2024
KHIÊM TỐN – ĐỪNG TRANH LUẬN
Thứ Bảy Thánh Justin, Tđ
Gđt 63:2,3-4,5-6; Mc 11:27-33
KHIÊM TỐN – ĐỪNG TRANH LUẬN
Vào năm 1874, vị thánh tử đạo này lần đầu tiên được đưa vào lịch Giáo triều Rôma. Từ nay, lễ nhớ ngài được mừng cùng ngày với các Giáo hội Byzantin và Maronite.
Justinô sinh tại Flavia Neapolis (Naplouse, vùng Samari) vào đầu thế kỷ II, dòng dõi ngoại đạo và có lẽ gốc Rôma. Niềm khao khát học hỏi thúc đẩy ngài đến với nhiều trường phái triết học (như trường phái khắc kỷ, phái tiêu dao -Péripatéticien, phái Pythagore, Platon). Vì thế ngài đã gặp tại Êphêsô một nhà hiền triết. Ông khuyên ngài nên nghiên cứu Cựu Ước và trách ngài: “Bạn yêu thích nghệ thuật hùng biện. Nhưng chắc chắn bạn không phải là người yêu thích hành động và công lý” (Đối thoại với Tryphon, người Do Thái, 3,3).
Sau khi gia nhập Kitô giáo, khoảng năm 130, ngài đi Rôma. Tại đây, ngài mở một trường học khá nổi tiếng, và trong đám thính giả có Tatien, sau này là Giáo phụ hộ giáo. Chúng ta chỉ giữ lại được ba trong tám tác phẩm của ngài: hai quyển Minh Giáo và tập Đối thoại với Tryphon là tác phẩm lưu giữ các cuộc thảo luận với người Do Thái này.
Về cái chết của ngài, chúng ta chỉ biết qua hạnh sử kể lại cuộc tử đạo của ngài: ngài bị Crescent, triết gia phái Khuyển Nho (Cynigne) tố cáo, và bị chém đầu với sáu môn đệ khác khoảng năm 165, dưới thời tổng trấn Junius Rusticus. “Như thế các thánh tử đạo … đã dùng cái chết anh dũng của mình để tuyên xưng Đấng Cứu độ của chúng ta”
Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, nhóm thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã mở đầu cuộc “đối thoại” bằng lời chất vấn: “Ông lấy quyền gì mà làm điều đó?”. Họ chất vấn về việc Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ. Dường như Chúa Giêsu “thiếu thiện chí đối thoại” khi Người không chịu trả lời họ nếu họ không trả lời vấn nạn của Người trước đã: “Phép rửa của Gioan do Thiên Chúa hay do người ta?”. Trả lời cho câu hỏi này là điều kiện dẫn đến câu trả lời kia. Những người Do Thái biết điều đó nên họ mới thực sự là thiếu thiện chí khi họ lập kế hoãn binh, lảng tránh câu trả lời của chân lý bằng cách trả lời “không biết”. Sự thiếu thiện chí ấy, một ngày kia sẽ lộ diện thành một thứ “lý kẻ mạnh”: thượng tế Caipha sẽ xé áo mình, nhân danh Thiên Chúa để kết án tử hình Đức Giêsu.
Chúng ta chứng kiến một cảnh đối thoại, nhưng thật ra đó chỉ là một cách gài bẫy để bắt bẻ Chúa: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” Chúa Giêsu nhận thấy thái độ không thành thật của họ nên Ngài hỏi vặn lại: “Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?” Cách thức trả lời của những kẻ chống đối của Chúa cho thấy họ đã tìm ra giải đáp cho câu hỏi họ đặt ra. Họ không thể chối cãi sự kiện phép rửa của Gioan là từ Trời, do quyền của một vị Tiên tri. So sánh phép rửa của Gioan với những việc làm và những phép lạ của Chúa Giêsu mà họ đã chứng kiến, thì chắc chắn những phép lạ của Chúa hơn phép rửa của Gioan. Do đó, theo lý luận nghiêm chỉnh và và thành thật, những kẻ chống đối Chúa phải biết Chúa đã lấy quyền từ đâu để làm các điều ấy.
