2024
TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI
5.6 Thánh Boniface, Gmtđ
2 Tm 1:1-3,6-12; Tv 123:1-2,2; Mc 12:18-27
TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI
Thánh Boniface, vị tông đồ của người Ðức, là một đan sĩ người Anh thuộc Dòng Biển Ðức, đã hy sinh vinh dự khi được chọn làm đan viện trưởng để tận hiến cuộc đời trong việc hoán cải các sắc tộc ở Ðức. Ngài có hai đặc tính nổi bật: Kitô Giáo chính truyền và trung thành với đức giáo hoàng ở Rôma.
Thánh Boniface, tên thật là Wilfrith, sinh ở Anh Quốc. Ngay khi còn nhỏ, hình ảnh cao quý của các đan sĩ truyền giáo đã in sâu trong tâm khảm của ngài, do đó, khi bảy tuổi ngài đã nài nỉ xin theo học trường dòng, dù rằng cha ngài mong muốn cho con một sự nghiệp ở ngoài đời.
Lớn lên, ngài làm giám đốc một trường học ở Nursling, Winchester, tại đây ngài là người đầu tiên viết về văn phạm Latinh bằng tiếng Anh, cũng như sáng tác nhiều bài diễn giảng được nhiều người sao chép và phổ biến.
Năm ba mươi tuổi, ngài được thụ phong linh mục và đi rao giảng ở Friesland (thuộc Hòa Lan bây giờ), nhưng không bao lâu ngài phải trở về Nursling vì cuộc chiến giữa vua ngoại giáo của Friesland và Charles Martel của Pháp.
Sau cái chết của đan viện trưởng, các đan sĩ ở Nursling tìm cách giữ chân ngài bằng cách bầu ngài làm đan viện trưởng, nhưng ngài đã từ chối để tận hiến cho công cuộc truyền giáo.
Năm 718, ngài đến Rôma để gặp Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô II, là người sai ngài đi truyền giáo cho người Ðức ở Hesse và Bavaria.
Ở Hesse, trước sự hiện diện của đám đông người ngoại giáo rất tin dị đoan, ngài đã chặt cây Sồi Thần Linh ở Geismar to lớn và già nua, được dân ngoại dâng cúng cho thần Thor. Người ta kể chỉ sau vài nhát rìu, cây sồi đã lung lay và sụp đổ, tách ra làm bốn cho thấy sự mục nát bên trong. Ðó là khởi đầu của một công cuộc truyền giáo rất thành công của Thánh Boniface và cũng là hạt giống đức tin cho một giáo hội đầy sinh lực ở Ðức, mà sau này Thánh Boniface được tấn phong làm giám mục ở đây. Ngài xin các Kitô Hữu ở Anh hỗ trợ công cuộc truyền giáo của ngài và họ đã đáp ứng với tài chánh, sách vở, vật liệu, và nhất là thường xuyên cung cấp các đan sĩ để giúp đỡ ngài trong việc giảng dạy.
Thánh Boniface không chỉ hạn chế hoạt động ở nước Ðức. Ngài còn giúp hình thành sự tương giao giữa Ðức Giáo Hoàng và các vua ở Ý cũng như ở Pháp. Ngài thúc giục các thái tử kế vị vua Charles của Pháp triệu tập công đồng để cải tổ giáo hội trong các phần đất của họ, là nơi chức giám mục được bán cho những người trả giá cao nhất.
Ngài không bao giờ quên sự thất bại ở Friesland, do đó khi về già, ngài từ chức giám mục và trở về hoạt động ở đây với sự thành công đáng kể. Vào một ngày trong tháng Sáu năm 754, khi ngài đang chuẩn bị cho người Friesland chịu phép Thêm Sức thì tất cả bị tấn công và bị giết chết bởi các chiến sĩ ngoại giáo.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy, cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hạn hẹp. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Kinh thánh: Thiên Chúa là Chúa của các tổ phụ, Người là Thiên Chúa của kẻ sống. Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu, thì phải tin con người có cuộc sống đời sau. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại, vì họ không chịu tìm hiểu Kinh thánh.
