nhiều người chỉ nghĩ đến Chúa khi cầu nguyện cho mình trúng số độc đắc, hoặc thăng quan tiến chức, hay thắng kiện trong những vụ tranh chấp. Cũng có người cầu nguyện mong điều ác xảy đến cho một người đang thù ghét mình.
Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về sự cầu nguyện, dạy các tông đồ cầu nguyện, đặc biệt trong kinh Lạy Cha. Chắc chắn các Tông đồ cũng gặp khó khăn trong việc cầu nguyện, thậm chí các ông có thể “nản chí”, nên hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên các ông: ”Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”(Lc 18,1). Phải cầu nguyện liên tục và kiên trì.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương bà goá bị oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông thẩm phán minh oan.
Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
Không được đòi hiệu quả tức thời: Khi cầu nguyện, chúng ta tin chắc Chúa sẽ đáp lời cầu xin của chúng ta. Nhưng Ngài không ban lập tức theo ý riêng của chúng ta, mà ban vào thời gian và cách thức nào đó có lợi nhất cho chúng ta. Thời gian Chúa nhậm lời có thể kéo dài lâu hơn chúng ta nghĩ và cách Ngài ban ơn cũng có thể khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng thích hợp nhất và hữu hiệu nhất cho phần rỗi đời đời của chúng ta.
Phải biết cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phaolô đã dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Như thế, cầu nguyện không phải là chỉ biết xin ơn cách vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là bản liệt kê những nhu cầu để yêu cầu Chúa ban theo ý của ta. Nhưng cầu nguyện là cuộc đối thoại với Thiên Chúa, trong đó, chúng ta kể ra các nhu cầu về thể xác và tinh thần của mình, và xin Ngài ban ơn theo thánh ý của Ngài, noi gương Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Tuy nhiên con người vốn yếu đuối dễ nản chí, nên Đức Giêsu đã cảnh báo: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8).
Hẳn ta còn nhớ câu chuyện xảy ra trong thời kỳ Xuất Hành: khi dân Ítraen vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm để về tới Đất Hứa dưới quyền lãnh đạo của ông Môsê. Khi tới nơi, dân Ítraen còn phải giao chiến với các dân đang định cư trong miền đất đó.
Trong một trận chiến với quân Amaléc, ông Môsê đã trao trách nhiệm cho tướng Giôsuê trực tiếp giao chiến, còn ông Môsê thì ở trên núi giang tay cầu xin Đức Chúa ban ơn trợ giúp. Bao lâu Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Ítraen thắng thế; Ngược lại khi ông mỏi mệt xuôi tay xuống thì quân Ítraen lại bị thua. Bấy giờ người ta để Môsê ngồi lên một tảng đá, rồi cử hai ông Aharon và Hur đỡ hai tay ông Môsê, để ông có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ. Cuối cùng quân Ítraen đã toàn thắng. Qua đó cho thấy chiến thắng của quân Ítraen không những do sức mạnh chiến đấu của họ, mà còn nhờ vào sự phù trợ đắc lực của Đức Chúa do ông Môsê cầu xin.
Cuộc đời thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kính ngày 1/10 hằng năm cũng cho thấy sự cần thiết phải cầu nguyện cho công cuộc rao giảng Tin Mừng. Từ năm 15 tuổi vào dòng kín và trong suốt chín năm tu luyện, Teresa đã không giảng đạo cho một người nào. Hằng ngày chị chỉ âm thầm hy sinh hãm mình để cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh, thế mà Hội Thánh đã đánh giá cao lời cầu nguyện của Têrêsa, tôn ngài lên làm thánh tiến sĩ của Hội Thánh và đặt ngài làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê, là người đã dành suốt cả đời đi giảng đạo tại các miền đất thuộc Châu Á.
Thế nhưng rồi chúng ta cũng phải hiểu rằng đôi lúc Chúa trì hoãn, và việc trì hoãn đáp ứng lời cầu xin của chúng ta cũng có lý do mà chỉ Ngài biết. Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Ngài. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Ngài ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu cho mọi người.
Người có tâm tình cầu nguyện không chỉ xin những ơn cho riêng mình, nhưng còn để ý đến lợi ích của cộng đoàn và những người xung quanh. Đó là lời khuyên của Thánh Phaolô đối với môn sinh của mình là Timôthê. Ngài khuyên ông, hãy can đảm cậy trông, hãy kiên trì nhẫn nại để rao giảng Lời Chúa, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, nhằm mục đích giúp cho các tín hữu được trưởng thành trong đức tin.