Ai tránh né đối diện với sự thật, bóp méo và vặn cong sự thật sẽ phải lâm vào tình trạng vô vọng, phải chịu ngậm miệng mà không thốt được lời nào. Người dám đối diện với chân lý, có thể sẽ phải xấu hổ tự nhận rằng mình sai hoặc có thể phải đứng ra làm chứng cho sự thật, nhưng ít ra tương lai người ấy cũng còn xán lạn, vững mạnh. Kẻ không dám đối diện với chân lý sẽ chẳng còn gì khác hơn là cứ ngày càng chìm sâu hơn vào một tình trạng khiến kẻ ấy phải gặt lấy tuyệt vọng và chịu bó tay chẳng xoay trở gì được.
Khi suy tư về điều này, chúng ta cũng nhận ra bài học cho đời sống đức tin của mình: Để đối thoại chẳng những phải tôn trọng người đối thoại mà còn phải tôn trọng chân lý. Có phải trong gia đình mình, trong cộng đoàn của mình có những sự căng thẳng, xào xáo, đổ vỡ là vì các thành viên cũng đang thiếu tôn trọng lẫn nhau, thiếu tôn trọng chân lý, và đang dùng “lý của kẻ mạnh”?
Mỗi chúng ta hãy đấm ngực mà xét lại bản thân mình, để biết loại bỏ những lời nói, cử chỉ nóng giận, khiếm nhã và thể hiện tinh thần tôn trọng, lắng nghe đối với mọi người nhất là những người nhỏ bé, yếu đuối.
Tinh thần chân thành và đối thoại vốn là tinh thần của Phúc Âm. Là con người hiếu hòa, Chúa Giêsu cũng tỏ ra chân thành và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Chúa Giêsu lại giữ thái độ yên lặng, như khi Ngài đứng trước Caipha, Hêrôđê, Philatô. Nhưng trường hợp những kẻ đối thoại bắt bẻ điều gì, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài. Ngài cũng đáp lại bằng một phương thế khác, khi những người đối thoại muốn gây áp lực để buộc Chúa phải trả lời, như khi họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho Hoàng đế César không hoặc có nên ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình không?
Như thế, câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?” là câu hỏi để đánh thức lương tâm và kêu gọi đến sự thành thật nơi những kẻ chống đối Ngài. Chỉ những ai chấp nhận đi theo con đường sự thật với lòng chân thành, người đó mới vào được Nước Chúa và được cứu rỗi. Để có thể vào Nước Chúa, những kẻ chất vấn Chúa trong Tin Mừng hôm nay, cần phải canh tân đời sống, cần phải có lòng chân thành, lương tâm ngay chính và tinh thần phục thiện.
Chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình và xét xem chúng ta đã sống thế nào? Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhận biết sự thật, khiêm tốn đón nhận và sống sự thật của Chúa cho đến cùng.
2024
Thăm viếng yêu thương phục vụ
31.5 Đức Mẹ thăm viếng Bà Thánh Isave
1 Pr 4:7-13; Tv 96:10,11-12,13; Mc 11:11-26
Thăm viếng yêu thương phục vụ
Thăm viếng! Một nhu cầu hết sức tự nhiên, hết sức bình thường của con người và chuyện bình thường như thế thì có gì đâu để mà nhớ, để mà mừng. Mỗi một cuộc thăm viếng mang ý nghĩa, mang niềm vui, mang ý nghĩa khác nhau nhưng cuộc thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria hết sức đặc biệt để rồi ngày hôm nay Giáo Hội mừng kính cuộc thăm viếng của Mẹ. Cuộc thăm viếng của Mẹ được trọn vẹn niềm vui bởi vì Mẹ đã lên đường một cách vô vị lợi và Mẹ đã mang Chúa đến cho người khác.
Thánh Sử Luca ghi lại rất ngắn gọn: “Khi ấy, bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1, 39). Đơn giản thế thôi: đi đến miền núi. Ngày hôm nay đi lên miền núi cũng là một điều khó khăn huống hồ gì thời của Đức Mẹ. Nếu như tính toán về phương tiện đi lại, điều kiện vật chất thì chẳng ai dại gì mà đi đến cái vùng núi xa xôi hẻo lánh như vậy. Vượt trên cách trở của địa lý và vượt trên sự tính toán thường tình của con người, Mẹ Maria đã ra đi và ra đi một cách “vội vã”. Thánh Sử thêm chữ “vội vã” như muốn nói về lòng hăng say, nhiệt tình của Mẹ dù là lên núi khó khăn cách trở. Nếu lên núi với cái bộ mặt ũ rũ, với cái thái độ lề mề chậm chạp chắc có lẽ là chán lắm, đàng này Đức Mẹ đã “vội vã”!