Tin mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên của Chúa Giêsu và nhóm Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Đối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên, khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Nhóm Sađốc đã tranh luận với Chúa Giêsu về sự sống lại. Để chế nhạo sự sống lại, nhóm Sađốc bịa ra câu chuyện tưởng tượng là có 7 anh em trai, người thứ nhất kết bạn, nhưng chết mà không trối hậu, người thứ hai lấy người góa phụ đó, rồi cũng chết không con, người thứ ba cũng vậy. Cả 7 người lấy người vợ góa đó đều chết cả và đều không có con, thế thì ngày sống lại, người góa phụ đó sẽ là vợ của ai?
Đáp lại, Chúa Giêsu đã mạc khải một chân lý tràn trề hy vọng: Sau cuộc sống trần gian chóng qua này con người sẽ được phục sinh, được biến đổi thành như các thiên thần và vẫn tiếp tục sống. Đó là nền tảng của giá trị con người. Giá trị ấy được Chúa Giêsu nêu bật khi nói: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.
Vì họ không tin có việc kẻ chết sống lại nên họ đặt ra một câu chuyện (một phụ nữ lấy 7 anh em trai theo tục lệ “thế huynh”) để cho thấy sống lại là một sự lố bịch. Trả lời họ, Chúa Giêsu không những chứng minh có việc sống lại, mà còn cho biết cuộc sống sau khi sống lại sẽ như thế nào. Trước hết, cuộc sống đời sau không giống cuộc sống hiện tại, cho nên không cần lưu truyền nòi giống và bởi thế không cần có vợ có chồng. Tiếp theo, cuộc sống ấy “giống như các thiên thần” : nghĩa là không quan tâm đến gì khác ngoài việc yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa. Chúng ta thấy những người phái Sa-đốc tuy là tư tế nhưng không quan tâm tới những việc đạo đức cho bằng tới những đặc quyền đặc lợi của họ.
Để bảo vệ những quyền lợi ấy, họ sẵn sàng ủng hộ bất cứ chế độ nào đang cầm quyền, cho dù đó là chính quyền đế quốc Rôma đang xâm lược đất nước họ. Chính vì thế, họ không tin sự sống lại và không tin đời sau là phải, bởi vì ai càng coi trọng đời này và những giá trị đời này thì càng coi nhẹ đời sau và các giá trị đời sau. Càng thiên về xác thịt thì càng yếu về tinh thần. Đức tin dạy chúng ta rằng cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “như các thiên thần” nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa không để cho con người sống mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khoẻ và mọi thứ của cải trên thế gian.
Chúa Giêsu cũng đã dùng Kinh Thánh để minh chứng cho giáo lý của Người: “Các ông đã không đọc trong sách Môsê sao: Ta là Chúa của Abraham. Chúa của Ixaac và Chúa của Giacóp. Người không phải là Chúa của kẻ chết. Nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to” (Mc 12,26-27). Họ đề cập đến Kinh Thánh, Đức Giêsu lật ngược lý chứng của họ, bằng cách trích dẫn một đoạn trong Ngũ Kinh (Xh 3,6), là sách Thánh duy nhất được Nhóm Xa-đốc thừa nhận. Một lần nữa, chúng ta khám phá ra một Chúa Giêsu hiểu biết Kinh Thánh rất tinh tường và Người có thể trích dẫn theo trí nhớ từng câu một để chống lại mọi cuộc tranh luận.
Kiểu nói “giống như các thiên thần” có ý khẳng định rằng: việc kẻ chết sống lại không phải là trở lại đời sống trần thế, nhưng là một sự tái tạo dựng, không thể tưởng tượng được, một biến đổi tận căn của hữu thể nhân linh. Giáo huấn này dạy về tình trạng của những kẻ sống lại được kết thúc bằng sự khẳng định: “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 36), điều này làm cho họ sinh ra trong tình trạng thiên quốc, là tình trạng của các thiên thần (St 6, 2).