Một cách diễn tả đơn sơ, vài ba hàng ngắn gọn, chúng ta nhận ra Đức Maria đã đi thăm bà chị họ mình với một tâm tình hết sức là dễ thương, nhiệt tình, chịu thương, chịu khó …
Đặc biệt hơn các cuộc thăm viếng khác ở chỗ là vừa vào nhà, bà Êlisabét nghe tiếng Bà Maria chào thì bỗng dưng đứa con trong bụng nhảy lên. Không chỉ đứa con trong bụng nhảy lên mà mẹ nó được “đầy Thánh Thần”. Đến đây thì quá rõ, chẳng còn gì phải bàn cãi nữa, cuộc thăm viếng của Đức Mẹ quả thật là hết sức đặc biệt và đầy ý nghĩa.
Cuộc thăm viếng của Mẹ vốn đã có ý nghĩa nhưng với xã hội ngày hôm nay, ý nghĩa ấy lại càng được nhân lên gấp bội vì lẽ ngày hôm nay, người ta tính toán với nhau nhiều quá, người ta đã khép lòng lại với anh chị em đồng loại nhiều quá! Và có đi thăm đi chăng nữa cũng chỉ với cái hình thức của con người, của cuộc đời là “có qua có lại mới toại lòng nhau” chứ không còn mang ý nghĩa vô vị lợi như Mẹ nữa. Hơn nữa, khi Mẹ thăm viếng, Mẹ đã không chỉ tung hô Chúa, giới thiệu Chúa mà còn mang Chúa lại cho người khác. Và trong cuộc đời, nếu nhìn kỹ một chút, nếu chìm lắng một chút: có Chúa là có tất cả.
Và thử dừng lại một chút để nhìn lại cuộc đời của Mẹ. Đâu phải bỗng dưng hay vô tình mà Mẹ có Chúa và Mẹ mang Chúa cho người khác. Nếu như Mẹ không có Chúa thì làm gì Mẹ có thể mang Chúa cho người khác, Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa trong đời Mẹ cho người khác được.
Điểm này trong cuộc thăm viếng của Mẹ hết sức quan trọng: muốn mang Chúa, muốn giới thiệu Chúa cho người khác thì trong mình, trước tiên phải có Chúa. Và muốn có Chúa như Mẹ, cần và cần lắm đời sống chiêm niệm, đời sống đơn sơ hoàn toàn tín thác cho Chúa.
Nếu như Đức Maria ồn ào náo động như nhiều người Do Thái cùng thời với Mẹ thì làm sao mà Mẹ có Chúa được? Nếu như Đức Maria trông chờ vào Đấng Mêsia như nhiều người Do Thái thời ấy trông chờ thì làm sao mà Mẹ cưu mang Đấng Cứu Độ trần gian thật được? Và nếu như Đức Maria là người sống bề ngoài, sống cái bề nổi của cuộc đời thì làm sao mà Mẹ khiêm tốn sống trong sự quan phòng của Chúa được.
Nơi Mẹ Maria, có một dấu ấn hết sức đặc biệt đó là Mẹ hết sức quảng đại. Chúng ta, ngày hôm nay, nhiều khi cứ vun vén cho bản thân mình với lối sống đậm chất của ích kỷ, của vun vén nên hình ảnh quảng đại của Mẹ ngày hôm nay cũng là một bài học hết sức to lớn của mỗi người chúng ta. Khi Mẹ cho đi niềm vui thì niềm vui của Mẹ không chỉ nhân hai, nhân bốn mà nhân đến vô cùng.
Thế nên, cuộc thăm viếng của Mẹ hôm nay không chỉ mang niềm vui cho gia đình Êlisabét mà còn mang lại niềm vui cho những ai tự xưng mình là con của Chúa, là con của Mẹ.