Thiên Chúa muốn con người được sống và sống dồi dào, tức là được tham dự sự sống vĩnh cửu của Ngài. Sự sống ấy chính là lời đáp cho những khắc khoải, khát vọng không ngừng của con người. Chính vì thế mà sự sống lại trong ngày sau hết phải là sức đẩy của đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo.
Cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “như các thiên thần”, nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa không để cho con người sống mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cải trên thế gian. Sống thật chính là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế.
2024
Bổn phận của công dân Nước Trời
4.6Thứ Ba trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
2 Pr 3:12-15,17-18; Tv 90:2,3-4,10,14,16; Mc 12:13-17
Bổn phận của công dân Nước Trời
Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do Thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharanaum (3, 6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.
Thái độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố làm sao cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Đó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liều chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?” Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy.
Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng Đavít, chắc hẳn Ngài không thể chấp nhận quyền bính ngoại xâm, và như vậy Ngài sẽ bảo họ không bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của Xêda, Ngài nói tiếp: “Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Nói khác đi, một khi đã hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của Xêda, thì có bổn phận đền đáp cho Xêda, nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài.
Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.
Đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy, những người thuộc phái Pharisiêu và phái Hêrôđê đến gặp Chúa Giêsu, hầu chất vấn và gài bẫy để bắt Người. Kể ra, cái bẫy mà họ giăng ra cũng lợi hại thật! Vì lẽ, nếu Chúa Giêsu nói “có” thì cũng mắc bẫy, mà nói “không” thì lại càng bị sập nặng nữa. Nếu nói có, thì họ sẽ cho là Chúa Giêsu theo đế quốc, phản lại dân tộc Do Thái; còn nếu nói không, thì Người sẽ phạm ngay một tội chính trị: không phục quyền hoàng đế La Mã.
Tuy nhiên, chúng ta thấy câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho họ hết sức ngạc nhiên về Người. Câu trả lời của Chúa chẳng những không làm cho Người mắc bẫy họ giăng, mà trái lại, còn làm cho họ sáng mắt ra. Thật đúng “gậy ông lại đập lưng ông” là thế! Chúa Giêsu đã dạy cho họ một nguyên tắc căn bản rằng: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Tuy nhiên, thực tế thì họ là những người biết trả thuế cho Caesar, nhưng chẳng những không làm đủ và đúng bổn phận với Thiên Chúa, mà còn tìm cách chiếm đoạt của “Ông chủ” nữa.
Câu chuyện trong đoạn Tin Mừng hôm nay xảy ra sau dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”. Vườn nho thuộc về ông chủ là Thiên Chúa, những tá điền là các nhà hữu trách tôn giáo Israel đã không trả hoa lợi lại cho ông chủ là Thiên Chúa, mà còn muốn chiếm làm của riêng mình và đang tâm giết cả người con yêu dấu của ông chủ. Đó là một hình thức lợi dụng tôn giáo cho mục đích riêng của mình. Ngày nay, người Công Giáo cũng như người ngoài Công Giáo cũng có thể lợi dụng tôn giáo dưới nhiều hình thức vì mục đích riêng của mình. Đơn cử, tôi cúng một số tiền lớn vào việc xây cất nhà thờ để được ghi tên vào sổ vàng; hay, tôi rất siêng năng đạo đức, nhưng hễ ai động đến tự ái của tôi là tôi liền nổi đóa lên ngay. Đó là những hình thức lợi dụng tôn giáo cách tinh vi để đưa mình lên, tuy chỉ có thể là vô tình.
Ta có thể tự bảo: người Do Thái đã lừa Chúa Giêsu để cho Người sập bẫy, phần tôi, tôi có lừa ai đâu! Có chứ: nói dối là lừa đảo; sống giả hình là lừa đảo; bán đồ dỏm là lừa đảo. Thế gian thường nói: “bề ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao”; hay “miệng thì nam mô, mà bụng thì lại một bồ dao găm”. Những hình thức giả dối, lừa đảo ấy xảy ra thường xuyên trong xã hội hôm nay. Vì thế, là người Công Giáo, chúng ta hãy nhớ Lời Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng: “có thì nói có, không thì nói không, thêm bớt vào là do ma quỷ” (Mt 5, 37).
Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc Xêda, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
2024
ĐỪNG SÁT NHÂN
3.6Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo
2 Pr 1:2-7; Tv 91:1-2,14-15,15-16; Mc 12:1-12
ĐỪNG SÁT NHÂN
Kitô giáo còn hoàn toàn mới lạ đối với Phi châu cho tới khi việc truyền bá đạo Công giáo bắt đầu khai mào từ năm 1879. Các linh mục là những tu sĩ dòng Thừa Sai Phi Châu. Các ngài được mọi người biết đến dưới tước hiệu “các cha áo trắng” vì các ngài mang bộ tu phục màu trắng.
Vua Mwanga chẳng biết Kitô giáo rao giảng những gì nhưng ông cảm thấy bực mình khi một tín hữu Công giáo là Giuse Mkasa khiển trách lối sống của ông. Vua đã sát hại một nhóm Kitô hữu và cả vị giám mục thân yêu của họ. Vua cũng can dự vào sinh hoạt đồng tính luyến ái. Ông đặc biệt ưa thích các chú tiểu đồng. Rồi sự bực mình của vua Mwanga trở nên phẫn nộ và căm thù đối với Giuse Mkasa và tôn giáo của anh. Một số giới chức tham tham của nhà vua đã kích động tâm trạng vua với những lời xu nịnh gian trá. Thế là vào ngày 18 tháng Mười Một năm 1885, Giuse Mkasa bị đem ra xử trảm. Cuộc bách hại khủng bố bắt đầu. Trước khi nó kết thúc, hàng trăm người đã bị thiệt mạng. Hai mươi hai người trong số họ được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Với cái chết của Giuse Mkasa, Carôlô Lwanga trở thành thầy dạy đạo chính yếu cho các chú tiểu đồng của vua. Vào ngày 26 tháng Năm năm 1886, vua Mwanga nhận thấy một số tiểu đồng của ông là tín hữu Công giáo. Ông cho gọi Đênis Sêbugwawo vào. Ông hỏi có phải Đênis đã dạy đạo cho các tiểu đồng không. Đênis trả lời phải. Nhà vua liền chụp lấy ngọn giáo của mình và phóng xuyên qua cổ họng chàng thanh niên. Rồi ông la lớn tiếng không cho phép ai được rời khỏi tổng hành dinh của ông. Tiếng trống đấu tranh vang lên thâu đêm. Trong một căn phòng kín ẩn, Carôlô Lwanga đã bí mật rửa tội cho bốn chú tiểu đồng. Một em trong bọn trẻ là thánh Kizitô, chú bé mười ba tuổi có tính tình vui tươi quảng đại. Kizitô là người bé nhất trong nhóm. Thánh Carôlô Lwanga thường hay bảo vệ Kizitô thoát khỏi lòng ham muốn dâm dật của vua Mwanga.
Hầu như hai mươi hai vị thánh tử đạo Uganđa này đã bị giết chết vào cùng ngày mùng 3 tháng Sáu năm 1886. Các ngài bị bắt đi bộ chừng năm mươi chín cây số đến nơi hành quyết. Sau ít ngày bị giam tù, người ta ném các ngài vào một đống lửa lớn. Mười bảy người trong số ấy là những chú tiểu đồng thuộc vương gia. Một trong các cậu bé tử đạo là thánh Mbaga. Hôm ấy chính thân phụ ngài là người đao phủ. Một vị tử đạo khác là thánh Anrê Kagwa, mất ngày 27 tháng Giêng năm 1887, cũng ở trong số hai mươi hai vị tử đạo được đức thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1964.
Carôlô Lwanga là thánh bổn mạng của giới trẻ da mầu Phi châu. Ngài và các bạn tử đạo đã hết sức hiểu rõ và quý trọng ơn đức tin của mình. Các ngài đã là những anh hùng! Chúng ta hết thảy hãy cầu xin cùng thánh Carôlô Lwanga và các thánh tử đạo Phi châu này. Hãy xin các ngài chỉ cho chúng ta biết cách làm chứng cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội như các ngài.
Trong dụ ngôn chúng ta nghe hôm nay, ông chủ vườn nho ám chỉ Thiên Chúa; còn các tá điền sát nhân ám chỉ các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão được nói tới trong Mc 11, 27. Những người này có trách nhiệm và bổn phận chăm sóc Israel, là vườn nho, nhưng đã không biết làm cho vườn nho (12, 1) sinh lời.
Trái lại, họ đã ngược đãi các đầy tớ của “ông chủ” là “các ngôn sứ”. Và rồi, nhân vật cuối cùng được cử đến là chính Chúa Giêsu – Người Con yêu dấu của “ông chủ”. Tuy nhiên, vì muốn chiếm đoạt gia tài, nên họ đã bắt và đã giết chết Người ngoài Giêsusalem (bên ngoài vườn nho). Do vậy, vườn nho sẽ được giao lại cho người khác, là các tín hữu gốc dân ngoại. Còn, đá tảng chỉ về Chúa Giêsu (Tv 118, 12). Người như đá tảng góc tường làm vững chắc ngôi nhà.
Dụ ngôn khắc hoạ rõ nét cho chúng ta chân tướng của kẻ cướp. Họ không phải là chủ mà là người làm thuê. Thế mà họ toa rập với nhau, đánh đập, bắt bớ, làm hại hết người này đến người khác vốn là sứ giả của chủ. Rồi cả đến người con duy nhất, họ cũng giết đi và kéo ra khỏi vườn nho hòng âm mưu cướp cả vườn nho. Từ kẻ tá điền, họ muốn đổi ngôi thành ông chủ, từ người làm thuê, họ muốn đóng vai người định đoạt vận mệnh của chủ vườn. Chỉ chi tiết này thôi cũng gợi lên cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Xem ra tội kiêu căng ngạo mạn đang trở nên quá phổ biến trong thế giới chúng ta sống đây. Adam và Eva đã đi quá làn ranh đỏ của việc ăn trái cấm, muốn gnang bằng Thiên Chúa. Thứ AND kiêu ngạo ấy vẫn ngấm trong máu chúng ta và di truyền ngàn đời. Càng tân tiến, con người càng tưởng mình có thể làm được mọi sự, thay Chúa định đoạt mọi sự. Đức Giáo Hoàng Phanxicô có lần đã nói đại ý rằng, Chúa đang trở nên mờ nhạt vì cái tôi quá lớn của con người. Phải, như dụ ngôn nói, họ còn giết và kéo đứa con duy nhât của chủ ra khỏi vườn. Chủ thuyết duy vật và tục hoá của thế giới hôm nay cũng muốn loại Thiên Chúa ra khỏi thế giới mà Ngài dựng nên cách tốt đẹp, có tự do để cho chúng ta giết chết Ngài và loại bỏ Ngài như thế.
Chúng ta thấy, khi nghe dụ ngôn, người Do Thái đã hiểu ngay là Chúa Giêsu muốn ám chỉ về họ. Do vậy, họ đã định tâm tìm cách bắt Người. Nhưng tại sao thay vì ăn năn hối cải, họ lại muốn bắt và loại trừ Chúa Giêsu?
Thực ra, họ đã muốn loại trừ Chúa Giêsu từ lúc Người mới sinh ra tại Bêlem, khi Người còn là một hài nhi bé bỏng, chưa thể nói ra được một lời nào. Vì thế, nguyên nhân ý đồ của họ không phải là do lời giảng dạy của Chúa Giêsu đã chạm tự ái họ, nhưng vì sự có mặt của Người đã làm xáo trộn cuộc sống ổn định của họ. Hêrôđê thì sợ mất ngôi vua, còn các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão thì lại sợ mất chỗ đứng của họ. Vì lẽ, trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, họ là những người có địa vị, những đấng bậc được trọng vọng nhất. Đó là lý do sâu xa!