Nếu là con của Mẹ thật thì mỗi một cuộc thăm viếng của ta cũng phải giống như Mẹ, nghĩa là cuộc thăm viếng ấy hoàn toàn vô vị lợi và cuộc thăm viếng ấy mang Chúa cho người khác. Có quá đáng chăng khi nói rằng thăm viếng vô vị lợi và có Chúa thì cuộc thăm viếng ấy mới có ý nghĩa và mang niềm vui trọn vẹn. Nếu thăm viếng mà ẩn ý dưới một nguồn lợi nào đó hay là cuộc thăm viếng ấy mình chỉ đi tìm mình thì cũng vui lắm nhưng nó chưa tròn vẹn và chưa mang ý nghĩa cao đẹp như Mẹ.
Thi thoảng có dịp nhìn lại cuộc thăm viếng của Mẹ để ta soi chiếu những cuộc thăm viếng của ta. Xin Mẹ nâng những cuộc thăm viếng của chúng ta thêm tầm cao lên một chút, thêm ý nghĩa lên một chút. Xin Mẹ soi sáng, giúp đỡ chúng ta có những cuộc thăm viếng tròn vẹn ý nghĩa như cuộc thăm viếng của Mẹ với gia đình Êlisabét xưa vậy.
2024
KHIÊM TỐN XIN CHÚA CHỮA LÀNH
30.5 Thứ Năm trong tuần thứ Tám Mùa Quanh Năm
Pr 2:2-5,9-12; Tv 100:2,3,4,5; Mc 10:46-52
KHIÊM TỐN XIN CHÚA CHỮA LÀNH
Thời Chúa Giêsu y khoa chưa phát triển, những bệnh tật về mắt ở thời đó thật là bi thảm, hy vọng chữa khỏi thực tế coi như không có. Người mù chẳng có cách thế phục hồi và sớm muộn phải lâm vào số phận những người đi ăn xin. Việc chữa khỏi mù thời ấy hầu như mang tính chất một cuộc cải tử hoàn sinh. Người ta coi những người mù và phong hủi là những “đại diện ưu tiên” của nỗi khốn khổ của con người.
Trong mọi tập tục tôn giáo, thể thức chữa trị tật nguyền này đóng một vai trò quan trọng. Ở thời Chúa Giêsu, người ta coi đó là dấu chỉ thiên sai. Chẳng thế mà khi người ta hỏi Người có phải thật là Đấng Mêsia không, thì Người đã trưng dẫn việc Người chữa lành những người mù dể làm bằng chứng.
Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Đức Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.
Hôm nay, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Đức Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa.
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Anh mù đến với Chúa bằng chính thực tại đau thương của mình và trông cậy vào tình thương của Chúa: “Lạy con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi”. Ðây là lời cầu xin của một tâm hồn khiêm tốn và tin tưởng, như Chúa Giêsu đã ghi nhận sau khi chữa lành anh: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Ðức tin nơi anh mù đã giúp anh vượt qua thử thách, người ta càng ngăn cản anh, anh càng kêu to hơn cho đến khi được Chúa nghe thấy và cho gọi anh lại.
Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu… thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.
Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn, kiên trì chờ đợi gặp Chúa không? Chúng ta có ý thức mình cần đến ơn Chúa, cần đến tình yêu và sự tha thứ của Chúa không? Như anh mù, chúng ta hãy thưa: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy những kỳ công Chúa đã và đang thực hiện trong lịch sử nhân loại và trong chính đời sống chúng ta, để chúng ta trở thành bài ca tôn vinh Chúa luôn mãi.
2024
QUA SỰ CHẾT MỚI ĐẾN VINH QUANG
29.5 Thứ Tư trong tuần thứ Tám Mùa Quanh Năm
1 Pr 1:18-25; Tv 147:12-13,14-15,19-20; Mc 10:32-45
QUA SỰ CHẾT MỚI ĐẾN VINH QUANG
Thiên Chúa yêu thương con người và đáp lời yêu thương đó bằng cách cụ thể là gửi Con Một từ trời xuống cứu độ con người. Nhưng không phải bằng bạo quyền thống trị theo thói người đời. Như hai anh em nhà Dê-bê-đê lầm tưởng. Nhưng bằng khiêm nhường phục vụ. Đến hi sinh mạng sống.
Chúng ta thấy như Chúa dạy dỗ các tông đồ: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Con đường của Chúa là con đường khiêm nhường. Hạ mình để phục hồi anh em. Chịu chết để cứu sống anh em. Chịu nhục nhã để anh em được vinh quang.