Ngày nay cũng thế, muốn sống Lời Chúa thì buộc ta phải thay đổi sao cho phù hợp với tin thần Phúc Âm. Đây là điều mà không mấy người dễ chấp nhận, bởi vì sự thay đổi như thế sẽ đem đến sự xáo trộn trong cuộc sống đã ổn định, bắt ta phải hy sinh và từ bỏ nhiều thứ. Vì thế, ta không tìm cách loại trừ Chúa, nhưng lại loại trừ Lời Chúa, và loại trừ cả những đòi hỏi của Lời Chúa nữa. Đó là nghịch lý của cuộc sống!
2024
Thứ Hai Tuần IX – Mùa Thường Niên
Thứ Hai Tuần IX – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 24,16.18
Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con,
vì thân này cô đơn, nghèo khổ.
Xin thấy cho cảnh lầm than khổ cực
và tha thứ hết mọi tội con.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa quan phòng mọi sự và an bài thật khôn ngoan, tất cả đều xảy ra như Chúa muốn; xin đẩy xa những gì nguy hại và rộng ban muôn điều lợi ích cho chúng con. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
2 Pr 1,2-7
Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phê-rô tông đồ.
2 Anh em thân mến, chúc anh em được đầy tràn ân sủng và bình an, nhờ được biết Thiên Chúa và Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
3 Thật vậy, Đức Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. 4 Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.
5 Chính vì thế, anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, 6 có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, 7 có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại thêm bác ái.
Đáp ca
Tv 90,1-2.14-15ab.15cd-16 (Đ. x. c.2b)
Đ.Lạy Thiên Chúa, con tin tưởng vào Ngài.
1Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao
và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối,2hãy thưa với Chúa rằng :
“Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài.”
Đ.Lạy Thiên Chúa, con tin tưởng vào Ngài.
14Chúa phán : Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát,
người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì.15abKhi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại
lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên.
Đ.Lạy Thiên Chúa, con tin tưởng vào Ngài.
15cdTa giải cứu và ban nhiều vinh dự,16cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy
và hưởng ơn cứu độ Ta ban.
Đ.Lạy Thiên Chúa, con tin tưởng vào Ngài.
Tung hô Tin Mừng
- Kh 1,5ab
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, Chúa đã yêu mến chúng con, và đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng con. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 12,1-12
Họ đã bắt người con yêu dấu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
1 Khi ấy, Đức Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, kinh sư và kỳ mục. Người nói : “Có người kia trồng được một vườn nho ; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 2 Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. 3 Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. 4 Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. 5 Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác : kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. 6 Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu : người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ ; ông nói : ‘Chúng sẽ nể con ta.’ 7 Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau : ‘Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.’ 8 Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. 9 Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì ? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. 10 Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. 11 Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta !”
12 Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng ; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, tin tưởng vào lòng Chúa từ bi nhân hậu, chúng con cùng đến đây thành kính dâng của lễ lên bàn thờ, và tha thiết nguyện cầu Chúa ban ơn cho chúng con được thanh tẩy nhờ thánh lễ chúng con cử hành. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúa đã tác thành mọi sự trong vũ trụ, đã sắp đặt cho thời gian thay đổi tuần hoàn.
Còn loài người, Chúa đã dựng nên giống hình ảnh Chúa và bắt mọi sự kỳ diệu quy phục loài người để họ thay quyền Chúa thống trị mọi loài Chúa đã sáng tạo và luôn ca tụng Chúa vì muôn việc kỳ diệu Chúa đã làm, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Bởi vậy, trong khi cử hành lễ hân hoan này, cùng với toàn thể các Thiên thần, chúng con ca ngợi tung hô Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 16,6
Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa,
vì Ngài đáp lời con.
Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa nhân từ, Chúa đã cho chúng con dự tiệc Thánh Thể; xin ban Thánh Thần xuống hướng dẫn chúng con, để chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm hầu đáng được hưởng vinh quang thiên quốc. Chúng con cầu xin…