Vì thế Chúa quả quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Điều đó khiên các môn đệ kinh hoàng. Nhưng đó mới là con đường vinh quang. Chúa được vinh quang. Và Chúa phục hồi ta trong vinh quang.
Chính vì thế thánh Phê-rô khuyên nhủ chúng ta. Trước hết phải nhận biết sự thật. Chúng ta được phục hồi không phải do thế lực trần gian. Nhưng do bửu huyết của Chúa Giê-su. Chúa đi vào con đường khiêm nhường phục vụ. Chịu chết rồi phục sinh. Đó là niềm hi vọng của chúng ta. Nếu đã biết sự thật. Ta hãy thanh luyện tâm hồn khỏi các thế lực trần gian. Hãy biết khiêm nhường phục vụ lẫn nhau. Yêu thương nhau: “Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi”
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có thể ví như nước thủy triều dâng. Tại sao thế? Thưa! Vì Đức Giêsu đang tiến dần đến cái chết của Ngài. Ngài tiến gần cả về địa lý lẫn thời gian cũng như khung cảnh bề ngoài.
Về mặt địa lý, Ngài đang lên gần đến thành Giêrusalem;
Về thời gian, đây là thời điểm thuận lợi để những người Pharisêu, Kinh Sư và những kẻ không ưa Ngài dễ dàng thực hiện ý định giết Ngài;
Về tâm lý, việc Ngài giảng dạy hấp dẫn và những việc Ngài làm thu hút dân chúng, nên người ta không ngớt lời khen ngợi, đây là dịp châm ngòi cho sự ghen tương sẵn có nơi giới lãnh đạo Dothái.
Vì thế, Ngài đã loan báo lần cuối cùng về số phận của Người Tôi Trung: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết”.
Chết là quy luật không thể bỏ qua cho những ai muốn sống. Không có sự chết, không có phục sinh. Nhưng điều quan trọng là chết như thế nào và làm sao phải chết? Đây mới là điều cốt lõi.
Chúa Giêsu đề cập đến cái chết của Ngài như một con đường tất yếu phải đi qua. Giữa lúc mọi người đang thán phục về những lời rao giảng và các phép lạ của Ngài, giữa lúc mọi người đang chờ những điều phi thường hơn nữa, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết”.
Chết là điều tất yếu của thân phận làm người. Ðã nhập thể làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi định luật ấy. Thế nhưng, khi loan báo về cái chết của mình, Chúa Giêsu muốn nối kết nó với sứ mệnh của Ngài. Sứ mệnh của Ngài chỉ được thực hiện bằng con đường sự chết. Người ta chống đối Ngài, người ta giết chết Ngài vì cuộc sống, lời nói và việc làm của Ngài là một tố cáo tội ác của con người; Ngài bị chống đối đến cùng, vì cuộc sống và sứ mệnh của Ngài là một hành trình đi ngược dòng đời.
Người Kitô hữu đích thực cũng không thể tránh được số phận ấy. Là chứng nhân của Ðấng đã đi ngược dòng đời, họ cũng không thể thoát khỏi những chống đối. Cái chết âm thầm, cái chết từng giây phút chống lại tội lỗi và sự dữ là điều tất yếu trong cuộc sống người môn đệ Chúa Kitô; có chết như thế, họ mới biết rằng mình đang đi đúng con đường của Chúa Kitô, con đường dẫn đến sự sống đích thực.
Dù sống trong nghèo nàn, dù sống trong cơ cực, khổ đau, xin cho chúng ta luôn vững tin vào Ðấng đã đi qua con đường sự chết để dẫn đưa chúng ta vào cõi trường sinh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu, đó là vì yêu thương mà không chịu xã hội mua chuộc; không chấp nhận sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen mà đánh mất tinh thần vâng phục cũng như sứ vụ cứu rỗi nhân loại… Vì thế, Đức Giêsu đã chấp nhận chết vì yêu, vì sứ vụ.
Mỗi người Kitô hữu cần phải xác định rõ quy luật tất yếu này là: nếu ta thuộc về Đức Kitô, ấy là chúng ta chấp nhận đi cùng Ngài để lội ngược dòng. Khi lội ngược dòng như thế, chúng ta sẽ không tránh khỏi sự thù nghịch, khinh khi, và ngay cả mạng sống.